Câu số 2: Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta là một đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ … phải xứng đáng là một người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
Đồng chí hãy phân tích luận điểm ấy của Người và liên hệ với việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Bài
làm
Sau khi lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thành công cuộc
cách mạng tháng Tám năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết sức quan tâm đến việc
xây dựng Đảng ta với tư cách là một Đảng cầm quyền. Người coi đó là một nhiệm
vụ quyết định thắng lợi của cách mạng, sự tồn tại và phát triển của chế độ xã
hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong
Tuyên ngôn của đảng Cộng sản, C. Mac và Ph. Ăngghen nói rằng: Giai cấp vô sản
mỗi nước, trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành dân tộc.
Phát triển sáng tạo tư tưởng này, chủ tịch Hồ Chí Minh là người mác-xít đầu
tiên đã kết hợp việc tăng cường bản chất giai cấp công nhân với việc nâng cao
tính nhân dân, tính dân tộc trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
Người đã chỉ ra, để CM thành công phải có một Đảng chân chính lãnh đạo. Để Đảng
vững mạnh thì “ cán bộ, Đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ
của nhân dân”. Trên cơ sở đó, Người đã giáo dục đội ngũ Đảng viên phải luôn
trau dồi đạo đức cách mạng, xây dựng đội ngũ của Đảng trong sạch, vững mạnh để
nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ và mục tiêu mà Đảng ta đã xác định ngay từ khi được
thành lập đến nay.
HCM đã vận dụng một
cách sáng tạo quy luật về Đảng cộng sản - Đảng cầm quyền. Bởi vì tư tưởng HCM về Đảng cộng sảnbắt nguồn từ học thuyết của Mác và ĐCS mà trực tiếp từ
học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, đã được Lênin đưa ra. Nhưng
xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã vận
dụng sáng tạo học thuyết ấy để đưa đến việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam
vào năm 1930. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã có tính giai cấp và tính nhân
dân.
Bên cạnh những nguyên lý chung của việc thành lập Đảng
cộng sản trên các nước, HCM còn kết hợp giữa CN Mac Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước là cơ sở và điều kiện vững chắc cho Đảng Công sản
Việt Nam ra đời. Vì vậy, Đảng Công sản Việt Nam chính là sản phẩm của sự kết
hợp chủ nghĩa Mac-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam.
Trong tư tưởng và
hành động của người, luôn thấy cần có sự lãnh đạo của Đảng CM chân chính của
giai cấp công nhân, và Người đã ra sức làm cho Đảng đảm đương được vai trò đó.
Nhờ vậy, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đưa CMGPDT đến thắng lợi, và vai trò lãnh
đạo của Đảng có tiếp tục giữ vững thì cuộc CM XHCN mới đi đến thành công.
Tư tưởng HCM về Đảng cầm quyền được thể hiện, trải qua các cao trào cách mạng ngày càng sôi nổi, quyết
liệt, Đảng CSVN đã lãnh đạo toàn dân tiến hành thắng lợi cuộc CN tháng 8 năm
1945, chính quyền của nhân dân được thành lập, Đảng CSVN trở thành Đảng cầm
quyền để tiếp tục lãnh đạo nhân dân, xây dựng CHXH đã được HCM khẳng định: Cách
mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo vì: Dù nhân dân đã nắm
chính quyền, nhưng giai cấp đấu tranh trong nước và âm mưu của đế quốc xâm lược
vẫn còn. Vì phải xây dựng kinh tế, quốc phòng, văn hóa, XH, cho nên Đảng vẫn
phải tổ chức lãnh đạo giáo dục quần chúng, để nhân dân lao động đến thắng lợi
hoàn toàn. Trong quá trình xây dựng và củng cố Đảng, chủ tịch HCM thường xuyên chăm lo bản chất giai cấp công nhân và nêu
cao lý tưởng của Đảng. Người nói: “Người cộng sản chúng ta không được phút nào
quên lý tưởng cao cả của mình là: suốt
đời làm cách mạng phấn đấu cho tổ quốc hoàn toàn độc lập, làm cho CNXH và CNCS
thắng lợi hoàn toàn trên tổ quốc ta và trên thế giới” (Hồ Chí Minh: toàn tập,
Nxb CTQG, HN 1995t12 tr 93). Do đó, theo Người, Đảng cầm quyền là Đảng tiếp tục
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong điều kiện Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân
dân giành được quyền lực NN và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy NN đó để tiếp tục
hoàn thành sự nghiệp độc lập dân tộc, dân chủ và CNXN. Vai trò chức năng cốt
lõi nhất, quan trọng nhất của Đảng cầm quyền là Đảng lãnh đạo chính quyền. Đảng
cầm quyền để đảm bảo giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của
chính quyền NN. NN do Đảng lãnh đạo phải mang tính chất nhân dân, là công bộc,
là đầy tớ của dân, chăm lo cho dân về mọi mặt.
Đảng lãnh đạo NN bằng đường lối chủ trương được thể chế hóa thành hiến
pháp, pháp luật, chính sách, bằng quy hoacïh bố trí sử dụng cán bộ, bằng kiểm
tra giám sát việc thực hiện đường lối của Đảng với chính quyền.
Một chức năng khác rất quan trọng của Đảng cầm quyền là
Đảng lãnh đạo mặt trận và các tổ chức chính trị-XH. HCM chỉ ra rằng yếu tố làm
cho Đảng nắm vững quyền lãnh đạo là “Chính sách đúng đắn” và “Năng lực lãnh
đạo” của Đảng. Đảng vạch ra chủ trương và đường lối lãnh đạo thuyết phục các tổ
chức chính trị XH tham gia hoạt động công tác phong trào CM.
Như vậy” Đảng cầm quyền” không những Đảng lãnh đạo chính quyền NN mà còn
lãnh đạo toàn XH. HCM đã từng nhấn mạnh điều này trong di chúc của Người: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền,
mỗi Đảng viên và cán bộ phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật sự trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. ( Hồ Chí
Minh, toàn tập, Nxb CTQG, HN 1996, t12 tr 510).
Để tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo toàn XH, Đảng cần
giữ vững và tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân. Người căn
dặn: chúng ta phải yêu dân, kính dân thì
dân mới yêu ta, kính ta. Người còn căn
dặn: cán bộ đảng viên phải vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung
thành của nhân dân;
Từ khi Đảng ta ra đời, do có đường lối đúng đắn và có sự
gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng ta đã được nhân dân thừa nhận là Đảng duy
nhất có vai trò lãnh đạo cách mạng VN. Trong suốt tiến trình đi lên cách mạng
Việt Nam, Đảng ta hoàn toàn xứng đáng với sự tin cậy ấy. Dưới dự lãnh đạo của
Đảng và của lãnh tụ HCM, nhân dân đã giành đuợc thắng lợi trọn vẹn của cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và vững bước tiến lên con đường XHCN. Cũng trong
suốt tiến trình cách mạng VN theo HCM, Đảng phải vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Hai mặt lãnh đạo và đầy tớ không
tách rời nhau, không đối lập nhau, mà thống nhất biện chứng với nhau. Đây là
một luận điểm lớn đã được HCM nhắc đi nhắc lại nhiều lần, đây cũng là một quan
điểm nhất quán khi người xác định vai trò lãnh đạo của Đảng và trách nhiệm của
mỗi cán bộ, Đảng viên.
Cần phải thấy rõ rằng cán bộ Đảng viên từ nhân dân mà ra, nhưng lại có
trách nhiệm hướng dẫn nhân dân thực hiện đường lối chủ trương chính sách của
Đảng và NN, tức là thực hiện vai trò của người lãnh đạo. Muốn hướng dẫn nhân
dân thi hành, muốn nói cho dân tin, dân nghe và làm theo mình thì cán bộ đảng
viên phải là người có tài có đức, được nhân dân tin yêu, mến phục. Bác cũng đã
dạy “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán cộng sản là ta được
họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng
dẫn dân mình phải làm mực thứớc cho họ bắt chướt”. Như vậy: theo HCM Đảng và
người lãnh đạo phải trước hết là người “Nói đi đôi làm” ; là người phải làm gương đi
đầu trong việc thực hiện mọi chủ trương đường lối của Đảng. Nói đến năng lực
lãnh đạo quần chúng của Đảng viên, HCM chú trọng không chỉ trình độ, năng lực
lãnh đạo quần chúng mà còn cả phương pháp khoa học và thực thi dân chủ; không
chỉ trí tuệ mà còn cả kinh nghiệm và bản
lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, lối sống gương mẫu, tận tuỵ hy sinh phục vụ
dân chúng làm công bộc đầy tớ trung thành của dân. Người đòi hỏi rất cao thái
độ dũng cảm và sự thành thật trong tự phê bình, phê bình của Đảng, của cán bộ,
Đảng viên. Người nói “ Phê bình cũng như uống thuốc. Sợ phê bình, cũng như có
bệnh mà giấu bệnh . không giám uống thuốc. Để đến nỗi bệnh ngày càng nặng, không
chết cũng la lết quả dưa” (Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb, CTQG, HN, 1995, t5, tr
260.) và Người còn nói: “ Một đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một
đảng hỏng. Một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ nhửng cái
đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sữa chữa khuyết điểm
đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” (Hồ Chí Minh:
Sđd tr 261). Có như vậy, Đảng mới được dân tin cậy, dân phục, dân yêu mến, dân
giúp đỡ, ủng hộ và bảo vệ, chỉ như vậy Đảng mới là một Đảng tiến bộ, mạnh dạng,
chắc chắn và chân chính.
Song song với việc thực hiện tốt vai trò lãnh đạo thì đảng viên của Đảng
cầm quyền lại càng phải ý thức thật sâu sắc mình là đầy tớ nhân dân chứ không
phải người chủ của nhân dân. cần phải xác định rõ ràng Đảng lãnh đạo nhà nước
là nhằm xây dựng một nước thật sự của dân, do dân và vì dân để nhân dân làm chủ
nhà nước, điều mà trước khi cách mạng thành công không thể có được. Đảng cầm
quyền nhân dân làm chủ quyền lực cao nhất vẫn thuộc về nhân dân: đó chính là
quan điểm rất quan trọng của HCM. Vì vậy Đảng viên không được tự cho phép mình đứng trên nhân dân, trên nhà nước,
trên pháp luật là đầy tớ trung thành của nhân dân như HCM đã nói : “ ngoài
quyền lợi của giai cấp, của nhân dân của dân tộc. Đảng ta không có lợi ích gì khác” ( Hồ Chí Minh: Sđd, t 10, tr
4).Vì vậy, Đảng phải thường xuyên chăm lo cũng cố mối quan hệ máu thịt giữa
Đảng với nhân dân. Đảng không ở trên nhân dân, cũng không ở ngoài dân, mà ở
trong dân; trong lòng dân. Không phải chỉ có nhà nước mới lấy dân làm gốc mà
Đảng cũng phải lấy dân làm gốc. Chính cái gốc này tiếp tục đem lại nguồn sinh
lực vô tận cho Đảng để tiếp tục giúp Đảng thực hịên công cuộc xây dựng và bảo
vệ tổ quốc .Là đầy tớ trung thành của nhân dân, theo Người, Đảng ta còn phải biết nêu cao tinh thần phục vụ, tinh
thần trách nhiệm trước nhân dân, chăm lo nâng cao đời sống vật chất, văn hóa
lẫn tinh thần cho nhân dân việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm. Việc gì
có hại cho dân ta phải hết sức tránh… cùng với những điều kiện trên Đảng còn
phải ra sức bồi dưỡng nâng cao trí tuệ, sức mạnh của nhân dân, phát huy dân chủ
một cách sâu rộng, song không đựơc mị dân, mơn trớn, lợi dụng hoặc theo đuôi
quần chúng.
Do
vậy để thực hiện được vai trò vừa là người lãnh đạo vừa là đài tớ trung thành
của nhân dân mọi cán bộ đảng viên và Đảng phải đề phòng nguy cơ tha hoá quyền
lực, không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng.
Từ chưa cầm quyền sang cầm quyền, đó là một sự thay đổi cơ bản trong tồn
tại và phát triển của một đảng cộng sản. Hàng loạt thử thách, gay go mới được
đặt ra trước Đảng cộng sản. Một Đảng anh hùng trong đấu tranh giành chính quyền
vẫn có thể tiêu vong khi cầm quyền. Quan liêu, tham nhũng, hủ hoá luôn là những
nguy cơ đe doạ làm mất phẩm chất của những người cộng sản cầm quyền. Nhà nước
là công cụ để cách mạng có thể chuyển từ nhiệm vụ phá hoại trật tự cũ sang xây
dựng trật tự xã hội mới thì cũng đồng thời như một “cái bẫy” đối với những đảng
viên cộng sản thiếu bản lĩnh. Đã có những người cộng sản chưa thấy hết chính
quyền là vấn đề cơ bản của cách mạng. Xuất phát từ tầm quan trọng đó, HCM chỉ
ra rằng: Khi trở thành Đảng cầm quyền, Đảng phải làm thế nào để quyền lực không làm tha hóa,
biến chất Đảng viên. Người đã đề cập đến 3 nguy cơ làm tha hoá biến chất cộng
sản: Đó là nguy cơ làm sai lầm đường
lối, nguy cơ về chủ nghĩa cá nhân phát triển và nguy cơ xa dân, mất dân, quần
chúng. Sự sai lầm về đường lối xuất phát trừ sự thiếu vững vàng về chính trị,
không đứng vững trên lập trừơng giai cấp công nhân, thiếu tri thức, lý luận.
Trong điều kiện cầm quyền, chủ nghĩa cá nhân dễ có cơ hội phát triển “đẻ ra
nhiều cái xấu” gây tác hại lớn “Làm mất lòng tin cậy của dân sẽ làm hại đến uy
tín của Chính phủ. Tham nhũng, quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến
những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước. Mỗi biểu hiện
của tệ tham nhũng, bệnh quan liêu. Xa dân đều làm suy yếu Đảng, hơn nữa còn làm
cho sự tồn tại của Đảng không còn ý nghĩa. Những vấn đề trên còn là những vấn
để HCM đặc biệt quan tâm giáo dục cán bộ, Đảng viên, nhất là khi Đảng đả trở
thành Đảng cầm quyền.
Do
đó, vấn đề quan trọng là sau khi nghiên cứu tư tưởng HCM về Đảng cầm quyền thì
mỗi chúng ta vận dụng vào thực tế như thế nào để góp phần giữ vững vai trò lãnh đạo của
Đảng, nâng cao năng lực lãng đạo và sức chiến đấu của Đảng trong mỗi giai đoạn
cánh mạng nhất là giai đoạn hiện nay.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng và nhân dân ta trong
thời gian qua, bên cạnh những thành tụ mà Đảng và nhân dân ta đạt được, bên
cạnh đó còn bộc lộ một số yếu kém như ĐH Đảng lần thứ X đã xác định là: Tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ
hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận
cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở đảng thiếu sức
chiến đấu và không đủ năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh. Công
tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi
mới. Công tác tổchức và cán bộ còn nhiều mặt yếu kém. Chất lượng và hiệu
quả kiểm tra, giám sát chưa cao.
Kế thừa, vận dụng TTHCM về đảng CS, tiếp thu nghị quyết
TW 6 lần 2 (khóa 8), Hội nghị TW 7 (khóa 8) và Nghị quyết Đại Hội lần thứ IX
của ĐCSVN về công tác xây dựng Đảng, việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng ngày càng
trở nên là nhiệm vụ cấp bách. Đặc biệt chủ đề học tập và làm theo tấm gương tư
tưởng Đạo dức Hồ Chí Minh năm 2010 về: Xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch,
vững mạnh “là đạo đức, là văn minh”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, sự cầm quyền của Đảng ta là do
nhân dân ta giao phó cho trách nhiệm cầm quyền đó. Cho nên, Đảng phải luôn xứng
đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, việc thường
xuyên tự đổi mới, tự chính đốn càng phải đưọơc chú ý, trở thành quy luật tồn
tại và phát triển của Đảng. Vận dụng tư tưởng của Người việc tự đổi mới, tự
chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay chúng ta phải quan tâm thực hiện tốt
những nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, phải tăng cường công tác xây dựng Đảng cả về
chính trị, tư tưởng, tổ chức; tiến hành đúng đắn phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể CT-XH cũng như đối với toàn xã hội;
chú trọng rèn luỵên đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên,… làm cho
Đảng luôn xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc Việt Nam.
Hai là, từng tổ chức Đảng và đảng viên phải luôn chú ý đề phòng và khắc
phục những biểu hiện tiêu cực, thoái hoá, biến chất, luôn giữ gìn Đảng thật sự
trong sạch, vững mạnh. Muốn vậy mỗi cán bộ đảng viên phải góp phần khắc phục
tình trạng thoái hóa biến chất, suy đồi đạo đức, lối sống tham nhũng, lãng phí
xa hoa, chống chủ nghĩa cá nhân…khắc phục các bệnh quan liêu xa rời quần chúng,
bệnh chủ quan hình thức địa phương, cục bộ bè phái ham danh vị…. Phải thật sự
làm cho toàn Đảng và tổ chức cơ sở Đảng cũng như mỗi cán bộ, Đảng viên trong sạch vững
mạnh, phải suốt đời phần đấu hy sinh cho lý tưởng của Đảng, phải thật sự đặt
quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc của nhân dân lên trên hết và lên trước hết.
Đồng thời cán bộ, đảng viên phải giữ cho mình cố một đời tư trong sáng, phải là
một tấm gương sáng trong cuộc sống.
- Ba là, Đảng phải thường xuyên quan tâm thực hiện tốt
công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên để đội ngũ cán bộ, đảng
viên của Đảng luôn luôn tòn tâm, toàn ý phụng sự Tổ quốc, phục vụ cach mạng,
phục vụ nhân dân. Muốn vậy mỗi cán bộ, đảng viên phải phấn đấu rèn luyện, học
tập để thật sự là những người đủ đức, đủ tài đểm đảm đương được mọi nhiệm vụ
được giao. Đồng thời phải luôn luôn giác ngộ cách mạng, trung thành với lý
tưởng của Đảng, đi tiên phong trong phong trào cách mạng ở địa phương, đơn vị
nơi sinh sống cũng như học tập, công tác.
- Thứ tư là, Đảng phải không ngừng vươn lên đáp ứng kịp
yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới do sự biến đổi của tình hình trong nước
và thế giới hiện nay. Muốn vậy, Đảng phải chú trọng nâng cao tầm trí tuệ, năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình. Củng cố hoàn thiện một số vấn đề về tổ
chức: Thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, sắp xếp lại bộ máy Đảng theo khuynh hướng
tinh gọn, hoạt động có hiệu quả. Nâng cao năng lực trí tuệ của Đảng, không
ngừng hoàn thiện về đường lối chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của
nhà nước. Thực hiện việc quản lý, kiểm tra chặt chẻ đối với cán bộ, Đảng viên.
Bên cạnh đó Đảng viên viên luôn phải có ý thức cảnh giác, chống các âm mưu phá
hoại Đảng của kẻ thù trong và ngoài nước.
Tóm lại, Với kinh nghiệm, tri thức cổ kim đông tây phong phú, uyên
bác trong lĩnh vực dùng người, đào tạo và sử dụng can bộ cách mạng, chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nêu cho chúng ta nhữngnguyên tắc căn bản trong phương thức lãnh đạo của Đảng và
cho mỗi cán bộ, đảng viên. Có thể nói, đây là kho tàng tri thức quý giá đối với
sự tu dưỡng, rèn luyện năng lực lãnh đạo và phẩm đạo đức của mỗi cán bộ, đảng
viên. Đồng thời đây cũng là cơ sở lý luận cho việc đổi mới và hoàn thiện phương
thức lãnh đạo của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Bước vào thời kỳ
CNH, HĐH hiện nay, luận điểm: Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung
thành của nhân dân của Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên gía trị. Do đó, tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng phải tiếp thu và vận dụng đúng đắn tư tưởng của Người về
Đảng cầm quyền trong giai đoạn hiện nay, cần phải có sự thống nhất cao
trong Đảng để nhận thức và quan điểm trong các vấn đề đặc biệt là những vấn đề
có tính nguyên tắc đi đôi với phát huy dân chủ rộng rãi thông qua các hình thức
dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Tuy nhiên, mở rộng dân chủ phải gắn với
tăng cường kỷ cương, chống tình trạng vô chính phủ, tuỳ tiện, nhất là các biểu
hiện lợi dụng dân chủ để chống Đảng, chống nhân dân, chống chế độ. Tiếp tục đẩy
mạnh cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh
và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét