MỐI
QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CNXH: Chủ tịch HCM khẳng định: “Nếu nước độc
lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì”.
Đ/c hãy phân tích rõ luận điểm đó và kiên hệ với giai đoạn cách mạng hiện nay.
Bài làm
Tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với CNXH chính là sản phẩm của sự kết hợp
chủ nghĩa Mac-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam;
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc vừa là
sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại, vừa thể hiện tinh thần độc
lập, tự chủ, sáng tạo của Người; Đó là lý luận về cách mạng giải phóng dân
tộc,và tiến lên CNXH ở các nước thuộc địa; là tư tưởng giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng con người, mà hạt nhân trung tâm là độc lập gắn liền
với CNXH. Đất nước được độc lập thống nhất, nhân dân được tự do hạnh phúc là
mục tiêu phấn đấu cả cuộc đời của Người. Vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH luôn là một trong những vấn đề trung tâm và được thể hiện rõ ràng, xuyên
suốt trong quá trình hoạt động cách mạng của Người ở trong nước và trên thế
giới. Ở Hồ Chí Minh, Người không có ham muốn nào hơn là đất nước được độc lập,
nhân dân được ấm no, hạnh phúc; Điều đó càng được khẳng định rõ hơn khi Người
nói: Nếu nước độc lập mà dân không được
hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì. Để làm rõ luận điểm
trên, Chúng ta cùng phân tích mối quan hệ giữa độc lập dân tộc phải gắn với con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Mục tiêu độc lập – dân tộc gắn liền
với CNXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ hai cơ sở là: cơ sở lý
luận và cơ sở thực tiễn; Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX; khi đất nước Việt Nam bị thực
dân Pháp xâm lược, dân tộc ta phải chịu khổ cực dưới hai tầng áp bức của bọn
thực dân đế quốc và bọn phong kiến; nhiều phong trào yêu nước của nhân dân ta
nổi lên đấu tranh chống bọn thực dân đế
quốc, bọn phong kiến nhưng tất cả đều bị
thất bại; vì vậy, trong nhận thức về con đường giải phóng dân tôc, Hồ Chí Minh
đã sớm nhận ra hạn chế của các nhà yêu
nước đương thời. Do chưa có một đường lối
kháng chiến rõ ràng, bất cập trước lịch sử, dựa
trên ý thức hệ phong kiến hoặc xu hướng dân chủ tư sản nên không tránh khỏi
thất bại và bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp các phong trào yêu nước của nhân
dân ta. Từ đó, HCM đã bắt đầu đi tìm con đường cứu nước mới. Trong quá trình
bôn ba ở nước ngoài, HCM đã khảo sát tất cả các điển hình thế giới từ nước
Pháp, các nước ở Châu phi, Mỹ, Anh, Nga nhằm tìm hiểu kẻ thù của dân tộc, thế
giới văn minh và tìm hiểu các cuộc cách
mạng lớn trên thế giới, khảo sát, tìm hiểu nghiên cứu các kiểu nhà nước và cuộc
sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức. Từ đó,
Người đã nêu ra hai phương diện và rút ra kết luận: cách mạng tư sản không
triệt để vì không giải phóng được con người, không
mang lại lợi ích cho toàn thể nhân dân lao động vì thế Người cho rằng làm cách
mạng không nên theo cách mạng tư sản. Cách mạng tháng Mười Nga là cuộc cách
mạng vô sản, là cuộc cách mạng triệt để, đem lợi ích đến cho toàn thể nhân dân
lao động và chế độ thuộc địa, nhà nước thuộc địa Người kết luận đo ùlà chế độ
dã man nên cần phải đánh đổ nó đi. Đặc biệt, khi tiếp xúc với luận cương
của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, HCM đã tìm
thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước giải phóng dân tộc; đây chính
là cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự kiện đó đánh dấu bước nhảy vọt về chất
trong tư tưởng HCM, từ CN yêu nước đến CN Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác
ngộ giai cấp từ người yêu nước thành người cộng sản. Lý luận về cách mạng không
ngừng của Lênin có ảnh hưởng rất sâu sắc
đến tư tưởng của Người, cho thấy sự gắn
bó chặt chẽ giữa 2 cuộc cách mạng: cách mạng
giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN, cách mạng giải phóng dân tộc là
tiền đề cho cách mạng XHCN và cách mạng XHCN là sự khẳng định của thành quả
cách mạng của giải phóng dân tộc.
