2.4. Triều Lê (sơ) _ 1428-1527
Sau khi giành lại nền độc lập, ngày 29-4-1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế,
lấy niên hiệu là Thuận Thiên, đổi lại quốc hiệu là Đại Việt, đóng đô ở Đông Đô.
- Đến triều Lê, chế độ trung ương tập quyền có chiều hướng tăng cường chế
độ chuyên chế. Vua được thần thánh hoá và có uy quyền tuyệt đối. Dưới vua có tả
hữu tướng quốc, tam thái, tam thiếu, bộc xạ. Dưới nữa là hai ban văn võ. Các cơ
quan chuyên trách như Khu mật viện, Hàn lâm viện, Ngũ hình viện, Ngự sử
đài.v.v. được cải tổ nhằm tăng cường sự chi phối của triều đình, hạn
chế quyền lực địa phương. Đứng đầu các
đạo là hành khiển.
- Thời Lê Thánh Tông cả nước được chia thành 12 đạo thừa tuyên. Cơ sở
hành chính hạ tầng được củng cố vững chắc. Dưới đạo là phủ, huyện,châu, hương
và xã. Lê Thánh Tông bãi bỏ các chức vụ trung gian, vua trực tiếp kiểm soát lục
bộ, bên cạnh các bộ còn lập thêm 6 khoa và sáu tự có chức năng kiểm soát và
giúp việc.
- Quan lại thời Lê đều tuyển qua khoa cử, ngoại trừ các tướng lĩnh có
công lao, ngay cả quý tộc tôn thất cũng phải đỗ đạt qua thi cử mới được phong
chức. Thánh Tông quy định chế độ lương bổng cho quan lại rõ ràng và thống nhất.
- Bộ luật Hồng Đức ban
hành năm 1443 là bộ luật hoàn chỉnh nhất nước ta đương thời. Bộ luật gồm 722
điều được chia thành 16 chương. Bộ luật này thể hiện rõ ý thức giai cấp của nhà
Lê nhưng cũng phản ánh rõ nét tính dân tộc, qua các điều luật tiến bộ bảo vệ
quyền lợi của người phụ nữ và dân tự do.
Lê
triều hình luật chia thành 6 quyển, mỗi quyển có 2 chương (riêng quyển III có 6
chương).
Quyển I
: Chương Danh lệ, gồm 49 điều.
(Chương
nói về tên và lệ luật các hình phạt)
Chương
Cấm vệ, gồm 47 điều
(Chương nói về
luật vệ cấm: bảo vệ những nơi cấm địa như cung miếu, lăng tẩm v. v.).
Quyển
II: Chương Chức chế, gồm 144 điều
(Chương
nói về việc trái phép)
Chương
Quân chính, gồm 43 điều
(Chương
nói về việc quân chính)
Quyển
III : Chương Hộ hôn, gồm 58 điều
Chương
Điền sản, gồm 32 điều
Chương
Điền sản mới, gồm14 điều
Chương
Điền sản tăng bổ gồm 04 điều
Chương
Xem xét định lại và tăng bổ luật Hương hỏa, gồm 09 điều
Chương
Thông gian, gồm 10 điều
Quyển
IV: Chương Trộm cướp, gồm 54 điều
Chương
Đấu tụng, gồm 50 điều
Quyển
V: Chương Trá ngụy, gồm 38 điều
Chương
Tạp luật, gồm 92 điều
Quyển
VI: Chương Bộ vong, gồm 63 điều
Chương
Đoán ngục, gồm 65 điều
Thời
Lê, nhất là thời Lê Thánh Tông, còn nhiều chiếu, chỉ, sắc dụ của Vua để hướng
dẫn thi hành luật.
Năm
1644, khi biếm chức Tả thị lang Bộ Binh Nguyễn Đình Mỹ về tội tham nhũng, Vua
dụ các quan: Pháp luật là phép công của
nhà nước, ta cùng các ngươi phải tuân theo.
Trong
đạo sắc 1474, Vua viết: Đặt luật là để
trừ kẻ gian, sao dung được bọn coi thường pháp luật.
Lê
Thánh tông cũng coi trong việc xây dựng đội ngũ quan lại thực thi pháp luật.
Vua cho rằng: Hình quan là chức quan
trọng, phải chọn người có sở trường. Quan lại các ty ở Hình bộ nếu tài năng
kiến thức nông cạn...phải lựa thải ra, làm bản tâu lên, giao cho Bộ Lại đổi
chức khác.
Năm
1491, vua định lệ: Quan lại ở Hình bộ
người nào mắc tội lười biếng, gian tham, buông tuồng phóng túng thì làm bản tâu
lên theo luật mà trị tội.
- Quân đội thời Lê sơ là quân đội mạnh, được tố chức thành hai loại, quân
cấm vệ và 5 đạo quân: Trung, Đông, Tây, Nam, Bắc. Chế độ binh dịch được quản lý
chặt chẽ. Chính sách “Ngụ binh ư nông”
được áp dựng từ thời Lý vẫn được duy trì dưới triều Lê.
- Chính sách ruộng đất bảo vệ quyền sở hữu nhà nước về ruộng đất. Đại bộ
phận ruộng đất trong nước lúc đó là ruộng đất công xã. Nhà vua, dưới danh nghĩa
chủ sở hữu tối cao về ruộng đất đã đem một số ruộng đất công xã phong cấp cho
công thần. Thời Lê Thánh Tông ban hành chính sách lộc điền và quân điền. Lộc
điền là ruộng ban cấp cho quan lại từ tam, tứ phẩm trở lên. Quan lại chức thấp
hơn chỉ được hưởng phần ruộng công xã theo chế độ quân điền
Trong thời gian các triều vua Lê từ Thái tổ đến Thánh Tông (1428 - 1497),
nước Đại Việt dần dần hồi phục và phát triển. Từ đầu thế kỷ 16, triều Lê bắt
đầu suy vong.
Nhìn chung, trong các
giai đoạn đầu của các triều đại Lý - Trần - Lê sơ, chế độ phong kiến Việt Nam
phát triển cường thịnh. Đó là nguyên nhân chủ yếu tạo nên sức mạnh của dân tộc,
đẩy lùi các cuộc xâm lược của phong kiến phương Bắc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét