Câu
9: Quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc? Ngày nay trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hưỡng xã
hội chủ nghĩa cần lưu ý những vấn đề gì khi xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc?
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có nhiều
quan điểm- có quan điểm mang tính nền tảng, có quan điểm mang tính nguyên tắc,
có quan điểm mang tính phương pháp đại đoàn kết. Dưới đây là những quan điểm
chủ yếu của Người.
1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược, quyết định thành công của cách mạng.
Với Hồ Chí Minh đại đoàn kết dân tộc không phải là
sách lược, không phải là thủ đoạn chính trị mà là chính sách dân tộc, là vấn đề
chiến lược của cách mạng.
Bởi vậy, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề sống còn của
dân tộc. “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”, “Đoàn kết là sức mạnh,
là then chốt của thành công”. Đoàn kết là điểm mẹ. “Điểm này mà thực hiện tốt
thì đẻ ra con cháu đều tốt”. Hồ Chí Minh khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ
hàng đầu của cách mạng.
Hồ Chí Minh nói với dân tộc: “Mục đích của Đảng Lao
động Việt Nam
có thể gồm trong 8 chữ là: đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc”. Bởi vậy tư tưởng
đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chính sách của
Đảng và Chính phủ.
Xét về bản chất thì đại đoàn kết dân tộc chính là đòi
hỏi khách quan của bản thân quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải
phóng, là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Nhận thức rõ
điều đó, Đảng tiên phong cách mạng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn,
chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự
giác, thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch của quần chúng thực
hiện mục tiêu cách mạng của quần chúng.
Như vậy đại đoàn kết dân tộc vừa là mục tiêu, mục
đích, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là mục tiêu, mục đích, nhiệm
vụ hàng đầu của cả dân tộc.
3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
Trước hết, khái niệm dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh được đề cập với nghĩa rất rộng- vừa với nghĩa là cộng đồng, “mọi con dân
nước Việt”, vừa với nghĩa cá thể “mỗi một con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt
dân tộc, tôn giáo, không phân biệt “già, trẻ, gái, trai, giàu nghèo, quý tiện”.
ở trong nước hay ở ngoài nước đều là chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc. Như
vậy Hồ Chí Minh đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình lịch sử cách mạng
Việt Nam .
Đại đoàn kết toàn dân, theo Hồ Chí Minh thì phải bằng
truyền thống dân tộc mà khoan dung, độ lượng với con người, mà đoàn kết ngay
với những người lầm đường, lạc lỗi, nhưng đã biết hối cải, không được đẩy họ ra
khỏi khối đoàn kết. Muốn vậy, cần xoá bỏ hết thành kiến, cần thật thà đoàn kết
với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân.
Đại đoàn kết toàn dân, theo Hồ Chí Minh là cần phải có
lòng tin ở nhân dân, tin rằng hễ là người Việt Nam “ai cũng có ít nhiều tấm
lòng yêu nước” mà khơi dậy và đoàn kết với nhau vì độc lập, thống nhất của Tổ
quốc, vì tự do và hạnh phúc của nhân dân.
Đoàn kết toàn dân tộc, toàn dân phải được xây dựng
trên nền tảng “trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân
dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền
gốc của địa đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, cái gốc của cây. Nhưng đã có
nền vững, gốc tốt còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”. Người còn chỉ
ra lực lượng nòng cốt tạo ra cái nền tảng ấy “là công nông, cho nên liên minh
công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”. Về sau, Người xác định
thêm: lấy liên minh công nông- lao động trí óc làm nền tảng cho khối đoàn kết
toàn dân.
4. Đại đoàn kết dân tộc phải có tổ chức, có lãnh đạo
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh trở
thành chiến lược đại đoàn kết của cách mạng Việt Nam, hình thành Mặt trận dân
tộc thống nhất, tạo ra sức mạnh to lớn quyết định thắng lợi của cách mạng.
Ngay từ dầu, Hồ Chí Minh đã chú ý tập hợp người Việt
Nam ở trong nước và định cư ở nước ngoài vào các tổ chức phù hợp với giai tầng,
từng giới, từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tôn giáo, phù hợp từng thời kỳ
cách mạng. Tất cả được tập hợp thành Mặt trận dân tộc thống nhất để liên kết và
phát huy sức mạnh của toàn dân. Tuỳ thời kỳ lịch sử mà Mặt trận dân tộc thống
nhất có tên gọi khác nhau.
Mặt trận dân tộc thống nhất hình thành được và hoạt
động được phải trên cơ sở những nguyên tắc: 1- Mặt trận phải được xây dựng trên
nền tảng liên minh công nông và lao động trí óc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. 2- Mặt trận hoạt động trên nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống
nhất lợi ích tối cao của dân tộc và lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở
để củng cố và không ngừng mở rộng. 3- Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ thật sự, chân
thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
5. Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết
quốc tế
Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy con đường giải
phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã sớm xác định: cách mạng Việt Nam là một bộ
phận của cách mạng thế giới, cách mạng chỉ có thể thắng lợi khi đoàn kết chặt
chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Trong mối quan hệ này phải được xây dựng
trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước chân chính gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng của giai cấp công nhân.
Ngay khi thành lập Đảng (1930), Hồ Chí Minh đã viết
trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là cách mạng Việt Nam “phải có đảng cách mệnh, để
trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp
bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Tư tưởng này đã soi sáng và được cụ thể hoá
suốt chiều dài lãnh đạo cách mạng của Đảng về sau, tiêu biểu là hình thành ba
tầng Mặt trận ở thời kỳ chống Mỹ, cứu nước.
Có thể thấy đại đoàn kết dân tộc là một trong những
nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, thì đoàn kết quốc tế cũng
là một nhân tố hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi
hoàn toàn.
Ngày nay, chúng ta phải tiếp tục xây dựng và thực hiện
đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, giải phóng mạnh mẽ sức sản
xuất, phát huy cao độ tiềm năng của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
Nhà nước phải vững mạnh, kinh doanh có hiệu quả, giữ vai trò chủ đạo. Đẩy mạnh
hơn nữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, coi trọng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn liền với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng, đồng thời tích cực xóa đói, giảm
nghèo, chăm sóc đời sống những gia đình có công với nước, những người có số
phận rủi ro, quan tâm hơn nữa việc phát triển kinh tế - xã hội của vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, lấy
mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc,
tôn giáo, các tầng lớp nhân dân, đồng bào ở trong nước cũng như đồng bào định
cư ở nước ngoài vì sự nghiệp chung. Trong nhận thức cũng như trong hành động,
phải thật sự xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ, thành phần,
giai cấp, nghề nghiệp, vị trí xã hội, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn
nhau, cùng hướng tới tương lai để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phát huy hơn nữa nền dân chủ XHCN gắn liền với việc
xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Nâng cao chất lượng hoạt động của các
tổ chức và hình thức dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và tự quản của nhân
dân. Thực hiện tốt sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích của cá nhân với lợi ích tập
thể và lợi ích xã hội, thực sự coi trọng lợi ích trực tiếp của người lao động. Lấy
việc xây dựng bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức thực sự của dân, do dân, vì dân
là tiền đề xây dựng nền dân chủ XHCN.
Sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới đòi hỏi chúng
ta không ngừng tăng cường nền quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng
toàn dân, đặc biệt chú trọng xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành vững
chắc, xây dựng an ninh nhân dân, tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tăng cường sức mạnh
tổng hợp để bảo về vững chắc nền độc lập dân tộc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích của nhân dân, chế độ XHCN.
Chúng ta tiếp tục thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa
các quan hệ quốc tế trên tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, và đối tác tin cậy
của tất cả các nước trên thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập, hợp tác và
phát triển. Chúng ta ra sức giữ vững môi trường hòa bình và tranh thủ các điều
kiện quốc tế thuận lợi, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng
giao lưu, hợp tác trên các linh vức khác vừa phát huy cao độ nội lực vừa tranh
thủ tốt nhất mọi nguồn lực bên ngoài để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét