BÀI LÀM MANG TÍCH CHẤT THAM KHẢO
I. Lý thuyết:
Câu 1: Anh(chị) hãy làm rõ tại sao nói LHC là một ngành luật độc lập
trong hệ thống pháp luật Việt Nam?
1. Ðối tượng điều chỉnh của luật hành chính
- Ðối tượng điều
chỉnh của một ngành luật nói chung là những quan hệ xã hội xác định các đặc
tính cơ bản giống nhau và do những quy phạm thuộc ngành luật đó điều chỉnh.
Cùng với phương pháp điều chỉnh, đối tượng điều chỉnh là tiêu chuẩn để phân biệt
ngành luật này với ngành luật khác. Ðối tượng luật hành chính Việt Nam là những
quan hệ xã hội chủ yếu và cơ bản hình thành trong lĩnh vực quản lý hành chính
nhà nước
- Đối tượng điều
chỉnh của luật hành chính bao gồm những vấn đề sau:
+ Việc thành lập,
cải tiến cơ cấu bộ máy, cải tiến chế độ làm việc, hoàn chỉnh các quan hệ công
tác của các cơ quannhà nước.
+ Các hoạt động
quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, trật tự xã hội trên từng địa
phương và từng ngành.
+ Trực tiếp phục
vụ nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân. Ðây phải được xác định là mục tiêu
hàng đầu của quảnlý hành chính.
+ Khen thưởng,
trao danh hiệu cho các cá nhân tổ chức có đóng góp.
Nhóm
1: Những quan hệ quản lý phát sinh
trong quá trình các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện
hoạt động chấp hành và điều hành trong phạm vi các
cơ quan hành chính nhà nước (ngoại trừ hoạt
động trong quanhệ công tác nội bộ), với
mục đích chính là đảm bảo trật tự quản lý, hoạt
động bình thường của các cơ quan hànhchính nhà nước.
- Quan hệ dọc:
1.
Quan hệ hình thành giữa cơ quan hành chính nhà nước cấp trên với cơ quan hành
chính nhà nước cấp dưới theo hệthống dọc. Ðó là những cơ quan nhà nước có cấp
trên, cấp dưới phụ thuộc nhau về chuyên môn kỷ thuật, cơ cấu, tổ chức...
2. Quan hệ hình thành giữa cơ quan hành chính
nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cấp trên với cơ quan hành chínhnhà nước có thẩm
quyền chung cấp dưới trực tiếp nhằm thực hiện chức năng theo quy định của pháp
luật.
3. Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với
các đơn vị, cơ sở trực thuộc.
- Quan hệ ngang:
1. Quan hệ hình
thành giữa cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung với cơ
quan hành chính nhà nước cóthẩm quyền
chuyên môn cùng cấp.
2.
Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cùng cấp với
nhau. Các cơ quan này không có sự phụ thuộc nhau về mặt tổ chức nhưng theo
quy định của pháp luật thì có thể thực hiện 1 trong 2 trường hợp
sau:
-
Một khi quyết định vấn đề gì thì cơ quan này phải được sự đồng ý, cho phép hay
phê chuẩn của cơ quan kia trong lĩnh vực mình quản lý.
-
Phải phối hợp với nhau trong một số lĩnh vực cụ thể
3. Quan hệ giữa
cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương với các đơn vị, cơ sở trực
thuộc trung ương đóng tại địaphương đó.Hoạt động của các cơ quan nhà nước
khác, các tổ chức hoặc cá nhân được trao quyền có tất cả các hậu quả pháp lý
như hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước nhưng hoạt động này chỉ giới hạn
trong việc thực hiện hoạt động chấp hành
điều hành.
Nhóm
2: Các quan hệ quản lý hình thành khi các cơ quan hành chính
nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành
trong các trường hợp cụ thể liên quan trực tiếp tới
các đối tượng không có thẩm quyền hành chính nhà nước hoặc tham gia vào quan
hệ đó không với tư cách của cơ quan hành chính nhà nước, với mục đích
chính là phục vụ trực tiếp nhân dân, đáp ứng các quyền và lợi
hợp pháp của công dân, tổ chức.
1.
Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với các đơn vị kinh tế thuộc các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh.Các đơn vị kinh tế này được đặt dưới sự quản lý
thường xuyên của cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền.
2.
Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức xã hội, đoàn thể quần
chúng.
3.
Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với công dân Việt Nam, người
nước ngoài, người không quốc tịch đang làm ăn
cư trú tại Việt Nam.
- Mối liên hệ giữa hành
chính tư và hành chính công:
Quản lý hành
chính công là cơ sở để bảo đảm hoạt đông bình thường của cơ quan hành chính nhà
nước. quản lý hành chính tư thể hiện rõ trực tiếp mục đích của quản lý hành
chính, giữ gìn trật tự quản lý xã hội theo nguyênvọng của nhân dân.đối tượng điều
chỉnh của luật hành chính, có thể đưa ra định nghĩa luật hành chính như sau: Luật hành chính là một ngành luật trong hệ thống
pháp luật Việt Nam bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành của các
cơ quan hành chính nhà nước.
2. Phương pháp điều chỉnh của
luật hành chính Việt Nam:
Là cách thức tác
động đến các quan hệ xã hội bằng pháp luật, phương pháp điều chỉnh còn góp phần xác định
phạm vi điều chỉnh của các ngành luật trong trường hợp những quan hệ xã hội có
chỗ gần kề hoặc đan xen với nhau.
Ðặc trưng của
phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là tính mệnh lệnh đơn phương:
- Cả hai bên đều
có những quyền hạn nhất định do pháp luật quy định nhưng bên này quyết định vấn
đề gì thì phảiđược bên kia cho phép, phê chuẩn. Ðây là quan hệ đặc trưng của
hành chính công
.- Một bên có quyền
đưa ra những yêu cầu, kiến nghị còn bên kia có thẩm quyền xem xét, giải quyết,
có thể thỏa mãnnhững yêu cầu, kiến nghị này hoặc có thể bác bỏ.
- Một bên có quyền
ra các mệnh lệnh yêu cầu còn bên kia phải phục tùng các yêu cầu, mệnh lệnh đó.
- Một bên có quyền
áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính buộc đối tượng quản lý phải thực hiện
mệnh lệnh của mình, Sự bất bình đẳng.
Từ
sự phân tích trên có thể định nghĩa: Luật hành chính là một ngành luật độc lập
trong hệ thống pháp luật XHCN Việt Nam, là tổng thể các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội xuất hiện trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động
chấp hành và điều hành của Nhà nước, nói cách khác là các quan hệ xã hội nảy
sinh trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Do đó, Luật hành chính là
ngành luật về quản lý hành chính nhà nước.
Câu 2: Phân tích tính mệnh lệnh
đơn phương trong phương pháp điều chỉnh của LHC? Liên hệ thực tiễn?
1. khái niệm phương pháp điều chỉnh:
Phương pháp điều chỉnh của bất cứ ngành luật
nào cũng là tổng thể biện pháp, cách thức, phương thức mà ngành luật đó sử dụng
tác động đến ý chí và thông qua ý chí tác động đến hành vi của các bên tham gia
các quan hệ xã hội do ngành luật điều chỉnh. Phương pháp điều chỉnh là cách thức
mà nhà nước áp dụng trong việc điều chỉnh bằng pháp luật để tác động đến các
quan hệ xã hội.
Phương pháp điều chỉnh của luật hành
chính là phương pháp mệnh lệnh được hình thành từ quan hệ “ quyền lực- phục
tùng” giữa một bên có quyền nhân danh nhà nước ra những mệnh lệnh bắt buộc với
bên kia là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có nghĩa vụ phục tùng.
Để làm rõ hơn ta có thể so sánh phương
pháp điều chỉnh của luật dân sự mà đặc trưng là sự bình đẳng ý chí của các bên
tham gia quan hệ dân sự. Trong quan hệ dân sự hình thức hợp đồng được áp dụng rộng
rãi. Còn trong luật hành chính có sự đặc trưng là sự không bình đẳng ý chí của
các bên trong quan hệ hành chính bên này phải phục tùng bên kia.
2. Những biểu hiện của phương pháp điều
chỉnh
Mối
quan hệ “ quyền lực phục tùng thể hiện sự không bình đẳng giữa các bên tham gia
quản lý hành chính nhà nước sự không bình đẳng đó là sự không bình đẳng về ý
chí thể hiện rõ nét sau:
- Sự không bình đẳng trong quản lý hành
chính thể hiện ở chổ chủ thể quản lý có thể nhân danh nhà nước thể hiện ý chí của
minh lên đối tượng quản lý cũng được thể hiện trong nhiều trường hợp khác nhau:
+ Hoặc một bên có quyền ra lệnh cụ thể
hay đặt ra quy định bắt buộc đối với bên kia và kiểm tra bắt buộc chúng. Phía
bên kia có nghĩa vụ thực hiện các quy định, mệnh lệnh của cơ quan có thẩm quyền.
Ví dụ: Quan hệ cấp trên cấp dưới trong một cơ quan.
+ Hoặc một bên đưa ra yêu cầu, kiến nghị
còn một bên có quyền xem xét, giải quyết hay có quyền đáp ứng bác bỏ kiến nghị
đó. Ví dụ: Công an có quyền yêu cầu (cùng với những tờ giấy nhất định) công an
quận, huyện giải quyết cho hộ dân chuyển khẩu, công an xem xét có thể giải quyết
yêu cầu (hồ sơ hợp lệ) hoặc không chấp nhận (nếu hồ sơ không hợp lệ)
. + Hoặc cả hai bên có quyền hạn nhất định
nhưng bên này quyết định điều gì phải được bên kia cho phép hay phê chuẩn, cùng
phối hợp quyết định. Ví dụ: Bộ giáo dục và đào tạo và các cán bộ khác về việc
quyết định quy mô, hình thức đào tạo. Việc các cán bộ khác quyết định hình thức,
quy mô phải được Bộ giáo dụcvà đào tạo cho phép và phê chuẩn.
- Sự không bình đẳng thể hiện ở chổ một
bên có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế buộc đối tượng phải thực hiện mệnh lệnh
của mình. Sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quản lý nhà nước luôn thể hiện
rõ nét, xuất phát từ quy định pháp luật, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của
các bên tham gia quan hệ đó. Và các cơ quan trong bộ máy nhà nước bắt nguồn từ
cấp trên và cấp dưới tronớctor chức bộ máy nhà nước. Sự không bình đẳng giữa cơ
quan nhà nước với các tổ chức xã hội đơn vị kinh tế, các tổ chức khác bắt nguồn
từ quyền lực nhà nước. Trong quan hệ đó nhân danh nhà nước thể hiện chức năng
chấp hành - điều hành trong lĩnh vực phân công và phụ trách
- Sự không bình đẳng giữa các bên tham
gia quản lý hành chính nhà nước được thể hiện rõ nét trong tính chất đơn phương
và bắt buộc các quyết định hành chính. Các cơ quan hành chính và các chủ thể quản
lý hành chính khác, dựa vào thẩm quyền của mình trên cơ sở đánh giá tình hình
có quyền ra những mệnh lệnh và đề ra những phương pháp thích hợp với từng đối
tượng cụ thể. Những quyết định ấy có tinh đơn phương vì nó theể hiện ý chí của
chủ thể quan lý hành chính nhà nưới trên cơ sở pháp luật quy định. Nhưng quyết
định hành chính đơn phương đều mang tinh chất bắt buộc với đối tượng quản lý.
Tính chất bắt buộc thi hành của các quyết định hành chính được đảm bảo bằng biện
pháp cưỡng chế nhà nước. Nhưng các quyết định hành chính đơn phương không bao
giờ thực hiện trên cơ sở cưỡng chế, mà thực nhiện trên phương pháp thuyết phục.
Nhưng đôi khi chúng ta có thể bắt gặp trong quan hệ hành chính nhà nước có
phương pháp thoả thuận.Ví dụ: trong ban hành các quyết định liên tịch (các bên
thoả thuận ra quyết định chung như Thông tư liên bộ, Nghi quyết liên tịch giữa
ban chấp hành Tổng liên đoàn Việt Nam với các ban quản lý hành chính nhà nước
trung ương)
3. Kết luận:
Như vậy phương pháp điều chỉnh luật hành
chính nhà nước là phương pháp mệnh lệnh đơn phương, thương một bên trong tuyệt
đại đa số trong các trường hợp mang tính quyền lực nhà nước: ra quyết định quản
lý nhà nước, quản lý hoạt động bên kia áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo
pháp luật.
Câu 3: Phân
tích nguyên tắc Đảng lãnh Đạo trong quản lý hành chính Nhà nước? liên hệ thực
tiễn?
Sự
lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của nhà nước nói chung, hoạt động quản lý
hành chính nhà nước nói riêng được ghi nhận là một trong những nguyên tắc cơ bản
và được đặt lên hành đầu trong quản lý hành chính nhà nước. Đảng Cộng Sản Việt
Nam là lực lượng xã hội tiên tiến với đội ngũ đảng viên có trình độ, có năng lực,
được vũ trang bằng những quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin. Với tri
thức này, Đảng có thể vạch ra các đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp với
hoạt động quản lý hành chính nhà nước, đồng thời có thể biến những đường lối,
chủ trương, chính sách đó thành hiện thực.
Bằng
thực tiễn đấu tranh của mình, bằng hy sinh, cống hiến lớn lao cho dân tộc từ
quá khứ đến hiện tại (mà minh chứng rõ nhất là nhờ có sự lãnh đạo của Đảng,
nhân dân ta mới giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, từ công cuộc đấu
tranh bảo vệ tổ quốc đến công cuộc đổi mới hiện nay), Đảng đã chiếm được lòng
tin của đại đa số quần chúng nhân dân. Chính vì thế, sự lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động quản lý hành chính nhà nước được thừa nhận là một tất yếu khách quan,
mang tính lịch sử. Tuy nhiên sự lãnh đạo đó không đồng nghĩa với việc Đảng can
thiệp vào các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của các cơ quan hành chính nhà nước.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của nhà nước nói chung và đối với hoạt động
quản lý hành chính nhà nước nói riêng chỉ mang tính chất định hướng, được thực
hiện dưới nhiều hình thức, phương pháp khác nhau. Vai trò lãnh đạo của Đảng được
ghi nhận trong Điều 4, Hiến pháp 1992 như sau: “Đảng Cộng sản Việt Nam – đội
tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mọi tổ
chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Trên cơ sở đó,
sự lãnh đạo của Đảng trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước được thể hiện ở
những mặt cơ bản sau:
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo trong quản lý
hành chính nhà nước bằng việc đưa ra những đường lối, chủ trương, chính sách của
mình về các lĩnh vực hoạt động khác nhau của quản lý hành chính nhà nước Các vấn
đề quan trọng của hoạt động quản lý nhà nước nói chung và quản lý hành chính
nhà nước nói riêng đều cần phải có đường lối, chủ trương của các tổ chức Đảng
có trách nhiệm. Căn cứ vào chủ trương, chính sách của Đảng được ghi nhận trong
Nghị quyết của các cấp ủy Đảng, các chủ thể quản lý hành chính nhà nước có thẩm
quyền thể chế hóa thành các văn bản pháp luật thực hiện trong hoạt động quản lý
hành chính nhà nước. Bên cạnh đó, khi quyết định những vấn đề cụ thể khác nhau
của hoạt động quản lý hành chính nhà nước như ban hành quyết định quản lý, xây
dựng các biện pháp thuộc về tổ chức, các biện pháp kinh tế…,đường lối, chủ
trương chính sách của Đảng về những vấn đề có liên quan bao giờ cũng được coi
là cơ sở rất quan trọng để các chủ thể quản lý hành chính nhà nước xem xét và
đưa ra các quyết định quản lý của mình.
Ví
dụ, sau khi Đảng đề ra chủ trương thiết lập lại trật tự giao thông, Chính phủ
ban hành ngay Nghị định 36/2001/NĐ-CP về việc đảm bảo an toàn giao thông đường
bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị. Tóm lại, có thể khẳng định đây là hình
thức thể hiện rõ nhất vai trò lãnh đạo của Đảng, uy tín của Đảng phụ thuộc rất
nhiều và hình thức này.
Thứ hai, vai trò lãnh đạo của Đảng
trong quản lý hành chính nhà nước còn thể hiện ở việc Đảng luôn lựa chọn, đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ để giới thiệu vào làm việc trong bộ máy hành chính nhà
nước. Đây là công việc quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của hoạt động
quản lý hành chính nhà nước. Do đó, Điều 4 Pháp lệnh cán bộ, công chức đã quy định:
“Công tác cán bộ, công chức đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản
Việt Nam…”. Tuy nhiên, việc giới thiệu cán bộ của Đảng vào vị trí như vậy còn
phải dựa vào sự tín nhiệm của cơ quan nhà nước, của quần chúng. Tổ chức Đảng
đưa ra ý kiến về việc bố trí những cán bộ phụ trách vào những vị trí lãnh đạo của
các cơ quan hành chính nhà nước. Những ý kiến này là cơ sở để các cơ quan hành
chính nhà nước xem xét và đưa ra quyết định cuối cùng. Bên cạnh đó, bản thân Đảng
cũng luôn chăm lo về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ Đảng viên để nâng cao chất lượng đội ngũ của mình, giúp họ hiểu sâu
sắc và thể hiện trong suốt quá trình hoạt động những phẩm chất cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư. Chỉ có như vậy thì khi giới thiệu những Đảng viên ưu tú
vào nắm giữ các vị trí trong bộ máy hành chính nhà nước, Đảng mới có được sự đồng
tình, nhất trí của nhân dân, từ đó càng củng cố thêm vai trò lãnh đạo của mình.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo trong quản lý
hành chính nhà nước không chỉ bằng đường lối, chủ trương, chính sách, bằng công
tác tổ chức cán bộ mà còn bằng hình thức kiểm tra. Kiểm tra của các tổ chức Đảng
là kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong hoạt
động quản lý hành chính nhà nước. Đảng kiểm tra thông qua các cơ quan của Đảng
được tổ chức và hoạt động song song với các cơ quan hành chính nhà nước. Đảng
kiểm tra và hoàn thiện các chủ trương, chính sách của mình thông qua các hệ thống
và phương tiện khác nhau. Công tác kiểm tra của Đảng cũng được ghi nhận trong
văn kiện Đại hội Đảng khóa X: “Công tác kiểm tra, giám sát phải góp phần khắc
phục những khuyết điểm, thiếu sót khi mới manh nha; bên cạnh việc tiếp tục thực
hiện kiểm tra tổ chức và cá nhân Đảng viên có dấu hiệu vi phạm, phải tăng cường
chủ động giám sát, kiểm tra về phẩm chất đạo đức và kết quả thực hiện nhiệm vụ
của tổ chức Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước và việc chấp hành Điều lệ
Đảng. Coi trọng kiểm tra, phát hiện nhân tố tích cực”. Tóm lại, việc kiểm tra của
tổ chức Đảng nhằm đánh giá tính hiệu quả, tính thực tế của các chính sách mà Đảng
đề ra, trên cơ sở đó khắc phục những khiếm khuyết, phát huy những mặt tích cực
trong công tác lãnh đạo. Điều này đảm bảo cho các tổ chức Đảng có tính thông
tin hai chiều. Cũng chính thông qua công tác kiểm tra Đảng, các tổ chức Đảng biết
được tình hình thực hiện các chủ trương, chính sách do mình đề ra, trên cơ sở
đó có các biện pháp uốn nắn kịp thời làm cho hoạt động quản lý nhà nước đi theo
đúng định hướng phù hợp với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích chung
của cả cộng đồng. Công tác kiểm tra của Đảng phải được tiến hành theo nguyên tắc
của tổ chức Đảng. Điều 30 Điều lệ ĐCS Việt Nam có viết:
-
Kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng. Đảng phải tiến hành
công tác kiểm tra. Tổ chức Đảng và Đảng viên phải chịu sự kiểm tra của Đảng.
-
Các cấp Ủy Đảng lãnh đạo công tác kiểm tra và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm
tra các tổ chức Đảng và Đang viên chấp hành cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng
và nghị quyết, chỉ thị của Đảng.
Thứ tư, Đảng lãnh đạo thông qua vai trò
tiên phong gương mẫu của các Đảng viên làm việc trong bộ máy hành chính nhà nước.
Phương pháp lãnh đạo của Đảng không phải là phương pháp hành chính mà là giáo dục,
thuyết phục, nêu gương. Việc quy định về đạo đức, tác phong của mỗi cán bộ được
quy định trong Điều 1 của Điều lệ ĐCS Việt Nam: “Đảng viên ĐCS Việt Nam là chiến
sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn
đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấo hành nghiêm chỉnh
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của
nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống
lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng,
giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng”. Từ đó, Đảng cho thấy đội ngũ Đảng viên
tiên phong, gương mẫu, nghiên chỉnh chấp hành pháp luật, tạo cơ sở quan trọng để
nâng cao uy tín của Đảng đối với nhân dân, với cơ quan nhà nước, làm cho các tổ
chức Đảng trở thành hạt nhân lãnh đạo của các cơ quan hành chính nhà nước.
Trong
những năm vừa qua, mặc dù tình hình kinh tế, chính trị có nhiều biến động nhưng
Đảng vẫn kịp thời đối phó đối với những khó khăn, thử thách đó, phương thức
lãnh đạo của Đảng trong quản lý hành chính nhà nước đã có nhiều đổi mới, từ
nguyên tắc lãnh đạo đến quan điểm, chính sách, tạo điều liện cho việc kiện
toàn, phát huy vai trò và hiệu lực quản lý hành chính của các cơ quan nhà nước.
Tuy nhiên, nếu xét một cách tổng thể, sự lãnh đạo của Đảng trong quản lý hành
chính nhà nước vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế. Tình trạng Đảng bao biện, làm
thay, lấn sân sang công việc của các cơ quan hành chính nhà nước còn tồn tại,
chính vì vậy, các cơ quan này hoạt động rất thụ động, ỷ lai vào cấp ủy, né
tránh không dám chịu trách nhiệm. Thực tế này đòi hỏi phải có sự đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước cũng như đối với hoạt động quản lý hành
chính nhà nước theo tinh thần của Nghị quyết trung ương 9 (khóa IX): “Tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm tránh cả hai khuynh hướng: hoặc
buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng, hoặc bao biện, làm thay”. Tóm lại, việc ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng
trong quản lý hành chính nhà nước là hoàn toàn phù hợp, đáp ứng được đòi hỏi tất
yếu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước thời đại ngày nay, trong những
năm vừa qua, Đảng không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của mình từ nguyên tắc
lãnh đạo đến quan điểm, chính sách tạo tiền đề cho việc kiện toàn, phát huy vai
trò và hiệu lực quản lý của nhà nước để xứng đáng với vai trò tiền phong ưu tú,
là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
Câu 4: Phân tích
nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước? liên hệ thực tiễn?
I. Đặt vấn đề:
V.L.Lênin
đã nói về tập trung dân chủ: “…chế độ tập trung được hiểu theo nghĩa thực sự
dân chủ, đã bao hàm khả năng…phát huy một cách đầy đủ và tự do không những đặc
điểm của địa phương mà cả những sáng kiến của địa phương, tính chủ động của địa
phương, tính muôn hình muôn vẻ của đường lối, của phương pháp và phương tiện để
đạt đến mục đích chung.” Nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc quan trọng
được vận dụng trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước
nói riêng của toàn bộ cơ quan nhà nước nói chung. Phạm vi bài viết sẽ phân tích
nguyên tắc tập trung – dân chủ và chỉ ra ý nghĩa của nguyên tắc này trong quản
lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay
II. Giải quyết vấn đề:
1. Nguyên tắc tập trung dân chủ và cơ sở
pháp lý:
Tập
trung dân chủ là nguyên tắc chính trị xã hội và là một trong những nguyên tắc
cơ bản trong quản lí hành chính nhà nước. Nó được quy định trong điều 6 Hiến pháp
1992(sửa đổi 2001): “Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của nhà nước
đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nguyên tắc này là
sự kết hợp giữa tập trung và dân chủ, coi đây là hai mặt của vấn đề và không thể
thiếu một trong hai yếu tố để thực hiện quản lý hành chính nhà nước. Tập trung ở
đây được hiểu là việc đảm bảo mọi quyền lực nhà nước thống nhất thuộc về chủ thể
quản lý có thẩm quyền để thực hiện công việc quản lý nhà nước một cách thống nhất
thông qua chỉ đạo điều hành. Dân chủ lại là việc mở rộng quyền cho đối tượng quản
lý nhằm phát huy được mặt tích cực, khả năng của tập thể và cụ thể là đối tượng
quản lý trong việc thực hiện chính sách pháp luật. Như đã nói, tập trung và dân
chủ luôn phải gắn liền với nhau. Nếu chỉ có sự tập trung không nó sẽ dẫn đến lạm
quyền, quan liêu tham nhũng, những “căn bệnh” nguy hiểm của quản lý nhà nước.
Còn nếu chỉ có dân chủ mà không có sự thống nhất sự tập trung sẽ dẫn đến dân chủ
quá trớn, dẫn đến tình trạng tuỳ tiện, vô chính phủ đến lúc đó công việc quản
lý khó mà có thể thực hiện một cách chính xác và đúng đắn.
2. Biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân
chủ trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam:
Nguyên
tắc tập trung dân chủ được coi là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam, cụ thể hơn nó là một nguyên tắc quan
trọng trong quản lý hành chính nhà nước và được thể hiện qua nhiều mặt của công
việc quản lý, góp phần quan trọng vào hoạt động quản lý.
2.1. Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính
nhà nước vào cơ quan quyền lực cùng cấp:
Cơ quan quyền lực nhà nước như Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp là những cơ quan đại diện cho ý chí của nhân dân, được nhân
dân bầu ra và coi là công cụ để họ thực hiện quyền lực nhà nước. Còn các cơ
quan hành chính lại là do các cơ quan quyền lực thành lập ra nhằm thực hiện chức
năng quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và các
cơ quan này được hình thành thành một hệ thống từ trung ương đến địa phương.
Chính vì vậy mà cơ quan hành chính luôn có sự phụ thuộc vào cơ quan quyền lực
cùng cấp sự phụ thuộc được thể hiện dưới nhiều góc độ. Trước nhất có thê nói đến
đó là việc thành lập, xác nhập hay giải thể của các cơ quan hành chính nhà nước
cùng cấp hoặc việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm các vị trí trong cơ quan
hành chính nhà nước có thể do cơ quan quyền lực nhà nước thực hiện hay những
người có quyền hạn trong cơ quan quyền lực thực hiện theo quy định của pháp luật.
. Ví dụ,
như khi quy định về nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội tại điều 84 cũng đã nói đến
việc Quốc hội có quyền thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, cơ quan ngang bộ thuộc
Chính phủ hay trong luật tổ chức hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân tại điều
17 cũng đã công nhận quyền hạn của hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong việc quyết
định thành lập, sáp nhập, giải thể một số cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân
dân cùng cấp theo hướng dẫn của Chính phủ… Về hoạt động, các cơ quan hành chính
nhà nước luôn phải chịu sự giám sát, chỉ đạo và phải chịu trách nhiệm báo cáo hoạt
động trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Chính phủ cũng như Thủ tướng
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ
ban thường vụ Quốc hội. Thêm vào đó, việc tập trung mọi quyền lực vào cơ quan
quyền lực ngay trong đó đã thể hiện được yếu tố dân chủ. Trong hệ thống cơ quan
quyền lực, Quốc hội và Hội đồng nhân dân lại do nhân dân cả nước bầu theo con
đường bầu cử, hoạt động theo ý chí và nguyện vọng của chính nhân dân, do nhân
dân làm chủ.
2.2 Sự phục tùng của cấp
dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương:
Sự
phục tùng cũng được thể hiện thông qua cả hai phương diện là tổ chức và hoạt động
và hoàn toàn hợp pháp dựa trên quy định của pháp luật.
Về tổ chức, sự phục tùng được thể hiện
qua việc chấp hành các yêu cầu liên quan đến tổ chức mà cấp trên đưa ra. Kết quả
bầu cử các thành viên thuộc Uỷ ban nhân dân cấp dưới phải được sự phê chuẩn của
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp thông qua. Mọi quyết định của cấp
trên liên quan đến nhân sự, tổ chức phải được cấp dưới chấp hành nghiêm chỉnh
và đúng đắn tạo điều kiện cho hoạt động quản lý được tiến hành có hiệu quả.
Về hoạt động, sự phục tùng lại càng được
thể hiện rõ nét. Hiến pháp có quy định về quyền hạn của Chính phủ trong việc
“lãnh đạo công tác của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và các cơ quan thuộc Chính
phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, xây dựng và kiện toàn hệ thống thống nhất bộ máy
hành chính Nhà nước từ trung ương đến cơ sở…”. Thêm vào đó, Uỷ ban nhân dân cấp
dưới chịu sự lãnh đạo của Uỷ ban nhân dân cấp trên và tất cả chịu sự lãnh đạo của
Chính phủ. Do đó, văn bản của uỷ ban nhân dân ban hành (quyết định, chỉ thị)
không được trái với nội dung của cơ quan hành chính cấp trên và Chính phủ.
Chính sự phục tùng này đảm bảo cho cấp trên và trung ương tập trung quyền lực để
chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và điạ phương thể hiện rõ yếu tố tập
trung. Nếu không có sự phục tùng này sẽ dẫn đến việc buông lỏng sự lãnh đạo quản
lý tập trung của trung ương và cấp trên, làm nảy sinh tình trạng tùy tiện, vô
chính phủ. Nhưng việc phục tùng, tập trung này phải dựa trên cơ sở quy định
pháp luật, không phải là phục tùng vô điều kiện và phải gắn liền với dân chủ,
không thể là có tập trung mà không có dân chủ.
2.3 Việc phân cấp quản lý:
“Phân
cấp quản lý là sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới nhằm đạt được
một cách có hiệu quả mục tiêu chung của hoạt động quản lý hành chính nhà nước”.
Đây là một biện pháp quan trọng trong việc cải cách hành chính nhà nước và còn
là xu hướng phổ biến trên thế giới. Để đảm bảo tính tập trung dân chủ, việc
phân cấp quản lý cần phải đảm bảo: trung ương có quyền quyết định trong lĩnh vực
then chốt, chiến lược, đảm bảo sự quản lý tập trung thống nhất; mạnh dạn giao
quyền cho các địa phương phát huy tính chủ động sáng tạo; việc phân cấp quản lí
phải thật cụ thể, hợp lí trên cơ sở những quy định của pháp luật, tránh trường
hợp chồng chéo gây mất hiệu quả. Do ý nghĩa của phân cấp quản lý là rất lớn và
việc phân cấp này còn phụ thuộc vào các vấn đề: cơ sở kinh tế xã hội, kết cấu hạ
tầng…việc ban hành các quyết định về phân cấp quản lý cần có sự cân nhắc kĩ
càng và bao giờ cũng được thể hiện trong văn bản của cơ quan có thẩm quyền như
nghị quyết của Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa
Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương số
08/2004/NQ-CP.
2.4. Sự hướng về cơ sở:
“Hướng về cơ sở là việc cơ quan hành chính nhà
nước mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lí tập trung đối với hoạt động của toàn bộ
hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hoá- xã hội trực thuộc.”. Các đơn vị cơ sở của
bộ máy hành chính là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất, trực tiếp phục vụ đời
sống vật chất và tinh thần của người lao động do đó cơ quan nhà nước phải tạo
điều kiện cho các đơn vị kinh tế, văn hoá xã hội hoàn thành tốt công việc của
mình thông qua việc cung cấp các trang thiết bị để hoạt động, giúp đỡ về vật chất
tinh thần, giúp các đơn vị này hoạt động có hiệu quả. Nhưng đồng thời nhà nước
nhà nước cũng có các chính sách và biện pháp quản lý một cách thống nhất và chặt
chẽ tổ chức và hoạt động của hệ thống các đơn vị cơ sở. Dân chủ là cần thiết
nhưng không thể thiếu sự quản lý thống nhất tập trung của cơ quan nhà nước để
thúc đẩy mọi hoạt động của các đơn vị này phát triên một cách mạnh mẽ.
2.5 Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương:
Sự
phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương còn được gọi
là song trùng trực thuộc. Đó là việc các cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương chịu sự quản lý đồng thời của hai cơ quan cấp trên trực tiếp; một theo sự
quản lý của ngành dọc, và một theo sự quản lý của lãnh thổ theo chiều ngang. Biểu
hiện này được thể hiện ở cả tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính địa
phương Về tổ chức, đối với các uỷ ban nhân dân, hội đồng nhân dân mỗi cấp xác định
số lượng và bầu ra các thành viên của uỷ ban nhân dân cấp mình( theo chiều
ngang). Kết quả bầu cử các thành viên uỷ ban nhân dân mỗi cấp phải được chủ tịch
uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn (theo chiều dọc). Riêng với uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh thì do chính thủ tướng chính phủ phê chuẩn. Về hoạt động, Uỷ
ban nhân dân là cơ quan thực hiện chức năng qủan lý hành chính nhà nước, chấp
hành nghị quyết của hội đồng nhân dân cùng cấp cũng như văn bản của cơ quan
hành chính cấp trên; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước hội đồng nhân
dân cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên trực tiếp. Ðối với cơ quan
chuyên môn, một mặt phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền
chung cùng cấp, mặt khác nó phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm
quyền chuyên môn cấp trên trực tiếp.
3. Ý
nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt
Nam:
Nguyên
tắc tập trung dân chủ bao hàm sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ,
vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ, vừa đảm bảo mở rộng dân
chủ dưới sự lãnh đạo tập trung. Tuy nhiên, đây không phải là sự tập trung toàn
diện và tuyệt đối, mà chỉ đối với những vấn đề cơ bản, chính yếu nhất, bản chất
nhất. Sự tập trung đó bảo đảm cho cơ quan cấp dưới, cơ quan địa phương có cơ sở
và khả năng thực hiện quyết định của trung ương; đồng thời, căn cứ trên điều kiện
thực tế của mình, có thể chủ động sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề của
địa phương và cơ sở. Cả hai yếu tố này vì thế phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng
bộ. Chúng có mối quan hệ qua lại, phụ thuộc và thúc đẩy nhau cùng phát triển
trong quản lý hành chính nhà nước.
+
Thứ nhất, nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc thể hiện đúng bản chất của
nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một nhà nước của dân, do dân và vì
dân, một nước dân chủ thực sự. Nhưng sự dân chủ này lại cần có sự tập trung quyền
để điều khiển được xã hội, thiết lập được một trật tự xã hội nhất định. Trong từng
giai đoạn phát triển của đất nước thì mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ
luôn được điều chỉnh để phù hợp với tình hình, nhận thức, điều kiện kinh tế xã
hội.
+
Thứ hai, nguyên tắc này tạo ra sự thống nhất trong việc quản lý hành chính nhà
nước, tạo điều kiện cho nhiệm vụ quản lý của các chủ thể quản lý được diên ra dễ
dàng hơn. Cấp trên thông qua việc thực hiện yêu cầu của cũng như báo cáo công
việc của cấp dưới có thể nắm rõ tình hình thực tế hoạt động của từng vùng từng
lĩnh vực ở địa phương mình; nhanh chóng phát hiện những hành vi vi phạm của cấp
dưới, đưa ra phương án xử lý kịp thời hạn chế hết mức có thể hậu qủa xảy ra.
+
Thứ ba, tập trung dân chủ tạo ra hướng đi, đường lối cơ bản cho các cơ quan cấp
dưới hoạt động có hiệu quả. Thông qua quy định, hướng dẫn và hỗ trợ của cấp
trên, cấp dưới có một khung pháp lý để thực hiện nhiệm vụ của mình một cách hợp
pháp và hợp lý. Đồng thời, tập trung dân chủ tạo điều kiện cho cấp dưới có khả
năng sáng tạo, áp dụng những tiến bộ mới vào quản lý hành chính nhà nước, tránh
khỏi tình trạng áp đặt ý chí, cửa quyền, hách dịch và “căn bệnh” tham nhũng. Việc
này sẽ khắc phục tình trạng trung ương ôm đồm nhiều việc, quản lý nhiều việc cụ
thể trên các lĩnh vực như kinh tế, văn hoá - xã hội, dịch vụ công…
+
Thứ tư, chính nguyên tắc này là phương tiện để tiến hành cải cách hành chính.
Nó quy định những việc trung ương cần làm, nhất thiết phải làm và những việc phải
"để"cho địa phương làm. Đối với trung ương sẽ tạo điều kiện cho Chính
phủ và các bộ trở lại làm đúng chức năng, nhiệm vụ của mình là quản lý vĩ mô
các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội, có chỉ đạo thống nhất trong cả nước và
làm tốt công tác kiểm tra, thanh tra. Địa phương được phân cấp mạnh thì sẽ chủ
động trong quản lý, có thể tự mình ra các chủ trương cụ thể phù hợp với tình
hình, điều kiện của nơi đó. Ngoài ra, địa phương sẽ chủ động hơn về nguồn lực
tài chính, tổ chức và cán bộ thực hiện. Khắc phục tình trạng các cơ quan quản
lý trung ương can thiệp vào công việc của địa phương
III. Kết thúc vấn đề:
Nguyên
tắc tâp trung dân chủ là một nguyên tắc cơ bản trong việc quản lý hành chính
nhà nước nói chung, trong mọi hoạt động của cơ quan nhà nước nói chung. Đóng
vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hoạt động quản lý cũng như tạo điều kiện
để lộ trình cải cách hành chính được diễn ra theo đúng kế hoạch nhưng việc xác
định đúng và thực hiện đúng nguyên tắc này lại gặp nhiều khó khăn. Cần phải có
sự kết hợp hài hoà giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ, để Việt Nam ta vẫn là
nước dân chủ nhưng vẫn có sự quản lý đúng mức, đúng mực của cơ quan nhà nước.
Câu 5: Phân tích Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất của nước CHXHCNVN?
Điều
109 Hiến pháp năm 1992 khẳng định: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội,
cơ quan hành chính nhà nước cao nhất”. Điều này cho thấy tính chất của Chính phủ
và mối quan hệ giữa Chính phủ và Quốc hội. Chính phủ do Quốc hội thành lập ra,
nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm và báo cáo công
tác trước Quốc hội, thành viên của Chính phủ hoạt động dưới sự giám sát của Quốc
hội. Như vậy, giữa Chính phủ và Quốc hội có mối liên hệ đặc biệt quan trọng và
góp phần to lớn vào việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
I. Khái quát về Quốc hội và Chính phủ.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân, đại diện cho ý chí, lợi ích của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam. Các đại biểu Quốc hội là những công nhân, nông dân trí
thức và những người lao động ưu tú thuộc mọi dân tộc trong cả nước được nhân
dân tín nhiệm bầu ra và chịu trách nhiệm trước quần chúng nhân dân, họ có mối
liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nắm vững nguyện vọng, tâm tư của quần
chúng…Nhiệm kì Quốc hội là 5 năm.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc
hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Chính phủ do Quốc hội thành lập ra theo nhiệm kì của Quốc hội, khi Quốc hội
hết nhiệm kì Chính phủ tiếp tục hoạt động cho đến khi bầu ra Chính phủ mới.
Thành viên Chính phủ hoạt động dưới sự giám sát của Quốc hội, Chính phủ chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Chính phủ cụ thể hóa Hiến pháp,
luật của Quốc hội bằng các văn bản dưới luật như nghị định, nghị quyết…
II – Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ
theo pháp luật hiện hành:
1.
Quốc hội thành lập ra Chính phủ.
Chính
phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và quy trình thành lập của Chính phủ có sự
chỉ đạo, phối hợp một cách nhịp nhàng giữa Quốc hội và Chính phủ. Điều 3 Luật tổ
chức Chính phủ 2001 quy định: “Thủ tướng do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm
theo đề nghị của Chủ tịch nước. Thủ tướng trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị về
việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và từ chức đối với Phó thủ tướng, Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, Chủ tịch nước
bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, chấp thuận việc từ chức đối với Phó thủ tướng,
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ”. Ngoài ra còn có quy định về tiêu chuẩn
thành viên Chính phủ như sau: thành viên Chính phủ không nhất thiết phải là đại
biểu Quốc hội (trừ Thủ tướng), thành viên Chính phủ không đồng thời là thành
viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Việc quy định như vậy là để đảm bảo cho các
thành viên tập trung vào một công việc chính theo nguyên tắc “bất khả kiêm nhiệm”.
Các thành viên Chính phủ tập trung vào công việc chính của họ mà không kiêm nhiệm
thêm bất cứ công việc của ngành, tổ chức, cơ quan nào khác. Hiến pháp 1992 có
quy định khá cụ thể về việc thành lập Chính phủ, đây là quy định kế thừa có chọn
lọc quy định của các Hiến pháp Việt Nam trước đó. Đồng thời cũng thay đổi những
quy định không phù hợp với thực tế để Chính phủ hoạt động tốt hơn, đáp ứng yêu
cầu và tình hình mới của đất nước nhằm thực hiện đúng quan điểm về tổ chức bộ
máy nhà nước tập trung vào hệ thống cơ quan dân cử. Điều này không đồng nghĩa với
việc hạ thấp vai trò, vị trí của Chính phủ, Hiến pháp vẫn quy định vị trí “cơ
quan hành chính nhà nước cao nhất” trong bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam.
2. Chính phủ - cơ quan
chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất.
Chính
phủ với chức năng là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất được hiểu như một cơ
quan quản lý cao nhất theo ngành dọc trong cơ cấu bộ máy nhà nước CHXHCN Việt
Nam. Chính phủ đứng đầu hệ thống hành chính nhà nước thực hiện hoạt động thực
thi pháp luật, quản lí điều hành đất nước, cơ quan thực hiện quyền hành pháp tối
cao của Nhà nước. Hiến pháp và luật của Quốc hội muốn được thực thi phải được
Chính phủ cụ thể hóa bằng các văn bản dưới luật, Chính phủ đề ra biện pháp thích
hợp, phân công, chỉ đạo thực hiện các văn bản đó trên thực tế. Quy định này nhằm
đề cao vị trí của Chính phủ trong bộ máy nhà nước, tạo thế chủ động cho Chính
phủ trong hoạt động quản lý nhà nước. Việc quản lý chặt chẽ hệ thống cơ quan
hành chính của cả bộ máy nhà nước bao gồm các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan
hành chính trực thuộc chính phủ, UBND các cấp, cơ quan chuyên môn của UBND và
cơ quan đại diện của các bộ tại địa phương giúp cho việc thực thi Hiến pháp,
pháp luật của Quốc hội đi vào cuộc sống thực tế của người dân một cách có hiệu
quả và nhanh chóng hơn. Chính phủ chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc
hội về những nhiệm vụ của mình. Hiến pháp 1992 quy định rõ việc Chính phủ chịu
sự giám sát của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước nhưng chỉ
chịu trách nhiệm trước Quốc hội (chỉ Quốc hội mới có quyền xem xét trách nhiệm
của Chính phủ, miễn nhiệm các thành viên Chính phủ).
3. Quốc hội bãi nhiệm, miễn nhiệm thành
viên Chính phủ và giám sát hoạt động của Chính phủ:
Một chế định quan trọng của Hiến pháp
các nước trên thế giới thể hiện chức năng giám sát của Nghị viện đối với Chính
phủ là việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh quan trọng của Chính phủ của
chế độ đại nghị. Ở Việt Nam, chế định này cũng được nói đến trong Hiến pháp
1992 (sửa đổi năm 2001) và Luật tổ chức Quốc hội 2001. Chế định này nhằm ngăn
ngừa những biểu hiện xấu của những người đang cầm quyền, tức là bộ máy hành
pháp của nhà nước. Hiến pháp 1992, sửa đổi năm 2001 quy định, trước khi quyết định
việc bãi miễn các chức danh Thủ tướng, Phó thủ trướng, Quốc hội bỏ phiếu tín
nhiệm của Quốc hội với các chức danh đó. Trong trường hợp người đảm nhiệm chức
danh nêu trên bị mất tín nhiệm, thì Quốc hội bỏ phiếu bãi nhiệm (Điều 84).
Thành viên của Chính phủ hoạt động dưới sự giám sát của Quốc hội, Chính phủ chịu
trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội. Thành viên của Chính phủ có thể bị
Quốc hội bãi nhiệm, miễn nhiệm và cách chức theo quy định của pháp luật. Quy định
này làm cho các thành viên Chính phủ làm việc theo đúng chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, đảm bảo cho hiệu quả của cơ quan hành pháp, chống lại những biểu hiện
quan liêu, tham nhũng, hách dịch, cửa quyền… Mối quan hệ trách nhiệm, giám sát
của Quốc hội và Chính phủ thể hiện rất rõ qua hoạt động chất vấn của đại biểu
Quốc hội đối với các bộ trưởng và thành viên Chính phủ - đây là một hình thức
thực hiện chức năng giám sát (Điều 49 Luật tổ chức Quốc hội 2001).
4. Mối quan hệ giữa Quốc
hội và Chính phủ trong quy trình lập pháp.
Đây là sự liên quan, phụ thuộc giữa
Quốc hội và Chính phủ về vấn đề lập pháp. Nó có những đặc điểm sau:
Một là: mối quan hệ giữa hai chủ thể trong cơ cấu quyền
lực nhà nước. Trong đó Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập
pháp, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất.
Sự phụ thuộc của Chính phủ vào Quốc hội thể hiện ở việc dựa trên những VBQPPL của
Quốc hội, Chính phủ ban hành những VBQPPL thuộc thẩm quyền của mình để cụ thể
hóa và hướng dẫn thực hiện những VBQPPL đó vào cuộc sống. Bằng hoạt động cụ thể
của mình, Chính phủ góp phần đảm bảo tính thống nhất, liên tục của hệ thống
hành chính và sự phối hợp chặt chẽ giữa hai cơ quan lập pháp và hành pháp để tạo
thành cơ chế tổng thể thực thi quyền lực và hiệu quả quản lí chung của Nhà nước.
Hai là: Quốc hội không trực tiếp soạn thảo nội dung của
tất cả các văn bản luật, pháp lệnh mà đa số các văn bản luật pháp lệnh do Quốc
hội và UBTVQH thông qua đều do Chính phủ soạn thảo. Như vậy, quyền lập pháp của
Quốc hội được thực hiện trên cơ sở quyền trình dự án luật, pháp lệnh của Chính
phủ. Trong những năm gần đây, hoạt động của Chính phủ đã tiến hành đều đặn mỗi
tháng họp một lần, kéo dài trong khoảng 1 đến 2 ngày. Chính phủ có kế hoạch làm
việc theo tháng, Thủ tướng và Phó thủ tướng có kế hoạch làm việc theo tuần. Về
mặt nội dung, Chính phủ tập trung nhiều hơn vào việc xây dựng thể chế, thảo luận
và thông qua các dự án tại phiên họp của Chính phủ. Kết quả cho thấy, Chính phủ
đã ban hành một số VBQPPL với chất lượng ngày càng cao.
Ba là: trong điều kiện chính trị nước ta hiện nay không
có sự đối lập về chính trị nên mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ nói
chung và hoạt động lập pháp nói riêng không có sự đối lập trong mục đích xây dựng
và ban hành VBQPPL. Luật do Quốc hội ban hành là thể chế hóa đường lối lãnh đạo
của Đảng, chính sách của Nhà nước. Chính phủ có vai trò đảm bảo, tôn trọng, chấp
hành Hiến pháp và pháp luật do Quốc hội ban hành vì thế Hiến pháp, luật của Quốc
hội ban hành chỉ có thể trở thành hiện thực trong đời sống Nhà nước và đời sống
xã hội khi được Chính phủ tổ chức chỉ đạo trong quá trình thực hiện chức năng
quản lý Nhà nước bằng hoạt động lập quy (cụ thể hóa luật và nghị quyết của Quốc
hội) đồng thời tuyên truyền, phổ biến chúng. Để làm tốt chức năng lập pháp của mình
Quốc hội cần có một sự phối hợp nhịp nhàng với Chính phủ. Giữa hai cơ quan này
không những phải có sự phối hợp mà còn phải có sự phân công rõ ràng giữa cơ
quan có quyền thông qua các dự án luật với cơ quan trình dự án luật. Như vậy
trong quá trình lập pháp, Chính phủ là cơ quan trình dự án luật, còn Quốc hội mới
là cơ quan thông qua dự thảo luật – điều này mang ý nghĩa quyết định và quan trọng
nhất. Qua đó có thể thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa Quốc hội và Chính phủ trong
lĩnh vực lập pháp.
III. Một số giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính
phủ:
- Nâng cao
trình độ và phẩm chất chính trị của các đại biểu Quốc hội để công tác giám sát
Chính phủ được hiệu quả và công minh hơn.
- Tăng cường tính chủ động của Chính phủ trong
quá trình xây dựng luật, pháp lệnh.
- Tăng cường mối quan hệ giữa Hội đồng dân tộc với
các ủy ban của Quốc hội, HĐDT với các ủy ban của Chính phủ trong giai đoạn thẩm
tra dự án luật, pháp lệnh.
- Nâng cao trách nhiệm đội ngũ cán bộ tham mưu
cho Quốc hội, Chính phủ trong quy trình lập pháp.
- Một số lĩnh vực do Chính phủ quản lí cũng cần
có sự quản lí, giám sát chặt chẽ hơn của Quốc hội và cần đươc cụ thể hóa trong
các văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là Luật tổ chức Chính phủ và Luật tổ
chức Quốc hội, từ đó nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các thành viên Chính phủ
( Thủ tướng, các Phó thủ tướng và các Bộ trưởng), tăng khả năng xử lí các vấn đề
thuộc lĩnh vực mình phụ trách... Vấn đề xử lí vi phạm cũng cần đặc biệt quan
tâm. Thực tế hiện nay, có nhiều phiên chất vấn của Quốc hội, việc phàn nàn “quyền
hạn của bộ trưởng thì hữu hạn, mà trách nhiệm thì vô hạn” đã được thay bằng việc
các Bộ trưởng nhanh chóng nhận phần lỗi về mình (mặc dù có thể lỗi đó không do
bộ trưởng gây ra). Vấn đề đặt ra là hoạt động chất vấn của Quốc hội không được
chỉ dừng lại ở việc nhận trách nhiệm mà là việc giải quyết sự việc như thế nào?
Không phải chỉ nhận cho qua, cho xong chuyện. Những năm gần đây có rất nhiều vụ
việc vi phạm lớn ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, tình hình an ninh trật
tự…gây nhiều bức xúc trong dư luận và ảnh hưởng đến sự tin tưởng của người dân
vào bộ máy nhà nước ta (đặc biệt là Quốc hội và Chính phủ). Như vậy có thể thấy
còn nhiều bất cập cần khắc phục trong mối liên hệ, trong hoạt động của cả hai
cơ quan nhà nước này, nâng cao hơn nữa hiệu quả của bộ máy nhà nước trong thời
kì hội nhập, phát triển. Những giải pháp được nhắc đến ở trên chỉ là ý kiến cá
nhân, muốn hoàn thiện tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước cần có sự phối
hợp của chính các cơ quan đó và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta. .
Câu 6: Phân tích các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính? Cho ví dụ minh
họa?
2. Các yếu tố cấu thành của vi phạm hành chính
Các yếu tố cấu thành của vi phạm hành chính gồm:
a) Mặt khách quan của vi phạm hành chính
Bất
kỳ một hiện tượng nào cũng có hình thức biểu hiện của nó. Vi phạm hành chính có
hình thức biểu hiện là hành vi. Không có vi phạm thì không có vi phạm pháp luật
nói chung, vi phạm hành chính nói riêng. C.Mác chỉ rõ: "Ngoài hành vi của
mình thì con người không tồn tại đối với pháp luật"
Những
suy nghĩ, quan điểm, tư tưởng xấu chưa thể hiện ra bên ngoài bằng hành vi thì
chưa phải là vi phạm pháp luật. Con người chỉ chịu trách nhiệm về những hành vi
của mình và việc đánh giá con người phải thông qua hành vi của họ.
Hành
vi có thể biểu hiện dưới hình thức hành động, ví dụ: hành vi làm hàng giả, kinh
doanh trái phép, đi xe máy vào đường cấm... hoặc dưới hình thức không hành động
như: đi xe mô tô không có bằng lái; không có phương tiện phòng cháy, chữa cháy
tại cơ sở sản xuất kinh doanh. Chỉ cần có hành động hoặc không hành động nêu
trên cũng có thể truy cứu trách nhiệm hành chính, bất luận là hậu quả của hành
vi đã xảy ra hay chưa. Khi vi phạm hành chính đã gây ra hậu quả, cần xác định mối
liên hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả của hành vi. Ngoài ra, khi xem
xét mặt khách quan của vi phạm hành chính trong những vụ việc cụ thể cần tính đến
một số yếu tố như thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, phương tiện vi phạm.
b) Khách thể của vi phạm hành chính
b) Khách thể của vi phạm hành chính
Bất
kỳ hành vi trái pháp luật nào cũng đều xâm phạm tới quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ, làm tổn hại, rối loạn, đe doạ sự phát triển bình thường các quan hệ đó.
Do vậy, vi phạm hành chính - hành vi trái pháp luật cũng xâm phạm tới các quan
hệ xã hội được các quy tắc quản lý hành chính nhà nước bảo vệ. Khách thể của vi
phạm hành chính là quan hệ xã hội bị vi phạm hành chính xâm hại. Khách thể là yếu
tố đặc biệt quan trọng ấn định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi trái pháp luật.
Tính
chất của khách thể (quan hệ xã hội) bị xâm hại là tiêu chí đầu tiên mà Nhà nước
sử dụng để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, có nghĩa là để
phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm, với các vi phạm khác. Ví dụ: Hành vi
giết người - tội phạm, còn lái xe mô tô không có bằng là vi phạm hành chính.
Nhưng khi một khách thể bị nhiều hành vi xâm hại, thì tiêu thức để phân biệt
chúng là hậu quả trực tiếp của hành vi hoặc hành vi đó đã bị cơ quan nhà nước
có thẩm quyền xử lý hành chính hay chưa. Ví dụ, đối với hành vi kinh doanh trái
phép, lừa dối khách hàng, buôn bán thuốc lá trái phép... Với khối lượng nhỏ
chưa gây hậu quả nghiêm trọng, nếu đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm thì bị
truy cứu trách nhiệm hình sự. Nhưng cũng những hành vi đó tuy chưa bị xử lý
hành chính nhưng gây hậu quả nghiêm trọng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Hoặc đối với hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ của người
khác dưới 11% mà không thuộc các trường hợp: dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng
thủ đoạn gây nguy hiểm cho nhiều người; gây thương tật nhẹ cho nạn nhân; phạm tội
nhiều lần; phạm tội có tổ chức; để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do
công vụ của nạn nhân thì không truy cứu trách nhiệm hình sự mà chỉ truy cứu
trách nhiệm hành chính.
Khách
thể cụ thể của những vi phạm hành chính rất đa dạng. Đó là: sở hữu Nhà nước; sở
hữu công dân; quyền tự do, lợi ích hợp pháp của công dân; trật tự an toàn nơi
công cộng; an toàn giao thông; trật tự quản lý hành chính nhà nước trong các
lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, y tế, văn hoá - xã hội v.v...
Như vậy, khách thể của vi phạm hành chính là những
quan hệ xã hội trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước được bảo vệ bởi các
quy phạm luật hành chính, bằng các biện pháp trách nhiệm hành chính.
c) Chủ thể của vi phạm hành chính
Chủ
thể của vi phạm hành chính là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực trách nhiệm hành
chính.
Pháp luật hành chính quy định chỉ truy cứu trách nhiệm hành chính đối với những cá nhân có năng lực hành vi pháp luật hành chính. Người có năng lực hành vi pháp luật hành chính là người có khả năng nhận thức được tính chất nguy hại cho xã hội của hành vi, hậu quả hành vi, điều khiển được hành vi đó. Những người hành động trong tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng và sự kiện bất ngờ, hoặc không có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hành chính, nghĩa là, không bị xử phạt vi phạm hành chính (chẳng hạn: những người mắc bệnh tâm thần và các bệnh thần kinh khác, không có khả năng, hoặc hạn chế khả năng nhận thức).
Pháp luật hành chính quy định chỉ truy cứu trách nhiệm hành chính đối với những cá nhân có năng lực hành vi pháp luật hành chính. Người có năng lực hành vi pháp luật hành chính là người có khả năng nhận thức được tính chất nguy hại cho xã hội của hành vi, hậu quả hành vi, điều khiển được hành vi đó. Những người hành động trong tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng và sự kiện bất ngờ, hoặc không có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hành chính, nghĩa là, không bị xử phạt vi phạm hành chính (chẳng hạn: những người mắc bệnh tâm thần và các bệnh thần kinh khác, không có khả năng, hoặc hạn chế khả năng nhận thức).
Các chủ thể phải chịu trách nhiệm hành chính gồm:
-
Công dân từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hành chính về mọi vi phạm
hành chính do mình gây ra.
-
Người có đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hành chính về vi phạm
hành chính do cố ý.
Người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành
chính thì bị phạt cảnh cáo. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành
chính thì có thể bị áp dụng các hình thức xử phạt vi phạm hành chính theo quy định
của pháp luật xử lý vi phạm hành chính, khi phạt tiền đối với họ thì người có
thẩm quyền áp dụng mức phạt không được quá một phần hai mức phạt đối với người
thành niên. Nếu người chưa thành niên không có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc
người giám hộ của người đó phải nộp thay.
-
Quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện và những
người thuộc lực lượng Công an nhân dân nếu thực hiện vi phạm hành chính thì bị
xử lý như đối với công dân khác; trong trường hợp cần áp dụng hình thức phạt tước
quyền sử dụng một số giấy phép hoạt động vì mục đích an ninh, quốc phòng thì
người xử phạt không trực tiếp xử lý mà đề nghị cơ quan, đơn vị quân đội, công
an có thẩm quyền xử lý theo điều lệnh kỷ luật.
- Cán bộ, công chức nhà nước nói chung, những người có chức vụ nói riêng chịu trách nhiệm hành chính đối với những vi phạm hành chính liên quan đến việc thi hành công vụ nhà nước, có nghĩa là liên quan đến việc thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ được trao. Nếu không liên quan tới việc thực hiện công vụ thì xử lý họ như đối với công dân bình thường. ở đây, có yếu tố liên quan tới hoạt động công vụ, nên họ bị xử phạt nặng hơn. Cũng có trường hợp, tuy không có yếu tố công vụ, nhưng là cán bộ, công chức vi phạm vẫn bị xử lý nặng hơn, chẳng hạn như khi có hành vi mua, bán dâm.
- Cán bộ, công chức nhà nước nói chung, những người có chức vụ nói riêng chịu trách nhiệm hành chính đối với những vi phạm hành chính liên quan đến việc thi hành công vụ nhà nước, có nghĩa là liên quan đến việc thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ được trao. Nếu không liên quan tới việc thực hiện công vụ thì xử lý họ như đối với công dân bình thường. ở đây, có yếu tố liên quan tới hoạt động công vụ, nên họ bị xử phạt nặng hơn. Cũng có trường hợp, tuy không có yếu tố công vụ, nhưng là cán bộ, công chức vi phạm vẫn bị xử lý nặng hơn, chẳng hạn như khi có hành vi mua, bán dâm.
-
Pháp luật nhà nước ta quy định tổ chức cũng là chủ thể của vi phạm hành chính.
Tổ chức có thể là cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế nếu thực hiện
vi phạm hành chính thì cũng bị phạt cảnh cáo hay phạt tiền, tước quyền sử dụng
giấy phép, tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm.
Nhằm
nâng cao ý thức trách nhiệm cá nhân, pháp luật hành chính nước ta quy định khi
tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính thì tổ chức đó phải tiến hành xác định cá
nhân có lỗi gây ra vi phạm hành chính để xác định trách nhiệm pháp lý của người
đó theo quy định của pháp luật.
- Cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính trong
phạm vi lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thì bị xử phạt theo quy định của pháp luật Việt Nam về xử phạt
vi phạm hành chính, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc
tham gia có quy định khác. Đồng thời lại không áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính khác quy định tại Điều 23, 24, 25, 26 và 27 của Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính đối với người nước ngoài, như áp dụng biện pháp trục xuất.
d) Mặt chủ quan của vi phạm hành chính
Mặt
chủ quan của vi phạm hành chính thể hiện ở yếu tố lỗi của người vi phạm. Lỗi là
dấu hiệu pháp lý bắt buộc của vi phạm hành chính. Cần phân biệt hành vi trái
pháp luật với vi phạm pháp luật, nếu chưa xác định yếu tố chủ quan: thái độ, động
cơ, ý chí của người vi phạm đối với hành vi của họ và đối với hậu quả của hành
vi.
Có
hai hình thức là lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý thể hiện ở chỗ người có hành vi
vi phạm hành chính nhận thức được tính chất nguy hại cho xã hội của hành vi của
mình nhưng vẫn thực hiện, hoặc để mặc cho hậu quả hành vi đó xảy ra. Lỗi vô ý
thể hiện ở chỗ người vi phạm hành chính không biết hoặc không nhận thức được
hành vi của mình là trái pháp luật mặc dù cần phải biết và nhận thức được, hoặc
nhận thức được nhưng cho rằng có thể ngăn ngừa được hậu quả của hành vi trái
pháp luật đó.
Khi
xem xét, đánh giá một hành vi trái pháp luật có phải là vi phạm hành chính hay
không cần phải nghiên cứu khách quan, đầy đủ các dấu hiệu, yếu tố cấu thành
pháp lý của vi phạm. Dựa vào các yếu tố cấu thành của vi phạm nhằm xác định vi
phạm đó là vi phạm gì, để chọn đề tài xử phạt cho đúng.
II. Nhận định đúng sai:
Câu 1:
Nhận định:
“Chủ thể quản lý hành chính nhà nước không phải chỉ là cơ quan hành chính nhà
nước” là đúng.
Bởi vì chủ thể quản lý hành chính nhà nước
theo nghĩa hẹp chủ yếu là toàn bộ hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước,
đứng đầu là chính phủ và các cơ quan phát sinh từ chúng, các cơ quan, các Bộ,
Sở, Phòng, Ban và tương đương …
Câu 2: Nhận định: “Đối tượng Điều chỉnh của Luật Hành
chính không phải chỉ là những quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động chấp
hành, Điều hành của cơ quan hành chính nhà nước” là đúng.
Bởi vì: Có 3 nhóm quan hệ thuộc đối tượng
Điều chỉnh của Luật Hành chính, bao gồm:
- Nhóm 1: Điều chỉnh những quan hệ chấp
hành và Điều hành phát sinh trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước.
- Nhóm 2: Điều chỉnh nhóm quan hệ phát
sinh trong nội bộ cơ quan, tổ chức nhằm ổn định về tổ chức, tạo Điều kiện thuận
lợi để cơ quan nhà nước, tổ chức nhà nước hoàn thành tốt nhiệm vụ, quyền hạn
của mình.
- Nhóm 3: Điều chỉnh những quan hệ quản lý
phát sinh trong quá trình các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức và các cá nhân
(cán bộ, công chức) được nhà nước trao quyền thực hiện hoạt động quản lý hành
chính nhà nước trong một số trường hợp cụ thể do pháp luật quy định.
=> Vì vậy, nhận định trên là đúng.
Câu 3: Nhận định:
“Luật Hành chính không Điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình
hoạt động nội bộ của tổ chức xã hội” là đúng.
Bởi vì: Tổ chức xã hội nào thì hoạt động
theo Điều lệ của tổ chức xã hội đó. Do vậy Luật Hành chính không Điều chỉnh các
quan hệ trong hoạt động nội bộ của họ.
Câu 4: Nhận định: Không chỉ có cơ quan hành chính nhà nước
thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước” là đúng.
Bởi vì: Có 2 nhóm tham gia thực hiện chức
năng qlý hành chính NN, đó là:
- Nhóm 1: Các cơ quan hành chính nhà nước
(được coi là nhóm chủ yếu, quan trọng nhất); ví dụ: Chính phủ, Bộ, Sở…;
- Nhóm 2: Các cơ quan nhà nước khác và các
tổ chức, cá nhân được nhà nước trao quyền để thực hiện chức năng quản lý hành
chính nhà nước; ví dụ: Phi công là cơ trưởng được quyền ra quyết định bắt giữ
người trên máy bay nếu hành khách đó có hành vi gây mất an toàn cho chuyến bay
.v.v.
Câu 5: Nhận định: Các bên tham gia quan hệ quản lý bao giờ
cũng có sự phụ thuộc về mặt tổ chức? là sai.
Bởi vì: Khi một bên tham gia quan hệ quản
lý vi phạm, dẫn đến phải bị xử phạt thì không liên quan gì đến sự phụ thuộc vào
tổ chức của nhau.
Ví dụ: Một cá nhân cảnh sát giao thông khi
vượt đèn đỏ mà không phải thi hành công vụ thì vẫn bị xử phạt lỗi vi phạm như
thường.
Câu 6:
Nhận định:
Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với công dân A khi cơ quan hành chính
nhà nước thuê nhà của công dân A để làm trụ sở làm việc tạm thời là đối tượng
Điều chỉnh của Luật Hành chính? Là sai.
Bởi vì: Việc cơ quan hành chính nhà nước
thuê nhà của công dân A là quan hệ dân sự, nên nó không thuộc đối tượng Điều
chỉnh của Luật Hành chính.
Câu 7: Nhận định: “Tổ chức Chính trị xã hội ở cấp Trung
ương không có quyền đơn phương ban hành văn bản pháp luật hành chính” là đúng.
Bởi vì: Tổ chức Chính trị xã hội chỉ được
ban hành pháp luật hành chính dưới dạng liên tịch.
Câu 8: Nhận định: “Quy phạm Luật hành chính do cơ quan Nhà
nước ở trung ương ban hành, bao giờ cũng có hiệu lực trên phạm vi toàn quốc” là sai.
Bởi vì: Trong một số trường hợp ngoại lệ,
quy phạm pháp luật hành chính chỉ có hiệu lực trên một hoặc một số địa phương
nào đó mà thôi.
Câu 9:
Nhận định:
“Chủ thể của Luật hành chính bao giờ cũng là chủ thể quan hệ Luật hành chính” là sai.
Bởi vì: Mặc dù chủ thể Luật hành chính
được quy phạm luật hành chính xác định luôn có quyền và nghĩa vụ pháp lý. Nhưng
nếu không tồn tại sự kiện pháp lý (hành vi, sự biến) làm phát sinh quan hệ pháp
luật cụ thể với sự tham gia của chủ thể Luật Hành chính đó thì chủ thể Luật
Hành chính không trở thành là chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính.
Câu 10: Nhận định: “Chủ thể quan hệ Luật hành chính bao giờ
cũng là chủ thể Luật hành chính” là đúng.
Bởi vì: Muốn là chủ thể quan hệ Luật hành
chính thì trước tiên phải là chủ thể Luật Hành chính.
Câu 11:
Nhận định:
“Nguyên tắc Đảng lãnh đạo chỉ được áp dụng trong quá trình tổ chức và hoạt động
của cơ quan hành chính Nhà nước” là sai.
Bởi vì: Đảng lãnh đạo toàn diện Nhà nước
và xã hội (Điều 4, Hiến pháp 1992).
Câu 12:
Nhận định:
“Không phải tất cả các cơ quan hành chính Nhà nước đều tổ chức và hoạt động
theo sự phụ thuộc hai chiều” là đúng.
Bởi vì: Các cơ quan hành chính nhà nước ở
trung ương hoạt động theo sự phụ thuộc một chiều.
Câu 13:
Nhận định:
“Dân chủ trong quản lý hành chính Nhà nước chỉ là sự phát huy quyền chủ động
sáng tạo của chính quyền địa phương” là sai.
Bởi vì: Nguyên tắc tập trung dân chủ đều
thực hiện ở tất cả các cấp, từ trung ương cho đến địa phương.
Câu 14: Nhận định: “UBND tỉnh chấp hành Nghị quyết của HĐND
tỉnh là biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ” là đúng.
Bởi vì: Theo Điều 3 Luật Tổ chức Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, Ủy ban nhân dân tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ.
Tại Điều 123 hiến pháp 1992 quy định: “Uỷ
ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân
dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương chịu trách nhiệm chấp hành Hiến
pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị quyết của Hội
đồng nhân dân”.
Như vậy, việc Uỷ ban nhân dân tỉnh chấp
hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh chính là biểu hiện của ngtắc tập
trung dân chủ theo đúng các quy định trên.
Câu 15: Nhận định: “ Hình thức buộc thôi việc chỉ áp dụng
đối với công chức phạm tội bị tòa án phạt tù mà không được hưởng án treo” là sai.
Bởi vì: Theo Điều 14, Nghị định
34/2011/NĐ-CP, Quy định xử lý kỷ luật đối với công chức thì còn có nhiều trường
hợp khác vẫn bị buộc thôi việc. Cụ thể:
1. Bị phạt tù mà không được hưởng án treo;
2. Sử dụng giấy tờ ko hợp pháp để được
tuyển dụng vào c.q, tổ chức, đơn vị;
3. Nghiện ma túy có xác nhận của cơ quan y
tế có thẩm quyền;
4. Tự ý nghỉ việc, tổng số từ 07 ngày làm
việc trở lên trong một tháng hoặc từ 20 ngày làm việc trở lên trong một năm mà
đã được cơ quan sử dụng công chức thông báo bằng văn bản 03 lần liên tiếp;
5. Vi phạm ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng
quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí; kỷ luật lao động; phòng, chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác
của pháp luật liên quan đến công chức.
Câu 16: Nhận định: “Chỉ có cơ quan hành chính Nhà nước có
hệ thống đơn vị cơ sở trực thuộc” là đúng.
Bởi vì: Các cơ quan khác có thể có đơn vị
cơ sở trực thuộc nhưng không thành hệ thống như cơ quan hành chính nhà nước.
Câu 17: Nhận định: “Khi xử lý Cán bộ, công chức bằng hình
thức khiển trách thì không cần thành lập hội đồng kỷ luật” là sai.
Bởi vì: Chỉ không thành lập hội đồng kỷ
luật trong các trường hợp sau:
* Theo Điều 17 của nghị định 34/2011/NĐCP:
a) Công chức có hành vi VPPL bị phạt tù mà
không được hưởng án treo;
b) Công chức giữchức vụ lãnh đạo, quản lý
bị xem xét xử lý kỷ luật khi đã có kết luận về hành vi vi phạm pháp luật của
cấp ủy, tổ chức Đảng theo quy định phân cấp quản lý cán bộ, công chức của Ban
Chấp hành Trung ương.
* Theo Khoản 2, Điều 5 của nghị định 35/2005/NĐ-CP: “Khi xử lý kỷ luật cán bộ,
công chức phải thành lập Hội đồng kỷ luật, trừ trường hợp cán bộ, công chức
phạm tội bị Tòa án phạt tù mà không được hưởng án treo”.
Câu 18:
Nhận định:
“Việc tuyển dụng công chức vào làm việc trong các cơ quan hành chính Nhà nước,
đơn vị sự nghiệp đều phải thông qua thi tuyển” là sai.
Bởi vì: Theo Điều 37 Luật công chức thì:
“Người có đủ Điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 36 của Luật này cam kết tình
nguyện làm việc từ 05 năm trở lên ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu,
vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có Điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn thì được tuyển dụng thông qua xét
tuyển”.
Câu 19:
Nhận định:
“Tất cả các cơ quan quản lý nhà nước đều có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính” là sai.
Bởi vì: Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
2002; sửa đổi, bổ sung 2008 chỉ quy định cho một số cấp và cơ quan quản lý nhà
nước.
Câu 20:
Nhận định:
“Tất cả các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đều có quyền áp
dụng hình thức phạt bổ sung” là sai.
Bởi vì: Tại các Điều 12, 28, 31 của Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002; sửa đổi, bổ sung 2008 chỉ quy định cho một
số chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được quyền áp dụng hình
thức phạt bổ sung chứ không phải tất cả.
Câu 21:
Nhận định:
“Người dưới 14 tuổi không phải là đối tượng của việc áp dụng các hình thức xử
phạt vi phạm hành chính” là đúng.
Bởi vì: Theo Điều 6, 7 Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính 2002; sửa đổi, bổ sung 2008, quy định đối tượng bị xử lý vi
phạm hành chính là từ đủ 14 tuổi trở lên.
Câu 22:
Nhận định:
“Chỉ trong trường hợp cá nhân, tổ chức VPHC bị phạt từ 50.000 đến 100.000 đồng
nộp tiền phạt tại chỗ thì mới được nhận biên lai thu tiền phạt” là đúng.
Bởi vì: Theo Điều 54 Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính 2002; sửa đổi, bổ sung 2008 quy định: “Trong trường hợp xử phạt
cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 10.000 đồng đến 200.000 đồng … Người có thẩm quyền
xử phạt phải giao biên lai thu tiền phạt cho người bị xử phạt.”.
Câu 23:
Nhận định:
“Biên bản vi phạm hành chính phải có đủ chữ ký của người VPHC, người chứng
kiến, người bị thiệt hại thì mới có giá trị” là sai.
Bởi vì: Theo khoản 3, Điều 55 Pháp lệnh xử
lý vi phạm hành chính 2002; sửa đổi, bổ sung 2008 quy định: “… Nếu người vi
phạm, đại diện tổ chức vi phạm, người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại
diện tổ chức bị thiệt hại từ chối ký thì người lập biên bản phải ghi rõ lý do
vào biên bản.”.
Câu 24: Tình
huống:
“Chủ doanh nghiệp X thực hiện hành vi kê khai trụ sở nhưng thực tế không giao
dịch tại trụ sở đó theo quy định của pháp luật, nên hành vi trên bị phạt từ 1
đến 5 triệu. Chủ tịch UBND phường nơi chủ doanh nghiệp cư trú đã ra quyết định
phạt tiền” là sai.
Bởi vì: Theo Điều 28 Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính 2002; sửa đổi, bổ sung 2008, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã,
phường chỉ được phạt hành chính với số tiền tối đa là 2 triệu đồng.
Câu 25: Tình
huống: “A 17
tuổi thực hiện hành vi ném đá vào người
đang đi xe gắn máy trên đường theo quy định của pháp luật hành vi trên bị xử
phạt từ 100 đến 300 nghìn đồng. Người có thẩm quyền đã ra quyết định phạt A 200
000 đồng. Áp dụng điều 7 và 57 Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính để tính
tiền phạt” là sai.
Bởi vì: Theo khoản 1, Điều 7, Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính 2002; sửa đổi, bổ sung 2008 quy định: “Người từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính thì có thể bị áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính quy định
tại Điều 12 của Pháp lệnh này. Khi phạt tiền đối với họ thì mức tiền phạt không được
quá một phần hai mức phạt đối với người thành niên”. Trong trường hợp
này, do A mới có 17 tuổi nên mức phạt A phải <150 ngàn đồng. Vì vậy phạt 200
ngàn đồng là sai.
III.
phần bài tập:
1. Ngày 04/5/2010 Ông H đã mua một ngôi nhà của
Ông D thuộc phường X, Quận Y, Thành phố Z với diện tích 32,70m2.
Sau khi mua nhà được một tháng, Ông H đã viết
đơn gửi UBND phường X xin sửa chữa nhà ở. Đơn đã được chủ tịch phường xác nhận
và chuyển ý kiến lên phòng quản lý đô thị quận giải quyết. Trong lúc UBND phường
chưa có ý kiến Ông H đã tiến hành xây dựng nhà trên diện tích là 40m2 gần hè đường.
Vì chưa có giấy phép nên Ông H đã bị đội quy tắc quận và UBND phường phạt
1.000.000đ và buộc đình chỉ việc xây dựng.
Ông H không chấp hành quy định trên mà còn tiếp
tục hoàn thiện công trình vào ban đêm. Vì vậy, UBND quận đã ra quyết định cưỡng
chế tháo dỡ công trình trái phép.
Ông H đã làm đơn khiếu nại gửi tới UBND thành
phố Z, Thanh tra TP và VKSND thành phố. Qua vụ việc trên, Anh chị hãy:
1. Phân tích các quan hệ pháp luật hành chính
đã phát sinh?
2. Việc xử phạt hành chính của đội quy tắc đô
thị và UBND phường đúng hay sai?
3. Nhận xét cách xử lý của UBND Quận?
Bài làm:
1. Các quan hệ pháp
luật phát sinh:
- Quan hệ pháp luật hành chính:
+ Chủ thể bắt buộc:
UBND phường X – Ông H
+ Chủ thể thường: Ông
H
+ Khách thể: Trật tự
quản lý HCNN về xây dựng (cụ thể xây dựng nhà ở)
+ Sự kiện pháp luật
hành chính: Việc ông H gửi đơn lên UBND phường X xin phép sữa chữa nhà ở.
- Cặp quan hệ 2: ý 2:
+ Chủ thể bắt buộc: Giữa
chủ tịch UBND phường với phòng quản lý đô thị.
+ Chủ thể thường:
Phòng quản lý đô thị.
+ Khách thể: Thẩm quyền
về trật tự thủ tục hành chính.
+ Sự kiện pháp luật
hành chính: Việc chủ tịch UBND phường X xác nhận cho ông H được sửa chữa.
- Cặp quan hệ 3: ý 3:
+ Chủ thể bắt buộc: Giữa
ông H với đội quy tắc quận.
+ Chủ thể thường: Ông
H với thanh tra thành phố.
+ Khách thể: Trật tự
quản lý HCNN về lĩnh vực xây dựng
+ Sự kiện pháp luật hành chính: Việc ông H tiếp
tục quy phạm (bị phạt 1 triệu đồng)
- Cặp quan hệ 4: ý 4:
+ Chủ thể bắt buộc: UBND thành phố, thanh tra, VKSND.
+ Chủ thể thường: Ông H
+ Khách thể: Trật tự quản lý HCNN về lĩnh vực khiếu nại
+ Sự kiện pháp luật hành chính:
Ông H gửi đơn trực tiếp tới thanh tra thành phố, UBND thành phố, VKSND.
2. Việc xử phạt
hành chính của đội quy tắc đô thị và UBND Phường là sai:
Theo đề bài nêu thì ông H mua nhà của ông D với diện tích là 32,70 m2.
Sau khi mua nhà được 01 tháng ( 30 ngày) thì ông H làm đơn xin sửa chữa ngôi
nhà trên và được chủ tịch UBND phường xác nhận và chuyển lên phòng QLĐT giải
quyết. Việc ông H làm đơn xin sữa chữa gữi UBND phường là đúng, tuy nhiên trong
trường hợp này ông H đã có lỗi là ông H chưa được phòng QLĐT đồng ý ( cấp giấy
phép sữa chữa) mà đã tiến hành sữa chữa nhà (trong thời gian chờ sự chấp thuận
của phòng QLĐT ( cấp giấy phép sữa chữa) và ý kiến của UBND phường ).
Mặc khác ông H tiến hành xây dựng nhà trên diện tích 40 m2 (
vượt 7,3 m2 so với diện tích
ngôi nhà đã mua). Vì lẽ đó có thể sẽ có 02 trường hợp xảy ra:
1. Phần diện tích vượt (7,3m2 ) là phần đất hợp pháp của ông
H.
2. Phần diện tích vượt (7,3m2 ) là phần đất ông H lấn chiếm
thêm.
Từ 02 trường hợp trên có thể xử lý như sau:
Trường hợp thứ
1: xây dựng nhà ở không có giấy phép xây dựng phạt tiền từ theo Nghị định 23 của
chính phủ.
Trường hợp thứ
2: xây dựng nhà ở không có giấy phép + lấn chiếm đất đai áp dụng nghị định 105;
nghị định 23.
Từ những ý nêu
trên khẳng định việc đội quy tắc đô thị và UBND Phường
Phạt
1.000.0000 đồng là không có cơ sở và không đúng theo quy định của pháp luật hiện
hành về lĩnh vực quản lý đất đai và xây dựng.
3. Cách xử lý của UBND cấp quận là đúng:
Vì theo nghị định số 180/2007NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Xây dựng
về xử lý vi phạm trật tự xây dựng đô thị.
Theo khoản 2 điều 10 của luật này có quy định như sau:
Đôn đốc, kiểm tra Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc thực hiện quản lý trật tự xây dựng đô thị thuộc
địa bàn; ban hành kịp thời quyết định cưỡng chế phá dỡ công trình vi phạm trật
tự xây dựng đô thị theo thẩm quyền.
cảm ơn đã chia sẻ, hãy đên với luật IURA nếu có nhu cầu nhé
Trả lờiXóa