Theo TT HCM con người vừa là mục tiêu vừa là động lực tong công cuộc giải
phóng dân tộc và xây dựng XH mới XHCN.Vấn đề con người có vị trí cao nhất và
bao trùm, là chiến lược của mọi chiến lược. Là nhân tố tạo ra động lực để tiến
hành đổi mới XH,sự nghiệp giải phóng con người là mục tiêu cao nhất nhằm định
hướng mọi hoạt động thực tiễn.
Quán triệt TT HCM ,
NQ5 của Bộ Chính Trị khoá 6 viết:” phải quán triệt quan điểm cơ bản của Đảng là
coi trọng con người, coi con người là động lực quan trọng nhất, là mục tiêu
phục vụ và xây dựng của mọi hoạt động kinh tế-
xã hội như vậy, động lực CM XHCN ở nước ta theo TT
HCM có cả đông lực vật chất lẫn động lực
tinh thần song con người là quyết định.
HCM nhiều lần chỉ rõ:”muốn xây dựng CNXH, trước hết phải
có con người XHCN”. Đó là những con người có phẩm chất và năng lực , có trình
độ chính trị, văn hoá, KHKT và chuyên môn nghiệp vụ.HCM đòi hỏi mỗi con người
cần kết hợp chặt chẽ hồng với chuyên,đức với tài, trong đó đức là gốc.HCM luôn
luôn chăm lo vun trồng, XD nền VH mới VN. Theo HCM muốn tiến lên CNXH thì phải
phát triển VH để phục vụ sự nghiệp CM XHCN thi VH phải XHCN về nội dung và dân
tộc về hình thức.
HCM cho rằng phải đẩy mạnh XD cơ sở vật chất đồng thời phải phát huy
những yếu tố tinh thần .
Về XD nền KT theo TT HCM bước vào thời kỳ XD cần chú
trọng phát triển KT, nước độc lập tự do phải gắn liền với dân được cơm no áo
ấm. Ngay từ năm 1953, HCM đã viết trong chế độ dân chủ mới có 5 thành phần KT:
KT quốc doanh, KT HTX, KT của cá nhân,nông dân và thợ thủ công, tư sản của tư
nhân, tư bản nhà nước.HCM nhấn mạnh phải coi công nghiệp và nông nghiệp gắn bó
chặt chẽ với nhau như 2 chân đi khoẻ và đi đều thiø chóng đi tới đích và về CT thì liên minh công nông
được củng cố vững chắc.
Về yêu tố tinh thần
, HCM quan tâm đến việc đẩy mạnh phát triển văn hoá – giáo dục ; phát động
nhiều phong trào thi đua CM nhằm phát huy các yếu tố tinh thần. Người luôn luôn
phát huy nhân tố con người, mở rộng dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân. Đáp ứng nhu cầu thích đáng lợi ích chân chính của người lao động, chú ý
công bằng XH và sự hài hoà của nhân dân. Tập trung đầu tư và phát triển nguồn
lực con người, coi giáo dục , khoa học công nghệ thật sự là quốc sách hàng đầu.
Chăm lo bồi dưỡng và đào tạo con người và đội ngũ CB có phẩm chất CT vững vàng, trung thành với lý tưởng CM, có
trình độ chuyên môn và năng lực thực tiễn, có ý thức tô chức kỷ luật, gương mẫu
trong đạo đức và lối sống . Tóm lại là những con người”phải có đủ đức và tài,
tong đó đức là gốc”.
Về XD lực lượng, HCM cho rằng phải tập chung cũng cố khói
đại đoàn kết toàn dân. Mặt trận dân tộc thống nhất có vai trò hết sức quan
trọng, MT lấy CN, ND trí thức làm nồng cốt. Tạo sức mạnh về mặt tổ chức, ý
nghĩa của MT DT thống nhất HCM nêu “ trong CM DTDC ND cũng như trong CM XHCN,
MT DT thông nhất vẫn là 1 trong những lực lượng to lớn của CM VN. “
Theo Hồ
Chí Minh, Đối với các nước thuộc địa như
nước Việt Nam giai đoạn này, độc lập dân
tộc trước nhất chỉ có được khi cách mạng giải phóng dân tộc thành công. Tuy nhiên, theo Hồ Chí Minh, mục
tiêu cuối cùng của độc lập dân tộc không chỉ là ở giai đoạn hoàn thành cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc mà phải thực hiện tiếp cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
Có thể nhận thấy rằng dưới góc độ giải phóng dân tộc, giành được độc lập
dân tộc mới chỉ là cấp độ đầu tiên. Giải phóng về mặt chính trị, tự bản
thân nó chưa phải là công cuộc giải phóng hoàn toàn, hay nói cách khác, độc
lập là tiền đề đầu tiên để tiến lên chủ
nghĩa xã hội, đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Lôgíc lịch sử tự nhiên
của sự vận động phong trào dân tộc tất yếu
dẫn tới chủ nghĩa xã hội do bản chất cách mạng triệt để của nó.
Nghiên cứu Cương lĩnh dân tộc Lênin: bình đẳng, tự
quyết, đoàn kết gia cấp công nhân các
dân tộc, Hồ Chí Minh đã nhận thấy rằng sau khi cách mạng giải phóng dân tộc
thắng lợi, phải tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc
đòi hỏi trước hết phải đảm bảo cho dân tộc đó quyền tự quyết dân tộc, quyền lựa
chọn chế độ chính trị, lựa chọn con đuờng và mô hình phát triển, độc lập cả về
chính trị, kinh tế, văn hoá. Vì Vậy, chỉ có thể
tiến hành thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, đất nước giành
được độc lập thì dân tộc ấy mới có thể tự chọn lựa con đường đi, hướng phát
triển của đất nước mình làtheo con đường CNXH. Nói cách khác, giành được độc
lập dân tộc là tiền đề cho việc xây dựng chế độ mới- chế độ XHCN.
Độc lập
dân tộc cũng đòi hỏi phải thực sự bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, nhân dân
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, con người
được phát triển toàn diện, hạnh phúc, con người được làm chủ. Độc lập tự
do đòi hỏi phải xoá bỏ mọi tình trạng áp bức, bóc lột, nô dịch của dân tộc này
đối với dân tộc khác về kinh tế, chính
trị và tinh thần. Sự trao đổi, hợp tác kinh tế, văn hoá giữa các nước dựa trên
nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì một thế
giới không có chiến tranh, không có sự hoành hành của cái ác, của những sự tàn
bạo và bất công,bảo đảm cho con người sống trong an ninh và hạnh phúc. Vì vậy,
để đảm bảo độc lập dân tộc thực sự và giữ
vững thành quả ấy, cả nước phải tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Đó là quy luật của thời đại, đáp ứng nguyện vọng ngàn đời của nhân dân
talàđộc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc. Người nói: chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do,
độc lập cũng không làm gì. Để giữ vững độc lập, tự chủ, để đảm bảo cho nhân dân
một cuộc sống ấm no hạnh phúc, chúng ta
không có con đường nào khác là phải tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Với ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc
không chỉ mang lại độc lập thống nhất cho
tổ quốc, mà trong từng bước phải mang lại tự do, hạnh phúc cho toàn dân.
Đối với chúng ta,
kinh nghiệm lịch sử hiện đại chứng minh rằng, thống nhất đất nước chỉ có thể
thực hiện được trên cơ sở độc lập dân tộc thực sự- độc lập trên nền tảng của
CNXH. Bởi vì, từ đó sẽ tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết cho
việc bảo vệ vững chắc của chủ quyền dân tộc. Vì thế giữa độc lập dân tộc gắn
liền CNXH có mối quan hệ với nhau được biểu hiện đó là:
ĐLDT là mục tiêu trước mắt, là cơ sở, là
tiền đề để tiến lên CNXH; Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự gắn bó thống
nhất với nhau, vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân
tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa
mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con
người. Chỉ có thiết lập được chế độ sở hữu công cộngvề tư liệu sản xuất mới xoá
bỏ được tận gốc trình trạng áp bức bóc lột; chỉ có thiết lập một nhà nước kiểu
mới, một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân mới đảm bảo cho quyền làm chủ
của người lao động, mới thực hiện được sự phát triển hài hoà giữa cá nhân và xã
hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người. Vì vậy, CNXH là
mục tiêu cuối cùng mà ta phải đạt được, là con đường bảo vệ và phát triển thành
quả của ĐLDT; chỉ có CNXH, CNCS mới bảo đảm cho 1 nền ĐLDT chân chính, mới giải
phóng các dân tộc một cách thực sự, hoàn toàn. Đó là nguyện vọng chung của nhân
dân. Nhân dân ta đi theo Đảng tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
không chỉ nhằm thoát khỏi ách đô hộ của ngoại bang, cũng không phải chỉ nhằm
thoát khỏi gông cùm của phong kiến,để rồi lại rơi vào
tình trạng bị giai cấp tư sản bóc lột, mà còn muốn thoát khỏi mọi kiểu
áp bức, bóc lột để mọi người được sống trong ấm no, tự do và hạnh phúc. Muốn
vậy, độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH. Để thực hiện con đường, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH như đã phân tích như trên; theo Hồ Chí Minh,
cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi trước nhất phải đi theo con đường
cách mạng vô sản, tư tưởng này thể
hiện rõ qua luận điểm:Chỉ có giải phóng
giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và
cuộc cách mạng thế giới. Cách
mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi
còn phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Bên cạnh đó, Người cũng chỉ rõ cách mạng giải
phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của
toàn dân, trên cơ sở liên minh công –
nông. Hồ Chí Minh cũng chỉ rằng muốn giải phóng dân tộc phải thực hiện con đường cách mạng
bạo lực, song Hồ Chí Minh luôn chủ động,
tích cực đưa ra giải pháp để tranh thủ
khả năng hoà bình và phát triển của cách mạng.
Theo tư tưởng của Người, làm Cách mạng xã hội chủ nghĩa
là để xây dựng chế độ xã hội XHCN, là một XH tốt đẹp, một XH vì con
người, là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, là một xã hội có nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất ngày càng hiện đại và chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu; nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất
cho nhân dân; là một xã hội phát triển cao
về văn hoá, đạo đức, trong đó, người với người là bạn bè, là đồng chí là
anh em, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống tinh thần
phong phú; là một xã hội công bằng và hợp
lý, các dân tộc đều bình đẳng; là công trình tập thể của nhân dân, do
nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Đó là bản chất của CNXH và
cũng là mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta
đang ra sức phấn đấu để đạt tới. Theo TTHCM, hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội rất phong phú, trong đó bao
trùm lên tất cả là động lực con người, trên cả hai bình diện: cộng đồng và cá
nhân. Con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng lên CNXH, không phải kinh qua giai đoạn phát triển TBCN. Thời kỳ quá độ
là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ lâu dài. Nhiệm vụ lịch sử
của thời kỳ quá độ, Người đã chỉ rõ: phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ
thuật nghiệp đổi lại rơi vào tình trạng bị giai của CNXH có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có nnền
văn hoá khoa học tiên tiến; về chính trị, nội dung quan trọng nhất để đảm bảo
thắng lợi của công cuộc cách mạng này là giữ vững, tăng cường và phát huy vai
trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời phải củng cố, tăng cường vai trò, hiệu lực quản lý của Nhà nước thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân và nhà nước đó thực hiện 2 chức năng: dân chủ với dân, chuyên chính
với kẻ thù. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến được biểu hiện trong mọi sinh hoạt
đời sống tinh thần của xã hội. Phát triển giáo dục nâng cao dân trí, phát triển
văn hoá nghệ thuật và đào tạo con người mới. Củng cố và mở rộng Mặt trận dân
tộc thống nhất, phát huy sức mạnh của dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân vì
xây dựng CNXH cũng là nhiệm vụ của toàn thể nhân dân ta; đồng thời phải xây dựng đội ngũ cán bộ đủ
đức vàtài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng XHCN. Về phương diện quốc
tế, theo Hồ Chí Minh, sự nghệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta buộc chúng
ta phải có ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, tranh thủ các điều kiện
quốc tế thuận lợi, hạn chế những khó khăn để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Về bước đi của thời kỳ quá độ, Người
đã chỉ rõ: Ta xây dựng CNXH từ 2 bàn tay
trắng đi lên thì khó khăn còn nhiều và dài, phải làm dần dần,
không thể một sớm một chiều.Về phương pháp, biện pháp, cách thức tiến
hành xây dựng CNXH ở Việt Nam, Người luôn nhắc nhở phải nêu cao tinh thần độc
lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều
rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài, phải suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo ra cách làm
phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn đi lên CNXH ở nước ta giai đoạn hiện nay, trong điều kiện thế giới
và trong nước ta có những thụân lợi và khó khăn nhất định chính vì vậy, Đại hội
lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: Trước tình hình hiện nay, mặc dù XHCN vẩn là sự phát triển tất yếu của lịch sử
xã hội loài người là sự lựa chọn đi theo con đường CNXH của chủ tịch Hồ Chí
Minh và nhân dân là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn.đất nước đang đứng trước
những thử thách lớn lao của thời đại lịch sử Đảng và nhà nước ta phải kiên định
con đường mục tiêu của mình và phải lấy CN Mác- Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay,
chỉ có kiên định mục tiêu cao cả ấy chúng ta mới giải phóng nhân dân khỏi tình
trạng nghèo nàn lạc hậu, tình trang mê tín dị đoan, tập tục lạc hậu và các tệ nạn Xã hội… Giữ vững độc lập, tự chủ đi
đôi với mở rộng quan hệ quốc tế, thực hiện phương châm đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ đối ngoại. Xây dựng CNXH là nhiệm vụ chủ yếu trong giai đoạn
hiện nay để tạo điều kiện bảo vệ Tổ quốc một cách vững chắc. Muốn vậy phải chủ
động tạo lập con đường để phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh của thời đại,
phải đi tắt, đón đầu tạo ra những bước đột phá mạnh mẽ để phát triển đất nước
nhanh và bền vững để xây dựng thành công chủ nghĩa.
Bên cạnh đó,
nhiệm vụ của chúng ta hiện nay là đi đôi với việc tiếp tục quán triệt những nội
dung cơ bản của TTHCM, phải nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chống lại
những khuynh hướng tư tưởng cơ hội, xét lại và bảo thủ, giáo điều; chủ nghĩa cá
nhân, tệ quan liêu, tham nhũng, kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu chống phá về
mặt tư tưởng chính trị do các thế lực thù địch gây ra.
Có kiên định
CN M-L, TTHCM và tiến hành cuộc đấu tranh kiên trì, dũng cảm chống những quan
điểm, tư tưởng sai trái thì mới khắc phục được sự suy thoái hiện nay về nhận
thức tư tưởng chính trị, về quan điểm và hành động của một bộ phận cán bộ, đảng
viên.
Tóm lại, cốt
lõi của độc lập dân tộc là giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp.
Trong cách mạng Việt Nam dân tộc và giai cấp có sự hài hài hoà và thống nhất
với nhau về lợi ích. Chính vì vậy phải chống cả tả khuynh và hữu khuynh. Thực tiễn cho thấy ngay từ khi được thành
lập, Đảng ta đã quan niệm độc lập dân tộc và CNXH không phải là hai mục tiêu
khác nhau mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, không thể tách rời nhau, bởi vì
độc lập dân tộc mà chúng ta cần có là độc lập dân tộc của một nước XHCN. Chỉ
khi có độc lập dân tộc thì mới đi liền với sự giàu có, hạnh phúc chung của nhân
dân. Độc lập dân tộc là thuộc tính nội tại của CNXH với tư cách một chế độ xã
hội; không có độc lập dân tộc thì không có xã hội XHCN. Do đó mỗi người chúng
ta phải nhận thức được điều đó để ra sức phấn đấu hết sức mình vì mục tiêu, lý
tưởng cao cả ấy mà Người và Đảng ta đã mang lại cho chúng ta ngày hôm nay./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét