Câu 36
:Vì sao Hồ Chí Minh lại khẳng định: Đảng
phải thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn ?
Trả lời:
Đảng là đạo đức, là văn
minh tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc. Đảng phải thường
xuyên tự đổi mới trong điều kiện Đảng cầm quyền. Chỉnh đốn chú ý những vấn đề
sau:
- Đảng luôn vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức xứng đáng là người lãnh đạo của nhân dân.
- Cán bộ đảng viên phải
toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, có đức, có tài.
- Chú ý khắc phục tiêu
cực, luôn giữ gìn Đảng trong sạch, vững mạnh.
- Đảng phải vươn lên đáp
ứng yêu cầu tình hình và nhiệm vụ mới.
Câu 37 : Hãy trình bày cơ sở và
quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân
và vì dân.
Trả lời :
Cơ sở và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước của dân do dân,vì dân.
1. Nghiên cứu lịch sử
dân tộc, Hồ Chí Minh tiếp thu kinh nghiệm xây dựng Nhà nước trong lịch sử Việt Nam .
- Tư tưởng xây dựng Nhà nước Việt Nam
được phản ánh trong các bộ sử lớn của dân tộc: Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch
triều hiến chương loại chí...; trong những bộ luật nổi tiến như Bộ luật Hồng Đức (đời Lê)....Các bộ luật sách
nói trên phản ánh những tư tưởng pháp quyền.
- Hồ Chí Minh nghiên cứu sâu sắc
lịch sử Việt Nam, Người viết Việt Nam
quốc sử diễn ca để giáo dục và vận động nhân dân, trong đó có nói đến
các triểu đại Việt Nam trong lịch sử.
2. Hồ Chí Minh nghiên
cứu các kiểu Nhà nước trong lịch sử.
- Nhà nước thực dân phong kiến.
+ Hồ Chí Minh vạch trần bản chất vô
nhân đạo, chỉ rõ bản chất cái gọi là “công
lý” mà thực dân, đế quốc thi hành ở các xứ “bảo hộ”.
+ Năm 1919, Hồ Chí Minh gửi đến Hội
nghị Vécxây bản Yêu sách của nhân
dân An Nam
đòi các quyền tự do tối thiểu cho dân tộc mình. Đây là văn kiện pháp
lý đầu tiên đặt vấn đề kết hợp khăng khít quyền tự quyết của dân tộc với quyền
tư do, dân chủ của nhân dân.
- Nhà nước dân chủ tư sản.
Người coi Nhà nước tư sản Mỹ, Pháp là
sản phẩm của “những cuộc cách mạng
không đến nơi”, vì ở đó chính quyền vẫn trong tay một số ít người - một
xã hội bất bình đẳng.
- Nhà nước Xô viết.
Người gọi Nhà nước Xôviết là kết quả
của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 - cuộc cách mạng “đến nơi”, đã “phát
đất ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền... ra sức tổ chức kinh tế
mới, để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng”
- Hồ Chí Minh nghiên cứu vấn đề Nhà nước trong chủ nghĩa Mác – Lênin.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu chủ nghĩa
Mác – Lênin về vấn đề nhà nước, bản chất của nhà nước chuyên chính vô sản, nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
Câu 38:
Hãy phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước?
Trả lời:
Những nội dung cơ bản
của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về một Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Sau cách mạng Tháng Tám thành công,
Nhà nước cách mạng ra đời, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.... Chính quyền
từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra... Nói tóm lại, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân. Đó là điểm khác nhau về bản chất giữa nhà nước dân chủ
nhân dân với các nhà nước của giai cấp bóc lột đã từng tồi tại trong lịch sử.
- Nhà nước của dân.
+ Hồ Chí Minh khẳng định rõ ràng và
ngay từ đầu là: “Nước Việt Nam
là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân
dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn
giáo” (Điều thứ 1, Hiến pháp năm 1946).
+ Quyền quyết định của nhân dân về các
vấ đề liên quan đến vận mệnh quốc gia.
“Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc
gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết” (Điều thứ 32 - Hiến pháp năm 1946). Thực
chất đó là chế độ trưng cầu dân ý, một hình thức dân chủ trực tiếp được đề ra
khá sớm ở nước ta.
+ “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng
đáng với sự tín nhiệm của nhân dân
+ Người dân được hưởng mọi quyền dân
chủ, có quyền làm bất cứ việc gì pháp luật không cấm, và có nghĩa vụ tuân theo
pháp luật.
+ Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ
lực hình thành các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân.
+ Các vị đại diện của dân, do dân cử
ra, chỉ là thừa ủy quyền của dân, chỉ là “công
bộc của dân”. Hồ Chí Minh phê hán những “vị đại diện” lầm lẫn sự uy quyền đó với quyền lực cá nhân, sinh
lộng quyền, cửa quyền: “Cậy thế mình ở trong ban này ban nọ, rồi ngang tàng,
phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng
dân bầu mình ra để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân”
- Nhà nước do dân.
+ Nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra
những đại biểu của mình.
+ Nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ,
đóng thuế để Nhà nước chi tiêu, hoạt động.
+ Nhà nước do dân phê bình, xây dựng,
giúp đỡ. Hồ Chí Minh yêu cầu: Tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào
nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và sự kiểm soát của
nhân dân.
- Nhà nước vì dân.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có Nhà
nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát mới có thể là nhà
nước vì dân.
+ Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ
lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền lợi, thật sự trong
sạch, cần kiệm liêm chính. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Việc gì lợi cho dân, ta phải
hết sức làm.
Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức
tránh...” + Cán bộ Nhà nước phải là đầy tớ của dân, đồng thời là người lãnh đạo
hướng dẫn nhân dân. Đầy tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính,
chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Người lãnh đạo phải trí
tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa, trông rộng, gần gũi nhân dân,
trọng dụng hiền tài. Như vậy, “Người thay mặt dân phải đủ cả đức và tài, vừa
hiền lại vừa minh”.
2. Sự thống nhất giữa
bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước
trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nhà nước là thành tố cơ bản nhất của hệ thống chính trị, luôn mang bản
chất giai cấp.
+ Trả lời câu hỏi: Nhà nước của
dân, do dân, vì dân có phải nhà nước siêu giai cấp không?, Hồ Chí Minh trả lời:
“Tính chất nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề nội dung
giai cấp của chính quyền. Chính quyền về tay ai và phục vụ quyền lợi của ai?
Điều đó quyết định toàn bộ nội dung của Hiến pháp... Nhà nước của ta là Nhà
nước của nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân
lãnh đạo”
+ Bản chật giai cấp của Nhàa nước ta
là bản chất giai cấp công nhân và được biểu hiện ở những nội dung:
* Do Đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo.
* Định hướng đưa đất nước quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội “bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc
dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật
tiên tiến” Nguyên tắc tổ chức cơ bản của
Nhà nước là nguyên tắc tập trung dân chủ.
Hồ Chí Minh viết: “Nhà nước ta phát
huy dân chủ đến cao độ... Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được
tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời phải tập trung
đến cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội” - Sự thống nhất hài hòa giữa bản chất giai
cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: giai cấp
công nhân không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của dân tộc và chỉ có giải
phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp công nhân một cách triệt để.
+ Sự thống nhất này được thể hiện:
* Nhà nước dân chủ mới của ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian
khổ với sự hy sinh xương máu của bao thế hệ cách mạng: là hoa, là quả
của bao nhêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những con người
con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải
đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường.
* Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân
dân, lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng. Chính phủ do Hồ Chí Minh đứng đầu
luôn luôn là Chính phủ đại đoàn kết dân tộc.
* Nhà nước ta vừa ra đời đã phải đảm
nhiệm nhiệm vụ lịch sử là tổ chức cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân
tộc để bảo vệ thành quả của cách mạng.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ.
- Một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, trước hết phải là một nhà
nước hợp hiến.
+ Tuyên ngôn độc lập do Hồ Chí Minh viết và tuyên đọc trong cuộc
mít tinh lớn tại thủ đô Hà Nội ngày 2-9-1945 đã khai sinh ra Nhà nước Việt Nam
mới, đồng thời đảm bảo địa vị hợp pháp của Chính phủ lâm thời.
+ Ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đề ra với Chính phủ một trong sáu nhiệm vụ cấp bách là “Cúng ta phải có một Hiến
pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng
tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu” để sớm có m65t nhà nước hợp hiến
do nhân dân bầu ra.
+ Ngày 2-3-1946, Quốc hội họp phiên
đầu tiên và bầu Hồ Chí Minh là Chủ tịch Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Đây là
Chính phủ hợp hiến đầu tiên do đại biểu của nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư cách
và hiệu lực trong việc giải quyết mọi vấn đề nội trị và ngoại giao của Nhà nước
Việt Nam mới.
- Một nhà nước pháp quyền có hiệu lực
mạnh là nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có
hiệu lực trong thực tế.
+ Nhà nước dân chủ, thì dân chủ
và pháp luật phải luôn luôn đi đôi với nhau, nương tựa vào nhau mới bảo đảm cho
chính quyền trở nên mạnh mẽ. Pháp luật là bà đỡ của dân chủ. Hồ Chí Minh viết: “Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”
+ Hồ Chí Minh hết sức chăm lo đưa pháp
luật vào đời sống, tạo ra cơ chế bảo đảm cho pháp luật được thi hành, cơ chế
kiểm tra, giám sát việc thi hành đó trong các cơ quan nhà nước và trong nhân dân.
Theo Người, công bố luật chưa phải là mọi việc đã xong, phải tuyên truyền giáo
dục lâu dài mới thực hiện được tốt.
+ Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nâng
cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính
tích cực công dân, khuyến khích nhân dân tham gia vào các công việc của Nhà
nước, khắc phục mọi thứ dân chủ hình thức.
+ Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải lo “Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân
chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”. “Lúc dân biết và dám phê bình người lãnh
đạo, lúc đó dân đã biết nắm quyền của dân, tức là đã đến mức dân chủ hóa khá
cao”.
Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương trong việc khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát
công việc của Chính phủ, đồng thời nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải
gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật, trước hết là các cán bộ thuộc ngành
hành pháp và tư pháp. Người viết: “Các bạn là những người phụ trách thi hành
pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cao cái gương “Phụng công, thủ pháp chí công, vô tư”, cho nhân dân noi theo”
- Để tiến tới một Nhà nước pháp quyền mạnh mẽ có hiệu lực, phải nhanh
chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất
là phải có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: cán bộ Nhà
nước phải biết quản lý nhà nước. Người ký Sắc lệnh số 197 thành lập Khoa pháp lý học tại Trường đại học Việt Nam .
+ Hồ Chí Minh mạnh dạn sử dụng những
viên chức, quan lại đã được đào tạo nghiệp vụ và kỹ thuật hành chính....
+ Hồ Chí Minh đăng báo “Tìm người tài đức”, Người viết: công việc kiến thiết ngoại giao, kiến thiết
kinh tế, kiến thiết quân sự, kiến thiết giáo dục..., rất cần nhân tài.
“Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo
phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển thêm nhiều. Hồ Chí
Minh quan tâm tới công bằng và dân chủ trong tuyển dụng cán bộ.
+ Trong việc dùng cán bộ, Hồ Chí Minh nhắc nhở phải tẩy sạch óc bè phái.
Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 76, ban
hành Quy chế công chức – chú trọng chế độ thi tuyển để bổ nhiệm vào các ngạch,
bậc hành chính - thể hiện tầm nhìn xa, tính chính quy, hiện đại, tinh thần công
bằng, dân chủ... của Hồ Chí Minh trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền
Việt Nam.
+ Trong vấn đề cán bộ, đặc biệt là với
cán bộ quản lý nhà nước, điều quan tâm thường xuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh
vẫn là phẩm chất đạo đức và tinh thần phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, bởi
thiếu điều này thì dù giỏi mấy cũng không dùng được.
Phát biểu trước cử tri Hà Nội (ngày
5-01-1946), Hồ Chí Minh nói: “Làm việc
nước bây giờ là hy sinh, là phấn đấu, quên lợi riêng mà nghĩ lợi chung. Những
ai muốn làm quan cách mạng thì nhất định không nên bầu”. Sau khi trúng
cử Quốc hội, Hồ Chí Minh hứa với đồng bào: Trước sự nguy hiểm khó khăn của nước
nhà, chúng tôi đi trước. Với việc giữ vững nền độc lập, chúng tôi xin đi trước.
+ Xuất phát từ nhận thức chỉ có trí
tuệ và lòng dân mới có thể làm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ và sáng suốt, Hồ
Chí Minh yêu cầu cán bộ phải “thân
dân, gần dân, trọng dân, không được lên mặt “quan cách mạng” với dân,
lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của dân”.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả.
- Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức.
+ Theo Hồ Chí Minh, từ kinh tế tiểu
nông đi tới xây dựng nhà nước pháp quyền, trước hết phải nhấn mạnh vai trò của
pháp luật, khẩn trương xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, đẩy mạnh việc tuyên
truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân..., đồng thời phải đặc biệt coi trọng
vấn đề giáo dục đạo đức. Hai hình thái ý thức xã hội này có thể kết hợp, bổ
sung cho nhau trong thực tế trị nước. Không bao giờ được tuyệt đối hóa địa vị
độc tôn của một yếu tố riêng lẻ nào.
+ Hồ Chí Minh là một mẫu mực của sự
kết hợp đạo đức và pháp luật, luô luôn chú trọng giáo dục đạo đức nhưng cũng
không ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật và thi hành pháp luật
nghiêm minh.
* Chính trị Hồ Chí Minh là một nền
chính trị đạo đức; và đạo đức cao nhất, theo Hồ Chí Minh là “Hết lòng hết sức
phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi
việc”
* Đi đôi với giáo dục đạo đức, Hồ Chí
Minh nhấn mạnh kịp thời ban hành pháp luật.
Ngày 27-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ký Sắc lệnh ấn định hình
phạt tội đưa và nhận hối lộ sẽ bị phạt từ 5 đến 20 năm khổ sai và phải nộp phạt
gấp đôi số tiền nhận hối lộ.
Ngày 26-01-1946, Người ký “Quốc lệnh” khép tội tham ô, trậm
cắp của công vào tội tử hình.
+ Để đưa luật vào cuộc sống, Hồ Chí
Minh kêu gọi nhân dân hãy tham gia giám sát công việc của Chính phủ. Hồ Chí
Minh viết: Từ ngày thành lập Chính phủ trong nhân viên còn có nhiều khuyết
điểm. Có người làm quan cách mạng, chợ đen, chợ đỏ, mưu vinh thân, phì gia....
Xin đồng bào hãy phê bình, giám sát công việc của Chính phủ. Người đòi hỏi pháp
luật của ta “phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở
địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”
- Kiên quyết chống ba thứ “giặc nội xâm” là tham ô, lãng phí, quan liêu.
+ Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu quả
của Nhà nước là dựa vào tính nghiêm minh của việc thi hành pháp luật và sự
gương mẫu, trong sạch về đạo đức của người cầm quyền. Người đòi hỏi “cán bộ
phải thực hành chữ Liêm trước, để làm kiểu mẫu cho dân”
+ Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra ba thứ “giặc nội xâm”, “giặc trong lòng”.
Người nói: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn
đồng minh của thực dân và phong kiến... Nó làm hỏng tinh thần trong sạch
và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần,
kiệm, liêm, chính... Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Vệt gian, mật thám”
+ Theo Hồ Chí Minh, chống tham ô, lãng
phí, quan liêu cũng cần kíp như việc đánh giặc trên trên mặt trận. “Nếu
chiến sĩ và nhân dân ra sức chống giặc ngoại xâm mà quên chống giặc nội xâm,
như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình”
+ Tham ô, lãng phí có nhiều nguyên
nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra nguyên nhân quan trọng là bệnh quan liêu.
Người viết: “Vì những người và những
cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không
theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì
thật trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ
biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi,
đến chốn... thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có
chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững... Thế là bệnh quan liêu
đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn
tham ô, lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu”
Câu 39: Phân tích tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với hợp tác
kinh tế quốc tế.
Trả lời (Tham khảo
thôi ,câu này cũng hơi khó)
Xây dựng nền kinh tế độc
lập đi đôi với tăng cường hợp tác quốc tế.
a. Độc lập về kinh tế có liên quan mật
thiết với độc lập về chính trị.
b. Tuy nhiên độc lập về kinh tế không
có nghĩa là đóng cửa khép kín mà ngược lại cần phải tăng cường hợp tác quốc tế
để phát triển sản xuất.
- Cơ sở lý luận của vấn đề hợp tác quốc tế.
- HCM đã
nhận thức sớm xu thế của thời đại, sức mạnh của sự hợp tác quốc tế.
- VN cần hợp
tác quốc tế để làm gì?
- Theo HCM
mọi thành tựu KH - KT, mọi nguồn lực KT VH đã được tạo ra đều là tài sản chung
của nhân loại
Các bạn tham khảo them cái này: HCM đã khẳng định muốn có độc lập thực sự về chính trị phải có độc lập về
kinh tế. Tuy nhiên độc lập tự chủ về kinh tế không có nghĩa là đóng cửa khép
kín, mà ngược lại cần phải tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển sản xuất,
nhất là trong điều kiện ngày nay, khi mà cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang
phát triển như vũ bão, vấn đề hội nhập và hợp tác đang là xu thế của thời đại.
HCM đã nhận thức rất sớm xu thế của thời đại, sức mạnh của sự hợp tác quốc tế.
Người cho rằng: " Nguyên nhân đầu tiên đã gây ra sự suy yếu của các dân
tộc phương đông chính là sự đơn độc". Cho nênViệt Nam cần phải tăng cường hợp tác
quốc tế. Đó là yêu cầu khách quan của sự phát triển nền kinh tế Việt Nam .
Sự hợp tác quốc tế trong tư tưởng HCM trước hết là để phát triển nền kinh tế xã
hội của Việt Nam .
Nước Việt Nam còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ kinh tế khoa học kỹ thuật còn
cách xa so với trình độ của nhiều nước trên thế giới. Cho nên Việt Nam phải mở
rộng quan hệ của mình để học tập, để tiếp thu kinh nghiệm. Việc mở rộng quan hệ
quốc tế mang laịi rất nhiều lợi ích cho Việt Nam .
Hợp tác sẽ giúp ViệtNam
trao đổi sản phẩm với các nước. Chúng ta cần nhiều dụng cụ , máy móc và hang
hoá của các nước, và chúng ta có thể cung cấp cho họ lương thực, cây công
nghiệp và khoáng sản.
Hợp tác quốc tế giúp chúng ta tranh thủ được nguồn lực của nước ngoài, tận dụng được khoa học kỹ thuật tiên tiến để phát triển kinh tế, giúp chúng ta học tập được kinh nghiệm quản lý, tác phong làm việc công nghiệp của nước bạn.
Qua hợp tác quốc tế, các nước phát triển sẽ đầu tư vốn vào Việt Nam, góp phần đẩy manh phát triển kinh tế
Nhờ có hợp tác chúng ta sẽ tranh thủ được sự giúp đỡ của các anh em, đó là một nguồn rất quan trọng. HCM coi đó cũng như cái vốn ban đầu để giúp ta phát huy những nguồn nội lực trong nước, nhất là khi nước ta còn đang chiến tranh, gặp nhiều khó khăn.
Theo HCM, mọi thành tựu của khoa học kỹ thuật, mọi nguồn lực văn hoá đã được tạo ra đều là tài sản chung của nhân loại. Giai cấp tư sản đã biết tận dụng thành tựu đó để làm giàu thì chúng ta cũng phải tận dụng nó để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nêntheo HCM chính sách đối ngoại của ViệtNam là " Làm bạn với mọi nước
dân chủ và không gây thù án với một ai". Chúng ta sẵn sàng hợp tác với các
nước trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, kể cả các nước không cùng chế độ xã
hội, cả nước đã từng xâm lượcViệt Nam . Trong khi hợp tác với các
nước, phải luôn cảnh giác với những kẻ lợi dụng hợp tác để xâm lược.
Hợp tác sẽ giúp Việt
Hợp tác quốc tế giúp chúng ta tranh thủ được nguồn lực của nước ngoài, tận dụng được khoa học kỹ thuật tiên tiến để phát triển kinh tế, giúp chúng ta học tập được kinh nghiệm quản lý, tác phong làm việc công nghiệp của nước bạn.
Qua hợp tác quốc tế, các nước phát triển sẽ đầu tư vốn vào Việt Nam, góp phần đẩy manh phát triển kinh tế
Nhờ có hợp tác chúng ta sẽ tranh thủ được sự giúp đỡ của các anh em, đó là một nguồn rất quan trọng. HCM coi đó cũng như cái vốn ban đầu để giúp ta phát huy những nguồn nội lực trong nước, nhất là khi nước ta còn đang chiến tranh, gặp nhiều khó khăn.
Theo HCM, mọi thành tựu của khoa học kỹ thuật, mọi nguồn lực văn hoá đã được tạo ra đều là tài sản chung của nhân loại. Giai cấp tư sản đã biết tận dụng thành tựu đó để làm giàu thì chúng ta cũng phải tận dụng nó để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nêntheo HCM chính sách đối ngoại của Việt
Câu 40:
Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về việc xác định cơ cấu kinh tế ở nước ta.
Trả lời
:
Nước ta là một nước
lạc hậu, qua nhiều năm chiến tranh lực lượng sản xuất chưa phát triển, cần làm
kinh tế nhiều thành phần để đảm bảo đời sống nhân dân, cung cấp kịp thời cho
kháng chiến. Do đó tất yếu phải phát triển kinh tế nhiều thành phần.Năm 1953, Hồ Chí Minh đã nói: Nước ta còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế tại vùng tự do. Đó là:
+ Kinh tế địa chủ, phong kiến bóc lột địa tô.
+ Kinh tế quốc doanh có tích chất XHCN
+ Kinh tế HTX tiêu thụ, HTX cung cấp, các tổ đổi công ở nông thôn có tính chất nửa XHCN
+ Kinh tế cá nhân của nhân dân và thợ thủ công mỹ nghệ
+ Kinh tế tư bản tư nhân
+ Kinh tế tư bản quốc gia (tư bản nhà nước)
Do vậy, mục tiêu ban đầu của 6 thành phần kinh tế đó là làm sao cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, làm cho dân được học hành.
Để duy trì 6 thành phần kinh tế, Hồ Chí Minh đã đưa ra 4 chính sách mấu chốt:
+ Công tư đều lợi.
+ Chủ thợ đều lợi.
+ Công nông đều lợi.
+ Lưu thông trong ngoài.
Khi chế độ dân chủ mới ở nước ta ngày càng phát triển, thành phần kinh tế phong kiến địa chủ bị tiêu diệt .Vì vậy trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN chỉ còn 5 thành phần kinh tế xếp theo thứ tự sau:
A.Kinh tế quốc doanh
B.Các hợp tác xã
C.Kinh tế cá nhân, nông dân, thợ thủ công
D.Tư bản tư nhân
E.Tư bản nhà nước công tư hợp danh
Theo Hồ Chí Minh, nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại suốt thời kì quá độ là vì 2 lý do sau:
- Các thành phần kinh tế cũng là sự biểu hiện của các quan hệ sản xuất khác nhau.
- Khi chế độ xã hội đang trong quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Nó đảm bảo sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất còn manh mún. Những mảnh vụn ấy của xã hội cũ sẽ được cải tạo chuyển dần lên CNXH.
* Nếu hỏi vận dụng trình bày thêm
Tiếp tục tư tưởng HCM, ĐH IX của Đảng khẳng định: Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hànhtheo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
Ngoài 5 thành phần kinh tế trên, ĐH IX khẳng định thêm 1 thành phần kinh tế mới là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Nó sẽ giúp ta kêu gọi và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài ngày càng nhiều. Đến ĐH X, Đảng đã ghép kinh tế tư bản vào với kinh tế tư nhân cho nên chỉ còn 5 thành phần kinh tế.
Tư tưởng phát triển nhiều thành phần kinh tế của HCM ko chỉ đáp ứng kịp thời cho cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc mà còn là tư tưởng chiến lược về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta
Ngày nay trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nề kinh tế nhiều thành phần của HCM vẫn là tư tưởng chỉ đạo rất quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét