Chủ Nhật, 15 tháng 12, 2013

Câu số 2: Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta là một đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ … phải xứng đáng là một người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Đồng chí hãy phân tích luận điểm ấy của Người và liên hệ với việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

Câu số 2: Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta là một đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ … phải xứng đáng là một người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
Đồng chí hãy phân tích luận điểm ấy của Người và liên hệ với việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Bài làm

Sau khi lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thành công cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết sức quan tâm đến việc xây dựng Đảng ta với tư cách là một Đảng cầm quyền. Người coi đó là một nhiệm vụ quyết định thắng lợi của cách mạng, sự tồn tại và phát triển của chế độ xã hội mới, xã hội  xã hội chủ nghĩa. Trong Tuyên ngôn của đảng Cộng sản, C. Mac và Ph. Ăngghen nói rằng: Giai cấp vô sản mỗi nước, trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành dân tộc. Phát triển sáng tạo tư tưởng này, chủ tịch Hồ Chí Minh là người mác-xít đầu tiên đã kết hợp việc tăng cường bản chất giai cấp công nhân với việc nâng cao tính nhân dân, tính dân tộc trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Người đã chỉ ra, để CM thành công phải có một Đảng chân chính lãnh đạo. Để Đảng vững mạnh thì “ cán bộ, Đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân dân”. Trên cơ sở đó, Người đã giáo dục đội ngũ Đảng viên phải luôn trau dồi đạo đức cách mạng, xây dựng đội ngũ của Đảng trong sạch, vững mạnh để nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ và mục tiêu mà Đảng ta đã xác định ngay từ khi được thành lập đến nay.

HCM đã vận dụng một cách sáng tạo quy luật về Đảng cộng sản - Đảng cầm quyền. Bởi vì tư tưởng HCM về Đảng cộng sảnbắt nguồn từ học thuyết của Mác và ĐCS mà trực tiếp từ học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, đã được Lênin đưa ra. Nhưng xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết ấy để đưa đến việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam vào năm 1930. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã có tính giai cấp và tính nhân dân.
Bên cạnh những nguyên lý chung của việc thành lập Đảng cộng sản trên các nước, HCM còn kết hợp giữa CN Mac Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước là cơ sở và điều kiện vững chắc cho Đảng Công sản Việt Nam ra đời. Vì vậy, Đảng Công sản Việt Nam chính là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mac-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
 Trong tư tưởng và hành động của người, luôn thấy cần có sự lãnh đạo của Đảng CM chân chính của giai cấp công nhân, và Người đã ra sức làm cho Đảng đảm đương được vai trò đó. Nhờ vậy, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đưa CMGPDT đến thắng lợi, và vai trò lãnh đạo của Đảng có tiếp tục giữ vững thì cuộc CM XHCN mới đi đến thành công.
Tư tưởng HCM về Đảng cầm quyền được thể hiện, trải qua các cao trào cách mạng ngày càng sôi nổi, quyết liệt, Đảng CSVN đã lãnh đạo toàn dân tiến hành thắng lợi cuộc CN tháng 8 năm 1945, chính quyền của nhân dân được thành lập, Đảng CSVN trở thành Đảng cầm quyền để tiếp tục lãnh đạo nhân dân, xây dựng CHXH đã được HCM khẳng định: Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo vì: Dù nhân dân đã nắm chính quyền, nhưng giai cấp đấu tranh trong nước và âm mưu của đế quốc xâm lược vẫn còn. Vì phải xây dựng kinh tế, quốc phòng, văn hóa, XH, cho nên Đảng vẫn phải tổ chức lãnh đạo giáo dục quần chúng, để nhân dân lao động đến thắng lợi hoàn toàn. Trong quá trình xây dựng và củng cố Đảng, chủ tịch HCMthường xuyên chăm lo bản chất giai cấp công nhân và nêu cao lý tưởng của Đảng. Người nói: “Người cộng sản chúng ta không được phút nào quên lý tưởng cao cả của mình là:  suốt đời làm cách mạng phấn đấu cho tổ quốc hoàn toàn độc lập, làm cho CNXH và CNCS thắng lợi hoàn toàn trên tổ quốc ta và trên thế giới” (Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb CTQG, HN 1995t12 tr 93). Do đó, theo Người, Đảng cầm quyền là Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong điều kiện Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân giành được quyền lực NN và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy NN đó để tiếp tục hoàn thành sự nghiệp độc lập dân tộc, dân chủ và CNXN. Vai trò chức năng cốt lõi nhất, quan trọng nhất của Đảng cầm quyền là Đảng lãnh đạo chính quyền. Đảng cầm quyền để đảm bảo giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của chính quyền NN. NN do Đảng lãnh đạo phải mang tính chất nhân dân, là công bộc, là đầy tớ của dân, chăm lo cho dân về mọi mặt.  Đảng lãnh đạo NN bằng đường lối chủ trương được thể chế hóa thành hiến pháp, pháp luật, chính sách, bằng quy hoacïh bố trí sử dụng cán bộ, bằng kiểm tra giám sát việc thực hiện đường lối của Đảng với chính quyền.                                     
Một chức năng khác rất quan trọng của Đảng cầm quyền là Đảng lãnh đạo mặt trận và các tổ chức chính trị-XH. HCM chỉ ra rằng yếu tố làm cho Đảng nắm vững quyền lãnh đạo là “Chính sách đúng đắn” và “Năng lực lãnh đạo” của Đảng. Đảng vạch ra chủ trương và đường lối lãnh đạo thuyết phục các tổ chức chính trị XH tham gia hoạt động công tác phong trào CM.
Như vậy” Đảng cầm quyền” không những Đảng lãnh đạo chính quyền NN mà còn lãnh đạo toàn XH. HCM đã từng nhấn mạnh điều này trong di chúc  của Người: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi Đảng viên và cán bộ phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật sự trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, làngười đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. ( Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, HN 1996, t12 tr 510).
Để tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo toàn XH, Đảng cần giữ vững và tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân. Người căn dặn:  chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta. Người còn căn  dặn: cán bộ đảng viên phải vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân;
Từ khi Đảng ta ra đời, do có đường lối đúng đắn và có sự gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng ta đã được nhân dân thừa nhận là Đảng duy nhất có vai trò lãnh đạo cách mạng VN. Trong suốt tiến trình đi lên cách mạng Việt Nam, Đảng ta hoàn toàn xứng đáng với sự tin cậy ấy. Dưới dự lãnh đạo của Đảng và của lãnh tụ HCM, nhân dân đã giành đuợc thắng lợi trọn vẹn của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và vững bước tiến lên con đường XHCN. Cũng trong suốt tiến trình cách mạng VN theo HCM, Đảng phải vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Hai mặt lãnh đạo và đầy tớ không tách rời nhau, không đối lập nhau, mà thống nhất biện chứng với nhau. Đây là một luận điểm lớn đã được HCM nhắc đi nhắc lại nhiều lần, đây cũng là một quan điểm nhất quán khi người xác định vai trò lãnh đạo của Đảng và trách nhiệm của mỗi cán bộ, Đảng viên.
Cần phải thấy rõ rằng cán bộ Đảng viên từ nhân dân mà ra, nhưng lại có trách nhiệm hướng dẫn nhân dân thực hiện đường lối chủ trương chính sách của Đảng và NN, tức là thực hiện vai trò của người lãnh đạo. Muốn hướng dẫn nhân dân thi hành, muốn nói cho dân tin, dân nghe và làm theo mình thì cán bộ đảng viên phải là người có tài có đức, được nhân dân tin yêu, mến phục. Bác cũng đã dạy “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán cộng sản là ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn dân mình phải làm mực thứớc cho họ bắt chướt”. Như vậy: theo HCM Đảng và người lãnh đạo phải trước hết là người “Nói đi đôi làm” ; là ngườiphải làm gương đi đầu trong việc thực hiện mọi chủ trương đường lối của Đảng. Nói đến năng lực lãnh đạo quần chúng của Đảng viên, HCM chú trọng không chỉ trình độ, năng lực lãnh đạo quần chúng mà còn cả phương pháp khoa học và thực thi dân chủ; không chỉ trí tuệ mà còn cả kinh  nghiệm và bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, lối sống gương mẫu, tận tuỵ hy sinh phục vụ dân chúng làm công bộc đầy tớ trung thành của dân. Người đòi hỏi rất cao thái độ dũng cảm và sự thành thật trong tự phê bình, phê bình của Đảng, của cán bộ, Đảng viên. Người nói “ Phê bình cũng như uống thuốc. Sợ phê bình, cũng như có bệnh mà giấu bệnh . không giám uống thuốc. Để đến nỗi bệnh ngày càng nặng, không chết cũng la lết quả dưa” (Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1995, t5, tr 260.) và Người còn nói: “ Một đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng. Một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ nhửng cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sữa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” (Hồ Chí Minh: Sđd tr 261). Có như vậy, Đảng mới được dân tin cậy, dân phục, dân yêu mến, dân giúp đỡ, ủng hộ và bảo vệ, chỉ như vậy Đảng mới là một Đảng tiến bộ, mạnh dạng, chắc chắn và chân chính.
Song song với việc thực hiện tốt vai trò lãnh đạo thì đảng viên của Đảng cầm quyền lại càng phải ý thức thật sâu sắc mình là đầy tớ nhân dân chứ không phải người chủ của nhân dân. cần phải xác định rõ ràng Đảng lãnh đạo nhà nước là nhằm xây dựng một nước thật sự của dân, do dân và vì dân để nhân dân làm chủ nhà nước, điều mà trước khi cách mạng thành công không thể có được. Đảng cầm quyền nhân dân làm chủ quyền lực cao nhất vẫn thuộc về nhân dân: đó chính là quan điểm rất quan trọng của HCM. Vì vậy Đảng viên không được tự cho  phép mình đứng trên nhân dân, trên nhà nước, trên pháp luật là đầy tớ trung thành của nhân dân như HCM đã nói : “ ngoài quyền lợi của giai cấp, của nhân dâncủa dân tộc. Đảng ta không có  lợi ích gì khác” ( Hồ Chí Minh: Sđd, t 10, tr 4).Vì vậy, Đảng phải thường xuyên chăm lo cũng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Đảng không ở trên nhân dân, cũng không ở ngoài dân, mà ở trong dân; trong lòng dân. Không phải chỉ có nhà nước mới lấy dân làm gốc mà Đảng cũng phải lấy dân làm gốc. Chính cái gốc này tiếp tục đem lại nguồn sinh lực vô tận cho Đảng để tiếp tục giúp Đảng thực hịên công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc .Là đầy tớ trung thành của nhân dân, theo Người, Đảng ta còn  phải biết nêu cao tinh thần phục vụ, tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, chăm lo nâng cao đời sống vật chất, văn hóa lẫn tinh thần cho nhân dân việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh… cùng với những điều kiện trên Đảng còn phải ra sức bồi dưỡng nâng cao trí tuệ, sức mạnh của nhân dân, phát huy dân chủ một cách sâu rộng, song không đựơc mị dân, mơn trớn, lợi dụng hoặc theo đuôi quần chúng.
Do vậy để thực hiện được vai trò vừa là người lãnh đạo vừa là đài tớ trung thành của nhân dân mọi cán bộ đảng viên và Đảng phải đề phòng nguy cơ tha hoá quyền lực, không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng.
Từ chưa cầm quyền sang cầm quyền, đó là một sự thay đổi cơ bản trong tồn tại và phát triển của một đảng cộng sản. Hàng loạt thử thách, gay go mới được đặt ra trước Đảng cộng sản. Một Đảng anh hùng trong đấu tranh giành chính quyền vẫn có thể tiêu vong khi cầm quyền. Quan liêu, tham nhũng, hủ hoá luôn là những nguy cơ đe doạ làm mất phẩm chất của những người cộng sản cầm quyền. Nhà nước là công cụ để cách mạng có thể chuyển từ nhiệm vụ phá hoại trật tự cũ sang xây dựng trật tự xã hội mới thì cũng đồng thời như một “cái bẫy” đối với những đảng viên cộng sản thiếu bản lĩnh. Đã có những người cộng sản chưa thấy hết chính quyền là vấn đề cơ bản của cách mạng. Xuất phát từ tầm quan trọng đó, HCM chỉ ra rằng: Khi trở thành Đảng cầm quyền,Đảng phải làm thế nào để quyền lực không làm tha hóa, biến chất Đảng viên. Người đã đề cập đến 3 nguy cơ làm tha hoá biến chất cộng sản:  Đó là nguy cơ làm sai lầm đường lối, nguy cơ về chủ nghĩa cá nhân phát triển và nguy cơ xa dân, mất dân, quần chúng. Sự sai lầm về đường lối xuất phát trừ sự thiếu vững vàng về chính trị, không đứng vững trên lập trừơng giai cấp công nhân, thiếu tri thức, lý luận. Trong điều kiện cầm quyền, chủ nghĩa cá nhân dễ có cơ hội phát triển “đẻ ra nhiều cái xấu” gây tác hại lớn “Làm mất lòng tin cậy của dân sẽ làm hại đến uy tín của Chính phủ. Tham nhũng, quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước. Mỗi biểu hiện của tệ tham nhũng, bệnh quan liêu. Xa dân đều làm suy yếu Đảng, hơn nữa còn làm cho sự tồn tại của Đảng không còn ý nghĩa. Những vấn đề trên còn là những vấn để HCM đặc biệt quan tâm giáo dục cán bộ, Đảng viên, nhất là khi Đảng đả trở thành Đảng cầm quyền.
Do đó, vấn đề quan trọng là sau khi nghiên cứu tư tưởng HCM về Đảng cầm quyền thì mỗi chúng ta vận dụng vào thực tế như thế nào để góp phần giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực lãng đạo và sức chiến đấu của Đảng trong mỗi giai đoạn cánh mạng nhất là giai đoạn hiện nay.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng và nhân dân ta trong thời gian qua, bên cạnh những thành tụ mà Đảng và nhân dân ta đạt được, bên cạnh đó còn bộc lộ một số yếu kém như ĐH Đảng lần thứ X đã xác định là: Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở đảng thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh. Công tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới. Công tác tổchức và cán bộ còn nhiều mặt yếu kém. Chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao.
Kế thừa, vận dụng TTHCM về đảng CS, tiếp thu nghị quyết TW 6 lần 2 (khóa 8), Hội nghị TW 7 (khóa 8) và Nghị quyết Đại Hội lần thứ IX của ĐCSVN về công tác xây dựng Đảng, việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng ngày càng trở nên là nhiệm vụ cấp bách. Đặc biệt chủ đề học tập và làm theo tấm gương tư tưởng Đạo dức Hồ Chí Minh năm 2010 về: Xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh “là đạo đức, là văn minh”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, sự cầm quyền của Đảng ta là do nhân dân ta giao phó cho trách nhiệm cầm quyền đó. Cho nên, Đảng phải luôn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, việc thường xuyên tự đổi mới, tự chính đốn càng phải đưọơc chú ý, trở thành quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Vận dụng tư tưởng của Người việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay chúng ta phải quan tâm thực hiện tốt những nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, phải tăng cường công tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức; tiến hành đúng đắn phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể CT-XH cũng như đối với toàn xã hội; chú trọng rèn luỵên đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên,… làm cho Đảng luôn xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
Hai là, từng tổ chức Đảng và đảng viên phải luôn chú ý đề phòng và khắc phục những biểu hiện tiêu cực, thoái hoá, biến chất, luôn giữ gìn Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Muốn vậy mỗi cán bộ đảng viên phải góp phần khắc phục tình trạng thoái hóa biến chất, suy đồi đạo đức, lối sống tham nhũng, lãng phí xa hoa, chống chủ nghĩa cá nhân…khắc phục các bệnh quan liêu xa rời quần chúng, bệnh chủ quan hình thức địa phương, cục bộ bè phái ham danh vị…. Phải thật sự làm cho toàn Đảng và tổ chức cơsở Đảng cũng như mỗi cán bộ, Đảng viên trong sạch vững mạnh, phải suốt đời phần đấu hy sinh cho lý tưởng của Đảng, phải thật sự đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc của nhân dân lên trên hết và lên trước hết. Đồng thời cán bộ, đảng viên phải giữ cho mình cố một đời tư trong sáng, phải là một tấm gương sáng trong cuộc sống.
- Ba là, Đảng phải thường xuyên quan tâm thực hiện tốt công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên để đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng luôn luôn tòn tâm, toàn ý phụng sự Tổ quốc, phục vụ cach mạng, phục vụ nhân dân. Muốn vậy mỗi cán bộ, đảng viên phải phấn đấu rèn luyện, học tập để thật sự là những người đủ đức, đủ tài đểm đảm đương được mọi nhiệm vụ được giao. Đồng thời phải luôn luôn giác ngộ cách mạng, trung thành với lý tưởng của Đảng, đi tiên phong trong phong trào cách mạng ở địa phương, đơn vị nơi sinh sống cũng như học tập, công tác.
- Thứ tư là, Đảng phải không ngừng vươn lên đáp ứng kịp yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới do sự biến đổi của tình hình trong nước và thế giới hiện nay. Muốn vậy, Đảng phải chú trọng nâng cao tầm trí tuệ, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình. Củng cố hoàn thiện một số vấn đề về tổ chức: Thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng,  sắp xếp lại bộ máy Đảng theo khuynh hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu quả. Nâng cao năng lực trí tuệ của Đảng, không ngừng hoàn thiện về đường lối chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước. Thực hiện việc quản lý, kiểm tra chặt chẻ đối với cán bộ, Đảng viên. Bên cạnh đó Đảng viên viên luôn phải có ý thức cảnh giác, chống các âm mưu phá hoại Đảng của kẻ thù trong và ngoài nước.
Tóm lại, Với kinh nghiệm, tri thức cổ kim đông tây phong phú, uyên bác trong lĩnh vực dùng người, đào tạo và sử dụng can bộ cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu cho chúng ta nhữngnguyên tắc căn bản trong phương thức lãnh đạo của Đảng và cho mỗi cán bộ, đảng viên. Có thể nói, đây là kho tàng tri thức quý giá đối với sự tu dưỡng, rèn luyện năng lực lãnh đạo và phẩm đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên. Đồng thời đây cũng là cơ sở lý luận cho việc đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Bước vào thời kỳ CNH, HĐH hiện nay, luận điểm: Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân của Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên gía trị. Do đó, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng phải tiếp thu và vận dụng đúng đắn tư tưởng của Người về Đảng cầm quyền trong giai đoạn hiện nay, cần phải có sự thống nhất cao trong Đảng để nhận thức và quan điểm trong các vấn đề đặc biệt là những vấn đề có tính nguyên tắc đi đôi với phát huy dân chủ rộng rãi thông qua các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Tuy nhiên, mở rộng dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ cương, chống tình trạng vô chính phủ, tuỳ tiện, nhất là các biểu hiện lợi dụng dân chủ để chống Đảng, chống nhân dân, chống chế độ. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng./.
  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét