3.2.3. Hoàn chỉnh pháp luật
và bộ Lê triều hình luật
Năm 1483, sau khi lên ngôi
vua, Lê Thánh Tông cho tập hợp những điều lệ đã ban trong các đời vua Lê trước,
tham khảo pháp luật thờI Lý - Trần, căn cứ vào tình hình của đất nước mà soạn
ra bộ luật mới. Đó là bộ Lê triều hình luật, còn gọi là bộ luật Hồng Đức. Bộ
luật này kể cả những điều luật được bổ sung thêm ở thời Lê mạt, gồm 722 điều
luật, chia làm 6 quyển, 16 chương.
Nội dung cơ bản của bộ luật
nhằm khẳng định và củng cố sự thắng lợi của giai cấp địa chủ, trấn áp mọi hành
động chống đối nhà nước phong kiến, xâm phạm đến lợi ích của giai cấp thống
trị. Gồm mấy đặc điểm sau:
- Bảo vệ quyền thống trị của
nhà nước quân chủ quan liêu. Cả một chương của bộ luật dành cho luật cấm vệ gồm
47 điều, nhằm bảo đảm an toàn hoàng cung và bản thân nhà vua. Những hành vi ra
vào hoàng cung trái với thể lệ đều bị trừng trị nặng. Tội mưu phản, mưu đại
nghịch, mưu chống lại nhà nước, nhà vua đều bị tử hình, bất cứ ai cũng không
được hưởng chế độ bát nghị, không được chuộc tội bằng tiền, không được miễn
giảm khi triều đình ân xá.
- Bảo vệ quyền lợi của giai
cấp địa chủ phong kiến. Nhà nước có những quy định được ghi vào luật pháp nhằm
giành cho tầng lớp quý tộc quan liêu nhiều đặc quyền, đặc lợi. Những đại quý
tộc và quan lại cao cấp nếu phạm tội (trừ tội thập ác) thì được ân giảm hay tha
bổng theo lệ “bát nghị”. Bảo vệ quyền lợi của nhà nước và của giai cấp thống
trị còn được thể hiện trong nhiều điều luật của bộ luật Hồng Đức, nghiêm cấm và
trừng phạt nặng những hành vi xâm lấn, chiếm đoạt ruộng đất công, quy định quyền
sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, quy định những nguyên tắc mua bán, cầm
cố, kế thừa ruộng đất. Có những điều khoản đã trở thành cơ sở pháp lý cho việc
chiếm đoạt ruộng đất của giai cấp địa chủ.
- Củng cố trật tự xã hội
phong kiến, bảo vệ chế độ gia tộc phụ quyền và các chuẩn mực đạo đức phong kiến
theo tinh thần Nho giáo. Cơ sở xã hội nhà nước phong kiến thời Lê sơ là chế độ
gia tộc phụ quyền.
Tầng lớp quý tộc quan liêu
là đẳng cấp cao nhất trong xã hội, có nhiều đặc quyền, đặc lợi về nhiều phương
diện. Có những điều luật quy định nghiêm ngặt về áo quần, ăn mặc, nhà cửa, đồ
dùng chỉ dành cho tầng lớp quý tộc quan liêu, dân thường không được dùng. Tầng
lớp nô tỳ bị coi là thấp kém nhất trong xã hội, không được coi là thần dân của
nhà nước. Đối với phụ nữ, bộ luật Hồng Đức có những điều luật khắt khe hơn đối
với nam giới. Tuy nhiên, trong một số điều luật, người phụ nữ thời Lê sơ được
pháp luật bảo vệ quyền lợi kinh tế. Con gái được hưởng quyền chia gia tài bình
đẳng như con trai, trong trường hợp gia đình không có con trai thì con gái
trưởng được quyền thừa kế hương hỏa. Khi phân chia tài sản gia đình do ly hôn,
người vợ được lấy lại số tài sản riêng do bố mẹ cho làm của hồi môn và chia tài
sản thành hai phần bằng nhau cho hai người. Về mặt hôn nhân, người con gái đã
đính hôn nhưng chưa làm lễ thành hôn mà người con trai bổng mắc bệnh không thể
chữa, hoặc phạm tội, hoặc phá tài sản thì người con gái được phép xin từ hôn và
trả lại sính lễ. Những quy định nói trên nhằm bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ
đã thể hiện được tính thực tiễn, tính dân tộc và tiến bộ của luật pháp bấy giờ.
Bộ luật Hồng Đức là bộ luật
hoàn chỉnh nhất của nhà nước phong kiến việt Nam . Về cơ bản, bộ luật này là bộ
luật hình như tên gọi của nó – Lê triều hình luật, nhưng thực chất, đây là một
bộ luật tổng hợp nhiều mặt luật pháp (luật hình, luật hành chính, luật dân sự,
luật tố tụng, luật hôn nhân và gia đình…). Bộ luật biểu hiện rõ nét tính chất
giai cấp và quyền lực của nhà nước phong kiến đối với nhân dân, nhưng đây cũng
là bộ luật tương đối tiến bộ nhất trong thời đại phong kiến Việt Nam, mang đậm
nét sáng tạo và tinh thần thực tiễn của giai cấp phong kiến Việt Nam trong giai
đoạn đi lên của nó. Giáo sư Oliverôldman, chủ nhiệm khoa Luật Đông Á (Đại học
Luật Haward), nhận xét: “Bộ luật thời Lê của nước Việt Nam truyền
thống là một công trình bất hủ của vùng Đại Đông Á truyền thống. Nếu ngày mai
chúng ta được chứng kiến ở Trung Hoa một cuộc đấu tranh nhằm từ bỏ sự vô tổ
chức sau cách mạng văn hóa và đi tới soạn thảo luật pháp nhằm hiện đại hóa đất
nước, thì chúng ta cũng thấy triều đại nhà Lê ở Việt Nam vào những thế kỷ đặc
biệt của mình đã nổ lực xây dựng một quốc gia dân tộc vững mạnh như thế nào để
bảo vệ quyền tư hữu hợp pháp của con người thông qua hệ thống pháp luật tiến
bộ, trong đó có nhiều điều đã có thể sánh ngang về mặt chức năng với những quan
điểm pháp luật ở phương Tây cận đại”.
[2, tr.102].
Trong làng xã Việt Nam
truyền thống, nhân dân ta thường coi lệ làng cũng quan trọng không kém phép
nước. Thời Lê sơ cũng vậy, ngoài luật nước, các làng xã cũng xây dựng và sửa
đổi khoán ước, hương ước của làng mình cho phù hợp với điều kiện mới. Việc xét
xử theo lệ làng cũng nghiêm ngặt không kém luật nước. Người dân ở các làng xã
vẫn mong muốn qua lệ làng, khoán ước, hương ước để thể hiện và bảo vệ quyền tự
trị của mình có khi khác với luật pháp của nhà nước. Chính vì thế, Lê Thánh
Tông buộc phải chấp nhận cho các làng xã lập “khoán ước và cấm lệ”, nhưng lại
ban hành những quy định của nhà nước về việc lập “lệ làng”, chỉ ở “những làng,
xã nào có những tục lệ khác lạ” và “quan lại cấp trên duyệt nếu cần thì bác
bỏ”, nhằm không cho phép các “lệ làng” làm trái với luật pháp của nhà nước. Nhà
Lê muốn thống nhất giữa lệ làng với phép nước, lấy luật pháp nhà nước để trị
tội những người không chịu theo tục lệ của làng khi tục lệ đó đã được nhà nước
chuẩn y. Luật pháp của nhà nước Lê sơ đã hạn chế và thu hẹp quyền tự trị của
các làng, xã rất rõ nét, tăng cường sự lệ thuộc của các làng, xã với nhà nước
trung ương, củng cố chế độ quân chủ quan liêu.
3.2.4. Cải cách kinh tế,
phát triển nông nghiệp
3.2.4.1. Chế độ lộc điền
Khác hẳn với các triều Lý,
Trần, nhà Lê thực hiện chính sách lộc điền, đem ruộng đất thuộc quyền sở hữu
của nhà nước ban cấp cho tầng lớp quan lại cao cấp. Chế độ lộc điền được thi
hành ngay từ những triều vua đầu tiên của nhà Lê, nhưng chưa trở
thành quy chế. Đến thời vua Lê
Thánh Tông mới được quy định và ban hành thống nhất trong cả nước (1477). Ruộng
đất dùng để ban cấp chủ yếu là loại ruộng đất công làng xã. Lộc điền gồm hai
loại: một loại cấp vĩnh viễn gọi là ruộng đất thế nghiệp, một loại cấp tạm thời
trong một đời, sau khi chết 3 năm thì phải hoàn lại cho nhà nước. Chế độ lộc
điền là hình thức ban cấp ruộng đất quy mô của nhà Lê nhằm ưu đãi tầng lớp quý
tộc, quan lại cao cấp, biến họ trở thành những địa chủ lớn. Chế độ lộc điền đã
góp phần củng cố và phát triển chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất cũng như góp
phần xác lập quan hệ sản xuất địa chủ, tá điền và chế độ bóc lột địa tô phù hợp
với bước phát triển mới của chế độ sở hữu tư nhân lớn về ruộng đất và của những
quan hệ sản xuất phong kiến. Cùng với chính sách quân điền, chính sách lộc điền
đã tiến một bước mạnh mẽ vào chế độ chiếm hữu ruộng đất công của làng xã, khẳng
định tính chất phong kiến của chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất. Chế độ lộc
điền có tác dụng củng cố bộ máy quan liêu, củng cố cơ sở xã hội của nhà nước
phong kiến (giai cấp địa chủ), đánh dấu một bước tiến trong quá trình hình
thành và xác lập chế độ phong kiến Việt Nam .
3.2.4.2. Chính sách quân
điền
Cũng như chính sách lộc
điền, chính sách quân điền đã được thực hiện ngay từ những triều vua trước. Đến
đời vua Lê Thái Tông, từ năm 1477, chính sách quân điền mới được chính thức ban
hành và từ năm 1481, được thực hiện thống nhất trên quy mô cả nước theo nguyên
tắc sau:
Tất cả mọi người từ quan tam
phẩm đến cô nhi quả phụ đều được chia ruộng công. Những gia đình nông dân
thường đã có ruộng đất riêng đầy đủ, không được cấp.
Ruộng xã nào chia cho dân xã
ấy, xã nào ruộng quá nhiều, người ít thì cho phép lấy bớt ruộng xã nhiều chia
cho xã bên cạnh ruộng ít, người nhiều. Dân trong xã tùy theo thứ hạng được cấp
phần ruộng đất khác nhau. Quan hàm tam phẩm được 11 phần, ngũ phẩm được 9,5
phần… Cô nhi, quả phụ được 3 phần.
Ruộng công làng xã cứ 6 năm
chia lại một lần. Mọi người cày cấy ruộng công đều phải nộp tô cho nhà nước.
Riêng quan lại từ tứ phẩm trở lên do lộc điền ít nên không phải nộp tô.
Chính sách quân điền thời
Hồng Đức là một đòn tấn công mạnh mẽ nhằm phủ định quyền chi phối ruộng đất
công của làng xã theo tục lệ, buộc làng xã phải tuân thủ những nguyên tắc quy
định về phân chia và hưởng thụ bộ phận ruộng đất công – là bộ phận ruộng đất
quan trọng nhất, lớn nhất của nhà nước, làng xã lệ thuộc chặt chẽ vào nhà nước,
trên nguyên tắc, ruộng đất công làng xã không được đem mua bán, chuyển nhượng,
quyền đó thuộc nhà nước trung ương, nhà vua. Nhà nước trung ương, nhà vua với
chính sách quân điền đã trở thành người chủ lớn nhất trong cả nước và nông dân
làng xã trở thành tá điền của nhà nước, làng xã rơi xuống địa vị là người quản
lý ruộng đất cho nhà nước trung ương, nhà vua. Chính sách quân điền góp phần
quan trọng vào sự xác lập và hệ thống của những quan hệ sản xuất phong kiến:
quan hệ sản xuất địa chủ - tá điền trong xã hội ở thế kỷ XV.
Chính sách này còn có tác
dụng giải quyết vấn đề ruộng đất trong nông nghiệp, tạo điều kiện củng cố nền
kinh tế tiểu nông, thúc đẩy sản xuất, phục hồi và phát triển kinh tế nông
nghiệp trong cả nước. Tuy nhiên, chính sách quân điền của Lê Thánh Tông chứa
đựng sâu sắc tính chất giai cấp và còn bộc lộ những mặt tiêu cực và hạn chế,
chứa đựng những mâu thuẫn nan giải, đã trói buộc người nông dân vào ruộng đất
để bóc lột tô thuế và chịu mọi gánh nặng sưu dịch của nhà nước trong lúc sự
củng cố nền kinh tế tiểu nông lại tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
sản xuất hàng hóa, trong tình hình sự phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất đã
thắng thế trong xã hội.
3.2.4.3. Chính sách khẩn
hoang và đồn điền
Xuất phát từ yêu cầu nhanh
chóng phục hồi nền kinh tế nông nghiệp sau một thời gian dài chiến tranh, nhà
nước Lê sơ ngay từ rất sớm, đã có những chính sách khuyến khích nhân dân các
làng xã khai hoang lập làng, đặc biệt dưới thời Lê Thánh Tông. Nhiều chỉ dụ của
nhà vua được ban hành nhằm đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang, lập làng và hợp pháp
hóa việc khai hoang, lập làng trong nhân dân, góp phần giải quyết tình hình lưu
vong trong xã hội. Nhờ những biện pháp tích cực, cho đến nửa sau thế kỷ XV,
diện tích ruộng đất hoang hóa đã được khôi phục, tăng thêm diện tích sản xuất,
tăng thêm nguồn thu nhập của nhà nước; bộ phận nông dân tư hữu, tự do tăng lên,
điều hòa mâu thuẫn giai cấp, ổn định xã hội, nền kinh tế nông nghiệp nhanh
chóng được phục hồi và có bước phát triển.
Song song với chính sách
khai hoang, lập làng, Lê Thánh Tông còn đẩy mạnh việc khai hoang lập đồn điền.
Chính sách này bắt đầu được thi hành từ thời Thái Tổ và được mở rộng dưới thời
Thánh Tông. Chỉ dụ năm 1481 nêu rõ mục đích lập đồn điền của nhà nước “để khai
thác hết sức nông nghiệp, mở rộng nguồn súc tích cho nước”. Nhiều sở đồn điền
được thành lập chuyên lo việc mộ dân lưu vong khẩn hoang. Lực lượng được huy
động ở hình thức khai hoang này bao gồm cả quân lính đồn trú, tù binh, tội
nhân. Nhà nước đặt ra cơ quan chuyên trách công việc khai hoang, lập đồn điền
do các chức quan chánh, phó sứ đồn điền phụ trách.
Chính sách đồn điền của Lê
Thánh Tông có tác dụng tích cực, thiết thực trong việc mở rộng diện tích sản
xuất, phát triển kinh tế nông nghiệp.
Như vậy,
khoảng từ năm 1471, thông qua cải cách, Lê Thánh Tông đã tạo được hệ thống hành
chính thống nhất trong phạm vi cả nước. Hệ thống khá gọn gàng với chức trách
phân minh, bảo đảm sự chỉ đạo và tập trung quyền lực của trung ương. Đây là mô
hình tiên tiến nhất của chế độ quân chủ phong kiến đương thời, trong đó, trung
ương và địa phương gắn liền nhau, quyền lực được bảo đảm từ trên xuống dưới. Lê
Thánh Tông là một vị hoàng đế lớn của một vương triều mạnh, có nhiều đóng góp
trong lịch sử dân tộc...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét