Câu
1: Trình bày nguồn gốc và quá trình hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh?
1. Nguồn
gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp giữa
yếu tố khách quan (thực tiễn và tư tưởng, văn hoá) với yếu tố chủ quan (những
phẩm chất của Hồ Chí Minh).
a) Truyền thống tư tưởng và văn hoá Việt Nam .
UNESCO khẳng định: tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh
truyền thống văn hoá hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam .
Trước tiên, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất
khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nước. Đây là truyền thống tư tưởng quý báu
nhất, nguồn gốc sức mạnh lớn nhất trong đấu tranh dựng nước, giữ nước của dân
tộc ta. Điều đó được phản ánh từ văn hoá dân gian đến văn hoá bác học, từ những
nhân vật truyền thuyết như Thánh Gióng, đến các anh hùng thời xa xưa như Thục
Phán, Hai Bà Trưng, Bà Triệu... đến những anh hùng nổi tiếng thời phong kiến
như Ngô Quyền, Phùng Hưng, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ...
Chủ nghĩa yêu nước là giá trị văn hoá cao nhất, đứng đầu bảng giá trị văn hoá
tinh thần Việt Nam, nó làm thành dòng chảy chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc,
tạo thành cơ sở vững chắc để nhân dân ta tiếp thu những giá trị văn hoá từ bên
ngoài làm phong phú văn hoá dân tộc và không ngừng phát triển.
Thứ hai là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn
kết, tương thân, tương ái, “lá lành đùm là rách” trong hoạn nạn, khó khăn. Điều
kiện địa lý và chính trị đã đưa nhân dân ta tạo dựng truyền thống này ngay từ
buổi bình minh của dân tộc. Các thế hệ Việt Nam đều trao truyền cho nhau:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Ba mươi năm bôn ba hải ngoại, năm 1941 vừa về nước, Hồ
Chí Minh đã nhắc nhở nhân dân ta: “Dân ta phải biết sử ta”. “Sử ta dạy cho ta
bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự
do”. Người căn dặn: “Dân ta xin nhớ chữ đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng,
đồng minh!”.
Thứ ba là truyền thống lạc quan yêu đời của dân tộc ta
được kết tinh qua hàng ngàn năm nhân dân ta vượt qua muôn nguy, ngàn khó, lạc
quan tin tưởng vào tiền đồ dân tộc, tin tưởng vào chính mình. Hồ Chí Minh là
điểm kết tinh rực rỡ của truyền thống lạc quan yêu đời của dân tộc đã tạo cho
mình một sức mạnh phi thường vượt qua mọi khó khăn, thử thách đi đến chiến
thắng.
Thứ tư là nhân dân ta có truyền thống cần cù, dũng
cảm, thông minh sáng tạo trong sản xuất và chiến đấu, đồng thời ham học hỏi và
không ngừng mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hoá nhân loại. Dân tộc ta trụ
vững trên mảnh đất nối liền Nam-Bắc, Đông-Tây, từ rất sớm người Việt Nam đã xa lạ
với đầu óc hẹp hòi, thủ cựu, thói bài ngoại cực đoan. Mà trên cơ sở giữ vững bản
sắc dân tộc, nhân dân ta đã biết chọn lọc, tiếp biến những cái hay, cái tốt,
cái đẹp từ bên ngoài và biến nó thành cái thuần tuý Việt Nam .
b) Tinh hoa văn hoá nhân loại
Từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã được tiếp thu văn hoá phương
Đông. Lớn lên Người bôn ba khắp thế giới, đặc biệt ở các nước phương Tây. Trí
tuệ miễn tiệp, ham học hỏi nên ở Người đã có vốn hiểu biết văn hoá Đông-Tây kim
cổ uyên bác.
c) Tư tưởng văn hoá phương Đông
Về Nho giáo, Hồ Chí Minh được tiếp thu Nho giáo từ nhỏ, Người hiểu sâu sắc về Nho
giáo. Người nhận xét về cụ Khổng Tử, người sáng lập ra Nho giáo tuy là phong
kiến nhưng Cụ có những cái hay thì phải học lấy. Cái phong kiến lạc hậu của Nho
giáo là duy tâm, đẳng cấp nặng nề, khinh thường lao động chân tay, coi khinh
phụ nữ... thì Hồ Chí Minh phê phán triệt để. Nhưng những yếu tố tích cực của
Nho giáo như triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời; lý
tưởng về một xã hội bình trị, một “thế giới đại đồng”; triết lý nhân sinh: tu
thân dưỡng tính; tư tưởng đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu
học... đã được Hồ Chí Minh khai thác để phục vụ nhiệm vụ cách mạng.
Về Phật giáo: Phật giáo vào Việt Nam
từ rất sớm. Trải qua hàng trăm năm ảnh hưởng, Phật giáo đã đi vào văn hoá Việt
Nam, từ tư tưởng, tình cảm, tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống... Phật
giáo là tôn giáo. Hồ Chí Minh nhận xét: tôn giáo là duy tâm... Nhưng Người cũng
chỉ ra nhiều điều hay của Phật giáo mà nó đã đi vào tư duy, hành động, cách ứng
xử của người Việt Nam .
Đó là những điều cần được khai thác để góp vào việc thực hiện nhiệm vụ cách
mạng như tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể
thương thân, một tình yêu bao la đến cả chim muông, cỏ cây. Phật giáo dạy con
người nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện. Phật
giáo có tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác, chống lại mọi phân
biệt đẳng cấp. Hoặc như Phật giáo Thiền tông đề ra luật “Chấp tác”: “nhất nhật
bất tác, nhất nhật bất thực”, đề cao lao động, chống lười biếng. Đặc biệt là từ
truyền thống yêu nước của dân tộc đã làm nảy sinh nên Thiền phái Trúc Lâm Việt
Nam, chủ trương không xa đời mà sống gắn bó với nhân dân, với đất nước, tham
gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân, chống kẻ thù dân tộc.
Ngoài ra, còn thấy Hồ Chí Minh bàn đến các giá trị văn
hoá phương Đông khác như Lão tử, Mặc tử, Quản tử... cũng như về chủ nghĩa tam
dân của Tôn Trung Sơn mà Người tìm thấy “những điều thích hợp với nước ta”.
d) Tư tưởng và văn hoá phương Tây.
Ngay khi còn học ở trong nước, Nguyễn Tất Thành đã làm
quen với văn hoá Pháp, đặc biệt là ham mê môn lịch sử và muốn tìm hiểu về cách
mạng Pháp 1789. Ba mươi năm liên tục ở nước ngoài, sống chủ yếu ở Châu Âu, nên
Nguyễn ái Quốc cũng chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn hoá dân chủ và cách
mạng của phương Tây.
Hồ Chí Minh thường nói tới ý chí đấu tranh cho tự do,
độc lập, cho quyền sống của con người trong Tuyên ngôn độc lập, 1776 của Mỹ.
Khi ở Anh, Người gia nhập công đoàn thuỷ thủ và cùng giai cấp công nhân Anh
tham gia các cuộc biểu tình, đình công bên bờ sông Thêmđơ... Năm 1917, Người
trở lại nước Pháp, sống tại Pari-trung tâm chính trị văn hoá-nghệ thuật của
châu Âu. Người gắn mình với phong trào công nhân Pháp và tiếp xúc trực tiếp với
các tác phẩm của các nhà tư tưởng khai sáng như Vonte, Rutxô, Môngtetxkiơ... Tư
tưởng dân chủ của các nhà khai sáng đã có ảnh hưởng tới tư tưởng của Nguyễn ái
Quốc. Từ đó mà hình thành phong cách dân chủ, cách làm việc dân chủ ở Người.
Có thể thấy, trên hành trình tìm đường cứu nước,
Nguyễn ái Quốc đã biết làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại,
Đông và Tây, vừa thâu thái vừa gạn lọc để có thể từ tầm cao tri thức nhân loại
mà suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng và phát triển.
e) Chủ nghĩa Mác-Lênin
Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm được
cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng của mình. Nhờ vậy Người đã
hấp thụ và chuyển hoá được những nhân tố tích cực và tiến bộ của truyền thống
dân tộc cũng như của tư tưởng văn hoá nhân loại tạo nên hệ thống tư tưởng Hồ
Chí Minh. Vì vậy tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác-Lênin; đồng thời nó
còn là sự vận dụng và phát triển làm phong phú chủ nghĩa Mác-Lênin ở thời đại
các dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập tự do, xây dựng đời sống mới.
g) Những nhân tố thuộc về phẩm chất của Nguyễn ái Quốc
Trong cùng những điều kiện như trên mà chỉ có Hồ Chí
Minh được UNESCO công nhận là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt
xuất. Rõ ràng yếu tố chủ quan ở Hồ Chí Minh có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc hình thành tư tưởng của Người.
Trước hết, ở Nguyễn ái Quốc-Hồ Chí Minh có một tư duy
độc lập, tự chủ, sáng tạo cộng với đầu óc phê phán tinh tường sáng suốt trong
việc nghiên cứu, tìm hiểu những tinh hoa tư tưởng, văn hoá và cách mạng cả trên
thế giới và trong nước.
Hai là, sự khổ công học tập của Nguyễn ái Quốc đã
chiếm lĩnh được vốn tri thức phong phú của thời đại, với kinh nghiệm đấu tranh
của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế để có thể tiếp
cận với chủ nghĩa Mác-Lênin khoa học và cách mạng.
Ba là, Nguyễn ái Quốc-Hồ Chí Minh có tâm hồn của một
nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu
nước, thương dân, thương yêu những người cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng những hy
sinh cao nhất vì độc lập của Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng bào.
Những phẩm chất cá nhân hiếm có đó đã giúp Nguyễn ái
Quốc tiếp nhận, chọn lọc, chuyển hoá phát triển tinh hoa dân tộc và thời đại
thành tư tưởng đặc sắc của mình.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm về cách
mạng Việt Nam không thể hình thành ngay trong một lúc mà trải qua một quá trình
tìm tòi, xác lập, phát triển và hoàn thiện, gắn liền với quá trình phát triển
lớn mạnh của Đảng ta và cách mạng Việt Nam. Quá trình đó diễn ra qua các thời
kỳ chính như sau:
a) Từ 1890 đến 1911: Là thời kỳ hình thành tư tưởng
yêu nước và chí hướng cách mạng.
Thời kỳ này Nguyễn Sinh Cung-Nguyễn Tất Thành tiếp
nhận truyền thống yêu nước và nhân nghĩa của dân tộc, hấp thụ vốn văn hoá Quốc
học, Hán học và bước đầu tiếp xúc với văn hoá phương Tây; chứng kiến thân phận
nô lệ đoạ đầy của nhân dân ta và tinh thần đấu tranh bất khuất của cha anh,
hình thành hoài bão cứu nước. Nhờ vậy chí hướng cách mạng của Nguyễn Tất Thành
ngay từ đầu đã đi đúng hướng, đúng đích, đúng cách.
b) Từ 1911 đến 1920: Thời kỳ tìm tòi, khảo nghiệm.
Là thời kỳ Nguyễn Tất Thành thực hiện một cuộc khảo
nghiệm toàn diện, sâu rộng trên bình diện toàn thế giới.
Đi đến cùng, Người đã gặp chủ nghĩa Mác-Lênin (qua
việc tiếp xúc với Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa). Nguyễn
ái Quốc đã đi đến quyết định tham gia Quốc tế Cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là sự chuyển biến về
chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản,
từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước thành người cộng
sản và tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc.
c) Từ 1921 đến 1930: Thời kỳ hình thành cơ bản tư
tưởng Hồ Chí Minh về Con đường cách mạng Việt Nam .
Là thời kỳ hoạt động lý luận và thực tiễn cực kỳ sôi
nổi của Nguyễn ái Quốc. Người hoạt động tích cực trong Ban nghiên cứu thuộc địa
của Đảng Cộng sản Pháp, tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo
Le Paria nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin vào các nước thuộc địa. Tham gia
trong các tổ chức của Quốc tế Cộng sản tại Matxcơva. Cuối 1924, Nguyễn ái Quốc
về Quảng Châu (Trung Quốc) tổ chức ra Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở nhiều lớp huấn luyện chính trị, đào
tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam .
Đầu xuân 1930, Người tổ chức ra Đảng Cộng sản Việt Nam và trực tiếp thảo ra
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Văn kiện này cùng các tác phẩm Người xuất bản
trước đó là Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) và Đường cách mệnh (1927) đã
đánh dấu sự hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt
Nam.
d) Từ 1930 đến 1941: Là thời kỳ vượt qua thử thách
kiên trì con đường đã xác định cho cách mạng Việt Nam .
Do những hạn chế về hiểu biết thực tiễn Việt Nam , lại bị
quan điểm “tả khuynh” chi phối nên Quốc tế Cộng sản đã phê phán, chủ trích
đường lối của Nguyễn ái Quốc ở Hội nghị thành lập Đảng đầu xuân 1930. Dưới sự
chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị tháng 10-1930 của Đảng đi tới nghị quyết
thủ tiêu Chánh cương, Sách lược vắn tắt và điều lệ của Đảng được thông qua ở
Hội nghị thành lập Đảng.
Thực tiễn cách mạng nước ta đã hoàn thiện đường lối
của Đảng và sự hoàn thiện đó đã trở về với tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuối những
năm 30 của thế kỷ XX.
Từ 1941 đến 1969: Thời kỳ phát triển và thắng lợi của
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngày 28-1-1941, sau 30 năm hoạt động của cách mạng
trên thế giới, Nguyễn ái Quốc về nước cùng Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. Tháng 5-1941, Người triệu tập, chủ trì Hội nghị lần thứ 8
của Đảng, hoàn thành việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Cách mạng
Việt Nam vận động mạnh mẽ theo đường lối của Đảng thông qua ở Hội nghị Trung
ương 8, đã dẫn đến thắng lợi của cách mạng Tháng Tám 1945-thắng lợi đầu tiên
của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thời kỳ này tư tưởng Hồ Chí Minh được bổ sung, phát
triển và hoàn thiện trên một loạt vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam: Về
chiến tranh nhân dân: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là thuộc địa
nửaphong kiến, quá độ lên xã hội chủ nghĩa không trải qua chế độ tư bản chủ
nghĩa trong điều kiện đất nước bị chia cắt và có chiến tranh; về xây dựng Đảng
trong điều kiện Đảng cầm quyền: về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân;
về củng cố và tăng cường sự nhất trí trong phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế...
Vĩnh biệt Đảng, dân tộc, Hồ Chí Minh để lại Di chúc
thiêng liêng mang tính cương lĩnh cho sự phát triển của đất nước và dân tộc sau
khi kháng chiến thắng lợi.
Thấm thía giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, đi vào sự
nghiệp đổi mới, tại Đại hội VII (1991) Đảng ta khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho hành
động.
Đại diện đặc biệt của Tổng giám đốc UNESCO- tiến sĩ
M.Ahmed đã cho rằng: Người sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là người giải phóng
cho Tổ quốc và nhân dân bị đô hộ mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang
lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan
nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét