Câu 16: Không có gì quý hơn độc lập,
tự do hay còn có gì quý hơn độc lập tự do? Chứng minh.
Trả lời:
Là một người dân của một đất nước độc
lập, ta đã tìm, đọc, hiểu được rằng tự do và độc lập đã phải đổ xương máu bao
thế hệ thế và còn hơn thế nữa.
Là dân nước nô lệ đi tìm đường cứu nước, nhiều lần chứng kiến tội ác dã man của CN thực dân đối với đồng bào mình và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, người thấy rõ một dân tộc không có quyền bình đẳng vì dân tộc đó mất độc lập, tự do.
Muốn có bình đẳng dân tộc thì các dân tộc thuộc địa phải được giải phóng khỏi chủ nghĩa thực dân. Nên độc lập dân tộc phải thể hiện ở 3 điểm sau:
Dân tộc đó phải được độc lập toàn diện về chính trị, kinh tế, an ninh, toàn vẹn lãnh thổ và quan trọng nhất là độc lập về chính trị.
Mọi vấn đề chủ quyền quốc gia phải do người dân nước đó tự quyết định.
Nền độc lập thực sự phải được thể hiện ở cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của người dân.
Vì thế, nền độc lập của Việt nam phải theo nguyên tắc nước Việt nam của người Việt Nam, mọi vấn đề về chủ quyền quốc gia phải do người dân Việt Nam tự quyết định, không có sự can thiệp của nước ngoài.
Quyền độc lập, bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng, quý giá nhất và bất khả xâm phạm. “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là lẽ sống, là triết lý Cách mạng Hồ Chí Minh và của dân tộc VIệtNam .
Đó cũng là nguồn cổ vũ to lớn đối với các dân tộc bị áp bức, đấu tranh cho một
nền độc lập tự do, thống nhất đất nước, dân chủ, ấm no, hạnh phúc của người
dân.
Là dân nước nô lệ đi tìm đường cứu nước, nhiều lần chứng kiến tội ác dã man của CN thực dân đối với đồng bào mình và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, người thấy rõ một dân tộc không có quyền bình đẳng vì dân tộc đó mất độc lập, tự do.
Muốn có bình đẳng dân tộc thì các dân tộc thuộc địa phải được giải phóng khỏi chủ nghĩa thực dân. Nên độc lập dân tộc phải thể hiện ở 3 điểm sau:
Dân tộc đó phải được độc lập toàn diện về chính trị, kinh tế, an ninh, toàn vẹn lãnh thổ và quan trọng nhất là độc lập về chính trị.
Mọi vấn đề chủ quyền quốc gia phải do người dân nước đó tự quyết định.
Nền độc lập thực sự phải được thể hiện ở cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của người dân.
Vì thế, nền độc lập của Việt nam phải theo nguyên tắc nước Việt nam của người Việt Nam, mọi vấn đề về chủ quyền quốc gia phải do người dân Việt Nam tự quyết định, không có sự can thiệp của nước ngoài.
Quyền độc lập, bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng, quý giá nhất và bất khả xâm phạm. “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là lẽ sống, là triết lý Cách mạng Hồ Chí Minh và của dân tộc VIệt
KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO
Trương Đình Lãm (1945 - 2000)
Toàn dân ta hân hoan xây dựng vùng Giải phóng
Toàn dân ta reo vui dưới cờ cách mạng
Dân ta quyết không bao giờ làm nô lệ
Dân ta quyết một lòng đánh đuổi xâm lăng
Cờ Giải phóng sẽ bay trên trời Sài Gòn
Tình Bắc Nam nối lại trong một ngày
Trương Đình Lãm (1945 - 2000)
Toàn dân ta hân hoan xây dựng vùng Giải phóng
Toàn dân ta reo vui dưới cờ cách mạng
Dân ta quyết không bao giờ làm nô lệ
Dân ta quyết một lòng đánh đuổi xâm lăng
Cờ Giải phóng sẽ bay trên trời Sài Gòn
Tình Bắc Nam nối lại trong một ngày
Câu 17: Phân tích nguồn gốc
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Trả lời:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH có nguồn
gốc sâu xa từ chủ nghĩa yêu nước, truyền thống nhân ái và tinh thần cộng đồng
làng xã Việt Nam, được hình thành từ lâu đời trong lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc.
+ Hồ Chí Minh tiếp cận tư tưởng về CNXH từ phương diện
kinh tế
Hồ Chí Minh đã tiếp thu
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo và đưa ra
nhiều kiến giải mới phù hợp với Việt Nam . Người khẳng định vai trò quyết
định của sức sản xuất đối với sự phát triển của xã hội cũng như đối với sự
chuyển biến từ xã hội nọ sang xã hội kia.
Trên cơ sở nền tảng kinh tế mới, chủ nghĩa xã hội sẽ xác lập một hệ thống các
giá trị đặc thù mang tính nhân bản thấm sâu vào các quan hệ xã hội. Bác
cũng khẳng định, trong lịch sử loài người có 5 hình thức quan hệ sản xuất
chính, và nhấn mạnh “ không phải quốc gia dân tộc nào cũng đều trải qua các
bước phát triển tuần tự như vậy”. Bác sớm đến với tư tưởng quá độ tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa.
+ Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ văn hoá, đưa văn hoá thâm nhập
vào chính trị, kinh tế tạo nên sự thống nhất biện chứng giữa văn hoá, kinh tế
và chính trị.
+ Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức. Chủ nghĩa
xã hội là đối lập với chủ nghĩa cá nhân.
+ Hồ Chí Minh tiếp cận CNXH từ chủ nghĩa yêu nước và truyền thống văn hoá
tốt đẹp của dân tộc
Từ đặc điểm lịch sử dân tộc: Nước ta không
trải qua thời kỳ chiếm hữu nô lệ, mang đậm dấu ấn phong kiến phương Đông, mâu
thuẫn giai cấp không gay gắt, quyết liệt, kéo dài, như ở phương Tây, do đó hình
thành Quốc gia dân tộc từ sớm; Ngay từ buổi đầu dựng nước, chúng ta liên tục
phải đấu tranh chống ngoại xâm, hình thành chủ nghĩa yêu nước truyền thống; Là
nước nông nghiệp, lấy đất và nước làm nền tảng với chế độ công điền hình thành
cộng đồng thêm bền chặt. Tất cả điều này là giá trị cơ bản của tinh thần và tư
tưởng XHCN ở Việt Nam: Tinh thần yêu nước, yêu thương đùm bọc trong hoạn nạn
đấu tranh, cố kết cộng đồng Quốc gia dân tộc.
Từ truyền thống văn hoá
lâu đời, bản sắc riêng: đó là nền văn hoá lấy nhân nghĩa làm gốc, trừ độc, trừ
tham, trọng đạo lý; nền văn hoá mang tính dân chủ; có tính chất khoan dung; một
dân tộc trọng hiền tài; hiếu học...Hồ Chí Minh quan niệm, chủ nghĩa xã hội là
thống nhất với văn hoá, “chủ nghĩa xã hội là giai đoạn phát triển cao hơn so
với chủ nghĩa tư bản về mặt văn hoá và giải phóng con người”.
Từ tư duy triết học phương Đông: coi trọng hoà
đồng, đạo đức nhân nghĩa. Về phương diện đạo đức, Người cho rằng: chủ nghĩa xã
hội đối lập với chủ nghĩa cá nhân.
Hồ Chí Minh nhận thức về
chủ nghĩa xã hội là kết quả tác động tổng hợp của các nhân tố: truyền thống và
hiện đại; dân tộc và quốc tế; kinh tế, chính trị, đạo đức, văn hoá. Hồ Chí Minh
đã làm phong phú thêm cách tiếp cận về chủ nghĩa xã hội, đóng góp vào phát
triển lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
+ Hồ Chí Minh tiếp cận CNXH từ yêu cầu thực tiễn của
cách mạng Việt Nam
và xu hướng phát triển của thời đại
Cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX đặt ra yêu cầu khách quan là
tìm một ý thức hệ mới đủ sức vạch ra đường lối và phương pháp cách mạng đúng
đắn đem lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam . (Bậc cách mạng tiền bối hoặc
là có ý thức giành độc lập dân tộc lại không có ý thức canh tân đất nước; hoặc
là có ý thức canh tân đất nước lại kém ý thức chống Pháp). Cách mạng Việt Nam
đòi hỏi có một giai cấp tiên tiến đại diện cho phương thức sản xuất mới, có hệ
tư tưởng độc lập, có ý thức tổ chức và trở thành giai cấp tự giác đứng lên làm
cách mạng. Hồ Chí Minh sớm nhìn thấy phong trào yêu nước Việt Nam đang rơi vào
khủng hoảng về đường lối, vì vậy cách mạng chưa đem lại giải phóng dân tộc. Tư
tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội xuất phát từ thực tiễn cách
mạng Việt Nam .
Cách mạng tháng mười Nga
giành thắng lợi đã mở ra con đường hiện thực cho giải phóng dân tộc ở phương
Đông: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH và Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu truyền bá
tư tưởng CNXH trong dân.
+ Hồ Chí Minh đến với CNXH từ tư duy độc lập sáng tạo
tự chủ
Đặc điểm của định hướng
tư duy tự chủ sáng tạo là: định hướng tư duy trên cơ sở thực tiễn; luôn tìm tận
gốc của sự vật, hiện tượng; kết hợp lý trí khoa học và tình cảm cách mạng. Tư
duy của Hồ Chí Minh là tư duy rộng mở và văn hoá.
Câu 18: Phân tích quan
niệm của Hồ Chí Minh về những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Trả lời:
- CNXH là chế độ do nhân dân lao động
làm chủ. CNXH là do quần chúng nhân dân tự xây
dựng nên dưới sự lãnh đạo của Đảng. Có thể khái quát bản chất của CNXH theo
tthcm: Chế độ do nhân dân làm chủ; có nền kt phát triển cao, dựa trên lực lượng
sx hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sx; một xh phát triển cao về văn hóa,
đạo đức; một xh công bằng, hợp lý; là công trình tập thể của nhân dân do nhân
dân xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- CNXH là nền KT phát triển cao dựa trên LLSX
hiện đại và chế độ công hữu TLSX chủ
yếu. Nhiệm vụ quan trọng nhất là phát
triển sản xuất. Sản xuất là mặt trận chính của chúng ta. Người viết:… “lấy nhà
máy, xe lửa, ngân hàng làm của chung. Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì
ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên trừ những người già cả, đau yếu và
trẻ em…”.
- CNXH là xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức. Hồ Chí Minh tiếp cận với CNXH bằng cách xác định động lực xây dựng nó là
phải gắn với phát triển khoa học kỹ thuật “nhằm nâng cao đời sống vật chất và
văn hoá của nhân dân”. do quần chúng nhân dân tự xây dựng nên dưới sự lãnh đạo
của Đảng
- Con người được giải
phóng khỏi áp bức bóc lột, có điều kiện để phát triển toàn diện cá nhân. - Hồ Chí Minh tiếp cận bằng cách xác định mục tiêu của CNXH: không có
người bóc lột người, ai cũng phải lao động, có quyền lao động; thực hiện công
bằng, bình đẳng… “là mọi người được ăn no mặc ấm, sung sướng tự do”, “là đoàn
kết, vui khoẻ”…
- CNXH là xã hội công bằng, hợp lý.
-CNXH là công trình tập thể của nhân
dân, do nhân dân xây dựng dưới sự lãnh đạo của ĐCS.
Có thể khái quát bản chất của CNXH
theo tthcm: Chế độ do nhân dân làm chủ; có nền kt phát triển cao, dựa trên lực
lượng sx hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sx; một xh phát triển cao về
văn hóa, đạo đức; một xh công bằng, hợp lý; là công trình tập thể của nhân dân
do nhân dân xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Câu 19: Nhận thức của anh
(hay chị) về quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã
hội.
Trả lời:
a. Mục tiêu cơ bản
+ Mục tiêu chung, đó là độc lập cho dân
tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân. “Tôi chỉ có một ham muốn…”. Chủ nghĩa xã hội
là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết
là nhân dân lao động”. Hoặc “không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân”. Đây
là mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội theo
quan niệm của Hồ Chí Minh đã khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so
với các chế độ đã tồn tại trong lịch sử là chỉ ra nhiệm vụ giải phóng con người
một cách toàn diện.
Quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội là lâu dài, Hồ Chí Minh cho rằng: “chúng ta phải xây dựng một xã
hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta….”, Đề cập đến
các mục tiêu cụ thể:
+ Mục tiêu chính trị: là chế độ do nhân dân
lao động làm chủ, nhà nước là của dân, do dân và vì dân.
+ Mục tiêu kinh tế: Nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa với công-nông nghiệp hiện đại, khoa học - kỹ thuật tiên tiến, bóc lột bị xoá
bỏ dần, cải thiện đời sống. Kết hợp các lợi ích.
+ Mục tiêu văn hoá - xã hội: văn hoá là mục tiêu cơ bản, xoá mù chữ, phát triển
nghệ thuật, thực hiện nếp sống mới, nâng cao dân trí…
+ Mục tiêu con người: Theo Hồ Chí Minh, CNXH
là công trình tập thể của nhân dân. Do đó, nếu không có con người thì sẽ không
có CNXH.
Trước hết, để xây dựng
CNXH thì phải có con người XHCN. Đó là con người có lý tưởng XHCN, đấu tranh
cho lý tưởng của CNXH.
Thứ hai, con người XHCN
phải luôn gắn tài năng với đạo đức. Người quan niệm: Có tài mà không có đức là
hỏng. Có đức mà không có tài thì không thể làm việc được.
b. Về động lực của
CNXH
+ Phát huy các nguồn động lực về vật
chất và tư tưởng cho việc xây dựng CNXH: vốn, khoa học công nghệ, con người
(năng lực của con người); trong đó lấy con người làm động lực quan trọng và
quyết định. “CNXH chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động
sáng tạo của hàng chục triệu người” (tr. 495 T-8). Nòng cốt là công – nông –
trí thức.
Phát huy động lực con người trên cả
hai phương diện: cộng đồng và cá nhân. Phát huy động lực của cộng đồng là phát
huy sức mạnh của khối đại đoàn kết - động lực chủ yếu để phát triển đất
nước. Phát huy sức mạnh của cá nhân trên cơ sở kích thích hành động gắn liền
với lợi ích vật chất chính đáng của người lao động; “phải chăm nom đến chỗ ăn,
chỗ ở, việc làm của nhân dân”. “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân
rét, Đảng và Chính phủ có lỗi”.
Hồ Chí Minh coi trọng động lực về kinh
tế, phát triển sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho
mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc lợi dân, gắn liền với phát triển
kinh tế - kỹ thuật, kinh tế - xã hội. Tác động cả về chính trị và tinh thần
trên cơ sở phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động và ý thức làm chủ, Hồ
Chí Minh cũng quan tâm đến văn hoa, khoa học, giáo dục. Đó là những động lực
bên trong, tiềm tàng của sự phát triển. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng nhất là
trong vấn đề thực hiện công bằng xã hội phải theo nguyên tắc: “không sợ thiếu,
chỉ sợ không công bằng”. Tránh bình quân, Bác nêu khẩu hiệu 3 khoán và 1
thưởng. Thưởng phạt công minh. “Khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội…”.
Sử dụng vai trò điều chỉnh các nhân tố tinh thần khác như: văn hoá, đạo đức,
pháp luật đối với hoạt động của con người. Đó là những động lực bên trong quan
trọng.
Ngoài ra Hồ Chí Minh còn nêu các động
lực bên ngoài như kết hợp với sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế,
sử dụng những thành quả khoa học kỹ thuật thế giới.
+ Nét độc đáo trong
phong cách tư duy Hồ Chí Minh là chỉ ra yếu tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn lực
vốn có của chủ nghĩa xã hội. Đó là các lực cản:
Căn bệnh thoái hoá, biến chất của cán bộ;
Chống chủ nghĩa cá nhân; Bác coi đó là kẻ thù hung ác của CNXH.
Chống tham ô lãng phí; Bác coi đó là bạn đồng minh của thực dân phong
kiến.
Chống bè phái mất đoàn
kết nội bộ; chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều; chống lười biếng... Theo Bác
các căn bệnh trên sẽ phá hoại đạo đức cách mạng, làm suy giảm uy tín và ngăn
trở sự nghiệp cách mạng của Đảng, Bác gọi đó là giặc nội xâm.
Câu 20:
Phân tích tính tất yếu của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?
Trả lời :
Tính tất yếu:
Để chuyển từ xã hội TBCN lên xã hội
XHCN cần phải trải qua một thời kỳ quá độ nhất định. Tính tất yếu của TKQĐ lên
CNXH được lý giải từ các căn cứ sau đây:
- Một là, CNTB và CNXH khác nhau về
bản chất. CNTB được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu TBCN về các tư liệu sản
xuất; dựa trên chế độ áp bức và bóc lột. CNXH được xây dựng trên cơ sở chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, tồn tại dưới 2 hình thức là nhà nước và
tập thể; không còn các giai cấp đối kháng, không còn tình trạng áp bức, bóc
lột. Muốn có xã hội như vậy cần phải có một thời kỳ lịch sử nhất định.
- Hai là, CNXH được xây dựng trên nền
sản xuất đại công nghiệp có trình độ cao. Quá trình phát triển của CNTB đã tạo
ra cơ sở vật chất – kỹ thuật nhất định cho CNXH, nhưng muốn có cơ sở vật chất –
kỹ thuật đó cần phải có thời gian tổ chức, sắp xếp lại.
Đối với những nước chưa từng trải qua
quá trình CNH tiến lên CNXH , TKQĐ cho việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật
cho CNXH có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành CNH XHCN.
- Ba là, các quan hệ xã hội của CNXH
không tự phát nảy sinh trong lòng CNTB, chúng là kết quả của quá trình xây dựng
và cải tạo XHCN. Sự phát triển của CNTB dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể
tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội XHCN, do
vậy cũng cần phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển các quan hệ
đó.
- Bốn là, công cuộc xây dựng CNXH là
một công việc mới mẻ, khó khăn và phức tạp, cần phải có thời gian để GCCN từng
bước làm quen với những công việc đó.
TKQĐ lên CNXH ở các nước có trình độ
phát triển kinh tế – xã hội khác nhau có thể diễn ra với khoảng thời gian dài,
ngắn khác nhau. Đối vơi những nước đã trải qua CNTB phát triển ở trình độ cao
thì khi tiến lên CNXH, TKQĐ có thể tương đối ngắn. Những nước đã trải qua giai
đoạn phát triển CNTB ở mức độ trung bình, đặc biệt là những nước còn ở trình độ
phát triển tiền tư bản, có nền kinh tế lạc hậu thì TKQĐ thường kéo dài với rất
nhiều khó khăn, phức tạp.
Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH là sự tồn tại đan xen giữa những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của CNXH trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực (kinh tế, chính trị, tư tưởng – văn hóa) của đời sống xã hội
Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH là sự tồn tại đan xen giữa những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của CNXH trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực (kinh tế, chính trị, tư tưởng – văn hóa) của đời sống xã hội
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét