Thứ Tư, 18 tháng 9, 2013

XÃ HỘI HỌC ĐẠI CƯƠNG - CHƯƠNG IV : VĂN HOÁ

Chương IV VĂN HOÁ
I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ C ỦA VĂN HOÁ
        Khái niệm
Văn hoá là một khái niệm đa ý nghĩa. Khái niệm này thể hiện trong toàn bộ mọi hoạt động, mọi lĩnh vực của x ã hội, của cộng đồng, của mỗi gia đình và cho tới từng cá nhân. Đến nay, văn hoá vẫn l à một trong những khái niệm phức tạp và khó xác định nhất.
về mặt ngữ nghĩa, khái niệm văn hoá có nguồn gốc từ tiếng La tinh “Cultus”, (tiếng Anh “Culture”, tiếng Nga “Kynbmypá’"). Từ này có ý nghĩa ban đầu l à gieo trồng (còn có nghĩa là cây trồng). Cultus Agri là “gieo trồng ruộng đất” và Cultus Animi là “gieo trồng tinh thần” hay “canh tác tinh thần” tức l à “sự giáo dục bồi dưỡng cho tâm hồn con người”. Thomas Hobbes, nh à triết học người Anh đã từng nói : “Lao động dành cho đất gọi là sự gieo trồng V à dạy dỗ trẻ em gọi l à gieo trồng tinh thần ”.
Hiện nay, theo số liệu thống k ê, có tới hơn 400 định nghĩa về vă n hoá. Mỗi định nghĩa đều xuất phát từ những cứ liệu ri êng, mục đích riêng phù h ợp với vấn đề cần quan tâm nghi ên cứu.
Các nhà tâm lý học xem xét văn hoá từ giác độ tác động của nó đến cá nhân trong quá trình xã hội hoá: “Văn hoá là toàn thể những môn học cho phép cá nhân trong xã h ội nhất định đạt tới sự phát triển nào đó về cảm năng, về ý thức phê phán Và các năng lực nhận thức, các khả năng sáng tạo” (Tean Ladriere, UNESCO 1977).
Theo các nhà triết học, khái niệm văn hoá là: “ Toàn bộ những giá trị vật chất, tinh thần, do con người tạo ra trong quá tr ình thực tiễn lịch sử xã hội và đặc trưng cho trình độ đạt được trong sự phát triển lịch sử của xã hội”.
Các nhà xã h ội học cũng định nghĩa văn hoá theo nhiều cách khác nhau. Có người đồng nhất văn hoá với văn minh theo nghĩa dân tộc học một cách rộng nhất, chỉ to àn bộ tập hợp bao gồm cả khoa học, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục, những kỹ năng v à thói quen khác do con người thu nhận được với tư cách thành viên của xã hội.
Một số người khác lại chủ trương: “Văn hoá là tổng thể những hành vi học hỏi được các giá trị, niềm tin, ngôn ngữ, luật pháp v à kỹ thuật của các th ành viên sống trong một xã hội nhất định nào đó
Hoặc một cách tiếp cận khác về văn hoá: “ Văn hoá là một hệ thống các khuôn mẫu và chuẩn mực được soạn thảo (được ghi lại dưới hình thức này hay hình thức khác trong các tập thể) về h ành vi, hoạt động, giao tiếp và tương tác của con người, có chức năng điều tiết v à khống chế trong tập thể lớn
Qua những định nghĩa về văn hoá đã dẫn trên, có thể thấy, tuy có nhiều điểm riêng theo từng góc độ của nh à nghiên cứu, nhưng khái quát lại, giữa những định nghĩa này có các điểm chung sau đây:
     Văn hoá là một trong những thiết chế c ơ bản của đời sống x ã hội.
      Là một hệ thống (các giá trị, các cơ cấu, kỹ thuật, thể chế các tư tưởng...) được hình thành trong quá trình ho ạt động sáng tạo của con người, được bảo tồn v à truyền lại cho các thế hệ sau.
       Hệ thống văn hoá có chức năng như là một khuôn mẫu chuẩn mực quy định các h ành vi xã hội. Mỗi cá nhân muốn trở th ành con người xã hội, muốn hoà nhập vào cộng đồng xã hội thì phải tiếp thu, tuân thủ các chuẩn mực đó. Về phương diện này, có thể coi văn hoá của xã hội là mục tiêu của quá trình xã hội hoá cá nhân v à nhóm.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về văn hoá như sau: “ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt h àng ngày về mặc, ở và phương thức sử dụng. To àn bộ những sáng tạophát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt, cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. (Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H à Nội, 2000, T3, tr. 431).
Rõ ràng, có th ể thấy quan niệm về văn hoá của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang tính khái quát cao, đồng thời cũng khá tương đồng với định nghĩa văn hoá của Tổng thư ký UNESCO Federico Mayor.
Như vậy, có thể đi đến sự thống nhất khái niệm văn hoá theo định nghĩa của Tổng thư ký UNESCO Federico Mayor như sau: “Văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân v à các cộng đồng) trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạ t động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống v à thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính ri êng của mỗi dân tộc
Khái niệm văn hoá vô c ùng phức tạp. Không ít trường hợp, người ta đồng nhất khái niệm văn hoá với khái niệm họ c vấn. Sự đồng nhất này thường biểu hiện r õ nét trong các v ăn bản có tính pháp quy khi quy trình độ văn hoá về trình độ học vấn. Thực ra th ì sự đồng nhất này hết sức phiến diện và không khái quát được giá trị văn hoá.
Cũng không thể đồng nhất khái niệm vă n hoá với khái niệm văn minh. Văn minh chỉ đồng nghĩa với văn hoá khi người ta đối lập văn minh với bạo tàn. Văn minh là trình độ phát triển đạt đến một mức nhất định của x ã hội loài người, có nền văn hoá vật chất v à tinh thần với những đặc trưng riêng. Văn minh thường được dùng để chỉ trình độ phát triển của nhân loại đạt tới ở thời kỳ lịch sử n ào đó. Đề cập đến văn minh tức là đề cập đến bốn nội dung cơ bản của văn minh, đó l à:
     Đô thị;
     Nhà nước;
     Chữ viết;
     Trình độ kỹ thuật.
Từ đó, xuất hiện c ác khái niệm văn minh như văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp...
Khi đề cập tới văn hoá, không thể không nhắc đến các khái niệm văn hiến và văn vật. Văn hiến là truyền thống văn hoá lâu đời v à tốt đẹp. Có thể hiểu văn hiến là văn hoá theo cách dùng và cách hi ểu trong lịch sử. Văn hiến thi ên về những giá trị tinh thần do những người có đức, có tài tạo ra trong lịch sử. Văn hiến l à khái niệm của văn hoá phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Còn văn vật là truyền thống văn hoá tốt đẹp thể hiện ở nhiều nhân t ài trong lịch sử và nhiều di tích lịch sử. Văn vật c òn là khái ni ệm hẹp để chỉ những công tr ình, những hiện vật có giá trị lịch sử v à giá trị nghệ thuật cao.
Tóm lại, bàn tới văn hoá l à bàn tới con người, là đề cập đến việc phát huy những năng lực bản chất của con người nhằm ho àn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Do đó, khái niệm văn hoá h àm chứa tính nhân văn, nhân bản.
Cơ sở của mọi hoạt động văn hoá là hướng tới những khát vọng vĩnh hằng của nhân loại l à Chân, ThiệnMỹ. Văn hoá và xã hội là hai phạm trù khác nhau nhưng lại gắn bó với nhau, trong đó, x ã hội có phạm vi bao quát hơn.
Một xã hội, xét một cách chung nhất l à một nhóm người chung sống với nhau trong một thời gian, thiết lập các tổ chức quan hệ ri êng. Chính hoạt động và quan hệ xã hội đã tạo nên văn hoá. Như vậy, có xã hội thì tất yếu phải có nền văn hoá tương ứng. Một nền văn hoá bao giờ cũng tồn tại trong l òng một xã hội và được lưu truyền từ thế hệ n ày sang thế hệ khác, thông qua quá tr ình xã hội hoá.
Con người là một yếu tố trong vũ trụ, chịu sự quy định chặt chẽ của những điều kiện môi trường sống xung quanh. Nhưng, con người, đồng thời lại sống trong một trật tự x ã hội với những thiết chế nhất định, với những khả năng hoạt động sáng tạo nhất định, hay nói cách khác là có văn hoá.
Nếu giới tự nhiên là cái nôi đầu tiên nuôi sống con người, thì văn hoá, là cái nôi thứ hai, mà ở đó, toàn bộ đời sống tinh thần của con người được hình thành, nuôi d ưỡng và phát triển. Con người không thể tồn tại khi tách rời môi trường trường tự nhiên, cũng như con người không thể thực sự là con người nếu tách khỏi môi trường xã hội và môi trường văn hoá.
Văn hoá là sự phát huy các năng lực bản chất của con ng ười, là sự thể hiện đầy đủ nhất chất người dù trong bất kỳ lĩnh vực nào kinh tế, chính trị, xã hội... Ngày nay, trong ngôn ng ữ của xã hội, người ta sử dụng một cách phổ biến các khái niệm có li ên quan đến văn hoá như văn hoá chính trị, văn hoá ứng xử, văn hoá lao động, văn hoá gia đ ình, văn hoá thẩm mỹ, văn hoá nghệ thuật... Lẽ dĩ nhi ên, điều này không loại trừ những lĩnh vực hoạt động ri êng của văn hoá, nghĩa l à những hoạt động không thuộc lĩnh vực kinh tế, chính trị, x ã hội...
Hoạt động văn hoá l à hoạt động sản xuất các giá trị tinh thần v à những vật chất chứa đựng giá trị tinh thần, nhằm giáo dục con ng ười khát vọng vươn tới Chân, ThiệnMỹ cũng như năng lực sáng tạo ra chúng trong đời sống x ã hội. Do đó, có thể nói, văn hoá l à động lực cho sự phát triển của mỗi dân tộc cũng như của toàn thể nhân loại. Đồng thời, văn hoá còn là nền tảng tinh thần của mọi x ã hội.
Văn hoá có vai tr ò hết sức to lớn đối với sự phát triển kinh tế. Nói tới con người là nói tới văn hoá, vì toàn bộ các giá trị văn hoá l àm nên những phẩm chất, năng lực tinh thần của con người. Những phẩm chất và năng lực đó được vật chất hoá trong quá tr ình sản xuất. Đổi mới tư duy kinh tế thành công là m ột thành tựu văn hoá. Th ành tựu này thúc đẩy kinh tế vượt qua khủng hoảng, tr ì trệ, vươn tới sự phát triển ổn định và bền vững.
Gần đây, trong lĩnh vực kinh doanh xuất hiện khá phổ biến khái niệm tài sản vô hình. Tài sản vô hình là các yếu tố chính như thông tin, khoa học - kỹ thuật, bí quyết công nghệ, tổ chức bộ máy, nghệ thuật quản lý, sự tín nhiệm của khách hàng đối với công ty và sản phẩm... Các tài sản vô hình đó chính là sự chuyển hoá các năng lượng tinh thần của con người vào hoạt động kinh doanh. Đó chính l à văn hoá.
Thế giới ngày nay đã ý thức sử dụng văn hoá như một động lực phát triển kinh tế. Một văn kiện của To à thánh Vatican năm 1972, khi đề cập đến đời sống kinh tế của x ã hội có đoạn viết: “ Con người là tác giả, là tâm điểm và là cứu cánh của tất cả đời sốngxã hội... Trong thời đại mà sự phát triển kinh tế, nếu được điều khiểnphối hợp một cách hợp lý và nhân đạo, có thể giảm được những chênh lệch trongxã hội thì nhiều khi lại làm cho những chênh lệch hoặc ở các nơi còn trở thành sự thoái hoá địa vị xã hội của những người yếu thếmiệt thị những người ngh èo túng...”
Khả năng phát triển của trí tuệ, của khoa học và kỹ thuật là điều kiện giải phóng v à phát triển con người. Nhưng sự phát triển của trí tuệ, của khoa học v à kỹ thuật cũng có khả năng ngược lại. Vấn đề l à sử dụng trí tuệ cũng như khoa học kỹ thuật v ào mục đích gì. Nghịch lý của những thời kỳ lịch sử đã qua là lý trí và khoa h ọc càng phát triển thì lương tâm, đạo đức con người càng có nguy cơ và xu hướng suy giảm.
Nhà triết học Rabelais đã nói: “Khoa học mà không có lương tâm thì chỉ làm bại hoại tâm hồn”. Tổng thư ký UNESCO Federico Mayor cũng đã nhận xét: “Chưa bao giờ như ngày nay, sự căng thẳng giữa khoa học và lương tâm, giữa kỹ thuật và đạo đức lên tới cực điểm đã trở thành mối đe doạ toàn thế giới".
Nếu nói văn hoá l à mục tiêu của phát triển kinh tế cũng có nghĩa l à phát triển kinh tế phải hướng vào phát tri ển và hoàn thiện con người, hướng vào phát tri ển và hoàn thiện xã hội. Từ đó, nhân loại đi tới một lý thuyết mới về sự phát triển.
       Nhận thức mới về sự phát triển không dừng lại ở các chỉ ti êu kinh tế. Phấn đấu đạt các chỉ tiêu kinh tế là điều hết sức cần thiết để đảm bảo sự tồn tại của con người, đáp ứng nhu cầu về vật chất như ăn, mặc, ở, đi lại..., nhưng sự phấn đấu đó lại có thể l à nguyên nhân t ạo ra sự bất bình đẳng trong thu nhập và hưởng thụ, có thể dẫn tới lối sống không lành mạnh, ích kỷ, thực dụng, coi thường trí tuệ và nhân cách.
Chính vì vậy, sau các chỉ ti êu kinh tế, xã hội học phải quan tâm tới hàng loạt các chỉ ti êu khác không kém quan tr ọng như tuổi thọ trung bình, trình độ học vấn chung của x ã hội, tỷ lệ người có việc l àm, môi trường xã hội lành mạnh, môi trường tự nhiên trong s ạch...
Định hướng của thế giới hiện đại l à khởi động sức sống của văn hoá để phát triển v à hội nhập, để cân bằng với tiến tr ình văn minh. Văn hoá, vì vậy, ngày càng chứng tỏ vai tr ò tiên quyết của mình. Văn hoá là “cái chốt an toằrì",“chìa khoẩ" và “động lực" của sự phát triển như lời kêu gọi của UNESCO khi tổ chức này phát động “ Thập kỷ phát triển văn hoá thế giới" trước ngưỡng cửa thế kỷ XX.
Như vậy, văn hoá vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển, đang trở th ành vấn đề lý luận v à thực tiễn có tính thời đại, l à hành trang chung của mọi dân tộc để bước vào kỷ nguyên văn minh mới.
            CẤU TRÚC VĂN HOÁ
Khi đề cập đến cấu trúc văn hoá, cần xem xét văn hoá như một hệ thống chứa đựng trong đ ó hàng loạt các thành tố tạo nên nền văn hoá. Giữa các thành tố này có sự liên kết chặt chẽ v à sự thay đổi của mỗi một trong các th ành tố đó đều kéo theo sự thay đổi của các th ành tố khác. Có các thành tố hợp thành cấu trúc văn hoá như sau:
1. Chân lý
Trong lịch sử đã tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về chân lý. Có quan niệm cho rằng chân lý l à tính chính xác, rõ ràng c ủa tư duy. Quan niệm khác lại cho rằng chân lý l à những nguyên lý, quan ni ệm được nhiều người tán thành thừa nhận. Cũng có quan điểm gắn chân lý với lợi ích thực tế của bản thân chân lý.
Xét về mặt khoa học, phải khẳng định chân lý l à sự phản ánh sự vật, hiện tượng của hiện thực v ào nhận thức của con người đúng như chúng tồn tại trong thực tế khách quan. Nói cách khác, chân lý l à sự phản ánh đúng thế giới khách quan trong ý thức của con ng ười. Chân lý là tri thức, phù hợp với hiện thực khách quan và đã được thực tế kiểm nghiệm. Chân lý l à những quan niệm về cái thật, cái đúng.
Chân lý là ph ạm trù mang tính tương đối, bởi lẽ mỗi nền văn hoá có những cái đúng, cái thật ri êng, hay nói cách khác là có chân lý riêng. Cái mà ở dân tộc này, ở nền văn hoá này được coi là chân lý thì có thể, ở dân tộc khác, ở nền văn hoá lại bị phủ nhận.
Chân lý luôn c ụ thể, gắn liền với hiện thực khách quan. V ì vậy, ngay trong m ột nền văn hoá, một dân tộc, ở những thời điểm khác nhau của lịch sử cũng có những chân lý khác nhau.
Khi đề cập đến chân lý, th ì phải đề cập đến nhóm hay cộng đồng xã hội. Chân lý chỉ có thể được hình thành thông qua nhóm ng ười. Một cá nhân không th ể xây dựng được chân lý. Cá nhân, qua tiếp xúc, tương tác với nhóm nhỏ, nhóm lớn h ình thành nên nh ững ý kiến cho là đúng, là thật, ngày càng có tính khách quan, càng g ần với hiện thực hơn.
Hiện thực khách quan, những sự vật, hiện tượng, những quá trình cụ thể của x ã hội là nguồn gốc của chân lý. Do đó, con người luôn tồn tại gắn liền với những điều kiện khách quan lịch sử cụ thể. Khi những điều kiện khách quan thay đổi th ì chân lý khách quan c ũng thay đổi theo.
Mỗi nền văn hoá, mỗi dân tộc đều có những hoàn cảnh lịch sử khác nhau và vì v ậy, trong nền văn hoá của mỗi dân tộc cũng có những bộ phận chân lý khác nhau.
Giá trị là những cái cao cả mà con người cần vươn tới và khi đạt được thì con người cảm thấy m ãn nguyện, có sự thăng hoa về tình cảm, sự cân bằng về tâm lý. Là một trong những th ành tố quan trọng của văn hoá, giá trị luôn được sự quan tâm v à chấp nhận rộng r ãi trong khoa h ọc xã hội.
Có thể coi giá trị l à những quan niệm về cái đúng mong muốn ảnh hưởng tới hành vi lựa chọn. Giá trị là điều mà chủ thể quan tâm. Vì vậy, nhìn nhận vấn đề một cách khoáng đạt h ơn, thì có thể cho rằng bất cứ cái gì đều cũng có thể có giá trị.
Giá trị gắn liền với nhận thức v à tình cảm của chủ thể. Giá trị có tính hướng dẫn và lựa chọn. Khi đ ã nhận thức được, giá trị trở th ành tiêu chuẩn để lựa chọn, để hướng tới và dùng nó để phán xét. Do đó, giá trị chính là yếu tố quan trọng để hướng dẫn cho h ành vi của chủ thể.
Con người đã tiếp cận những giá trị ngay từ khi c òn nhỏ thông qua giáo dục gia đình, nhà trường, quan hệ xã hội (bạn bè, nhóm xã hội...), các phương tiện truyền thông đại chúng hay thông qua nhiều nguồn khác. Chính nh ững giá trị mà con người tiếp nhận được đó đã trở thành một phần nhân cách của anh ta. Tuy nhi ên, do nhận thức, điều kiện, m ôi trường, hoàn cảnh sống... của mỗi người khác nhau nên ở mỗi người thường có hệ giá trị ri êng nhất định. Những hệ giá trị đó, có thể ph ù hợp với cộng đồng x ã hội, nhưng cũng có thể có những mâu thuẫn, xung đột giữa các cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng, với xã hội.
Mỗi cộng đồng xã hội, mỗi dân tộc, mỗi xã hội, mỗi nền văn hoá đều có những hệ giá trị ri êng. Chính hệ giá trị riêng đó chi phối hành vi của đại đa số th ành viên trong xã h ội. Giá trị l à cái hiện hữu, có thực v à tồn tại trong thực tế. Giá trị phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của từng x ã hội. Do vậy, khi nghi ên cứu, xem xét hệ giá trị, phải đặt chúng trong những điều kiện lịch sử, những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Hệ giá trị của một x ã hội chính là phương hướng phấn đấu cho toàn xã hội.
Hệ giá trị của mỗi con người hay của mỗi x ã hội rất phức tạp v à luôn tồn tại mâu thuẫn, thậm chí xung đột nhau. Ng ười ta thường ưu tiên, nhấn mạnh những giá trị được xếp theo thứ bậc quan trọng. Con người cũng như xã hội thường hành động theo những giá trị cơ bản và quan trọng nhất.
Giá trị ảnh hưởng đến động cơ và hướng dẫn cho hành động của con người. Do đó, có thể nhìn hành động mà ít nhiều xét đoán được giá trị của con người. Tuy nhi ên, trong m ột số trường hợp, giá trị v à hành động có thể không nhất quán nhau.
Mục tiêu là cái đích cần phải đạt tới. Mục tiêu là một bộ phận của văn hoá phản ánh văn hoá của một dân tộc. Mục ti êu là một trong những yếu tố cơ bản của hành vi và sự hoạt động có ý thức của con người. Mục tiêu chính là kết quả của hành động được dự đoán trước. Mục tiêu là cái đích thực tế cần phải ho àn thành.
Mọi hoạt động của con người đều xoay quanh những cái đích thực tế nhất định. Nhờ nó m à các hoạt động đa dạng của con người được liên kết với nhau trong mộ thệ thống, hướng tới những phương án hành động chung.
Có hai loại mục tiêu là mục tiêu cá nhân và m ục tiêu chung:
      Mục tiêu cá nhân là m ục tiêu của mỗi con người. Mục tiêu cá nhân rất đa dạng và không giống nhau với mọi cá nhân.
      Mục tiêu chung là mục tiêu của cộng đồng, xã hội. Mục tiêu chung được hình thành bằng hai con đường sau:
+ Thông qua s ự đồng ý lẫn nhau của các mục ti êu cá nhân;
+ Thông qua s ự trùng khớp của một v ài mục tiêu cá nhân của các thành viên trong c ộng đồng, x ã hội.
Mục tiêu gắn bó chặt chẽ với giá trị v à chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của giá trị. Không có giá trị th ì không có mục tiêu. Nói cách khác, giá trị nào thì sinh ra mục tiêu ấy. Tuy nhiên, mục tiêu khác giá trị ở chỗ, giá trị hướng đến mục đích tư tưởng; còn mục tiêu hướng đến mục đích cụ thể mà con người tổ chức hành động.
Sự tương tác giữa các th ành viên trong vi ệc chia sẻ những mục tiêu và giá tr ị chung chính là cơ sở cho sự tồn tại của các cộng đồng, x ã hội. Mục tiêu và giá tr ị tạo ra con người của hành động, hướng con người đến những mục đích cụ thể, đến những điều cao cả, tạo ra sự tồn tại của cộng đồng x ã hội.
Cộng đồng, x ã hội tập hợp các cá nhân, biến mục ti êu, giá trị cá nhân trở thành mục tiêu, giá trị của cộng đồng, x ã hội. Khi giá trị v à mục tiêu không thống nhất thì cộng đồng, xã hội sẽ thiếu tính bền vững. Khi đó, cần phải củng cố giá trị v à mục tiêu.
Chuẩn mực là cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, để hướng theo đó mà làm cho đúng. về mặt xã hội, chuẩn mực là tổng thể những mong đợi, những yêu cầu, những quy tắc của xã hội được ghi nhận bằng ngôn ngữ, ký hiệu hay bằng các biểu tượng văn hoá làm căn cứ cho các hành vi của các thành viên trong xã hội.
Qua hệ thống các chuẩn mực, các th ành viên xã h ội biết mình được phép làm gì và cần phải xử sự như thế nào cho đúng trong những tình huống xã hội khác nhau. Chuẩn mực l à sản phẩm của sự cân nhắc của cơ cấu xã hội, của quyền lợi nhóm, của hệ thống các mối quan hệ giữa các thành viên xã hội về cái cần, cái được phép, cái có khả năng, cái mong mu ốn; hay về cá i không mong mu ốn và không được phép.
Chuẩn mực xã hội thực hiện chức năng li ên kết, điều chỉnh, duy tr ì quá trình ho ạt động của xã hội, như là hệ thống của các mối quan hệ tác động lẫn nhau của các cá nhân v à các nhóm xã h ội.
Chuẩn mực là khái niệm có nội hàm rất rộng. Chuẩn mực bao gồm các đạo luật, các quy tắc chặt chẽ nhất cho đến những quy định lỏng lẻo nhất giữa một số người với nhau. Nhờ hệ thống các chuẩn mực m à hành vi của con người hoà nhập với cộng đồng, x ã hội; cùng chia sẻ và thực hiện hệ các giá trị xã hội. Tuy vậy cũng cần phân biệt chuẩn mực với giá trị. Nếu giá trị l à cái quan tr ọng, đáng giá nhất, th ì chuẩn mực là các tiêu chuẩn, các quy ước, hướng dẫn và sự mong đợi đối với h ành vi con người.
Mỗi địa vị xã hội đều có chuẩn mực ri êng. Con người ở các địa vị khác nhau đều được xã hội mong đợi v à yêu cầu ở các mức độ ph ù hợp. Tuy nhiên, với chuẩn mực chung thì không xét đến địa vị xã hội.
Có nhiều loại chuẩn mực x ã hội khác nhau. Tuỳ theo cách phân loại, xã hội học đề xuất hệ thống các ch uẩn mực như sau:
     Căn cứ vào mức độ cộng đồng có:
+ Chuẩn mực của toàn xã hội (chuẩn mực chung);
+ Chuẩn mực của các hệ thống x ã hội nhỏ (chuẩn mực nhóm);
+ Chuẩn mực của từng địa vị x ã hội (chuẩn mực riêng).
     Căn cứ vào mức độ thiết chế hoá có:
+ Chuẩn mực được thiết chế hoá ;
+ Chuẩn mực không được thiết chế hoá.
     Căn cứ vào mức độ nghiêm khắc của sự trừng phạt đối với sự vi phạm, có:
+ Lề thói;
+ Phép tắc.
Lề thói là thói quen xã h ội từ lâu đ ã thành nề nếp, là những tục lệ, những quy ước, quy tắc xử sự đối với hành vi của con người trong nhóm, trong xã h ội. Lề thói được con người tiếp thu qua giao tiếp và truyền từ thế hệ n ày sang thế hệ khác. Lề thói lan truyền rộng r ãi và định chế hoạt động, hành vi của con người một cách tự giác qua sự giám sát của cộng đồng bằng dư luận xã hội. Đôi khi, những định chế của lề thói lại tỏ ra hết sức khắt khe. Phạm vi của lề thói nhiều khi hết sức rộng lớn. Có những lề thói bao tr ùm toàn xã h ội, cũng có lề thói riêng cho từng vùng hay từng cộng đồng nhỏ.
Phép tắc là những quy tắc, lề lối phải tuân theo. Phép tắc l à những chuẩn mực quan trọng hơn lề thói. Cộng đồng, x ã hội thường cử ra một nhóm người để thực thi phép tắc. Cộng đồng, x ã hội sẽ áp dụng sự trừng phạt nghiêm khắc đối với sự vi phạm phép tắc. Phép tắc phân b iệt rạch ròi đúng sai, gắn với những giá trị mà xã hội cho là quan trọng hơn lề thói. Phép t ắc được thể hiện thông qua pháp luật. Như vậy, luật pháp l à chuẩn mực của phép tắc v à là chuẩn mực quan trọng nhất đối với mọi xã hội.
Loại hình văn hoá vật chất bao gồm những sản phẩm văn hoá chứa đựng trong vật chất mà sự tồn tại của chúng gắn liền với sự hiện diện của khối vật chất cụ thể như các công tr ình kiến trúc, nhà cửa, thành phố, công viên, tượng đài, công c ụ sản xuất... Đó l à những vật phẩm do con người sáng tạo nên trước hết là đáp ứng các nhu cầu sinh tồn v à phát triển, thứ nữa là để phân biệt anh ta với người khác.
Chính trong quá trình làm ra các s ản phẩm để đáp ứng nhu cầu sống của mình, con người đã không ngừng sử dụng v à phát huy m ọi yếu tố văn hoá vật chất như công cụ lao động, tri thức, kỹ năng lao động, các yếu tố này luôn g ắn liền với điều kiện, môi trường sống và môi trường sinh thái cụ thể nhất định.
Các yếu tố văn hoá vật chất thể hiện tính văn hoá của con người và được kết tinh trong mỗi sản phẩm văn hoá do con ng ười tạo ra. Mỗi sản phẩm vật chất được tạo ra bởi con người đều chứa đựng trong nó tính hai mặt:
     Mặt thực thể cho phép nhận biết nó l à cái gì và được tạo ra nhằm thoả mãn nhu cầu nào của con người.
        Mặt văn hoá cho phép nhận biết nó được sản xuất như thế nào và trong những điều kiện, ho àn cảnh nào.
Loại hình văn hoá tinh thần (văn hoá phi vật chất) bao gồm những sản phẩm văn hoá có giá trị tinh thần thuần tu ý, mà sự tồn tại của chúng có tính độc lập tương đối, không trực tiếp liên quan đến những vật chất mà chúng đ ã vay mượn trong quá tr ình sáng tạo ra các giá trị.
Văn hoá tinh thần là những ý niệm, tư tưởng triết học, tôn giáo, tín ngưỡng, những sáng tác vă n học nghệ thuật lấy ngôn ngữ l àm chất liệu chính, những giá trị, chuẩn mực đạo đức, phong tục, tập quán...
Sự phân chia ra hai loại h ình văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần chỉ có ý nghĩa tương đối, chỉ nhằm mục đích dễ phân biệt m à thôi. Xã hội học kh ông cứng nhắc trong quan niệm, bởi lẽ, trong phạm trù “văn hoá vật chất” có giá trị của văn hoá tinh thần v à trong phạm trù “văn hoá tinh thần” ít nhiều cũng cần có những nhân tố vật chất nhất định để thể hiện.
Đề cập đến chức năng giáo dục của văn hoá tức là đề cập đến tính định hướng xã hội, là hướng lý tưởng đạo đức và hành vi c ủa con người vào Chân - Thiện - Mỹ, theo như khuôn mẫu xã hội đã quy định. Mỗi dân tộc đều có văn hoá riêng. Những quan niệm, đặc tính, truyền thống và tâm lý của mỗi dân tộc gắn liền với những điều kiện lịch sử ri êng đã tạo ra bản sắc văn hoá dân tộc.
Nền văn hoá của mỗi dân tộc đ ã giáo dục, định hướng cho mỗi con người của dân tộc mình phát triển văn hoá theo bản sắc dân tộc.
Cùng với bản sắc dân tộc, văn hoá trong x ã hội có giai cấp luôn mang tính giai cấp. Điều kiện sinh hoạt vật chất của các giai cấp khác nhau làm nảy sinh những tư tưởng, ý thức hệ và tình cảm khác nhau.
Cuộc đấu tranh giai cấp về ý thức hệ thường diễn ra hế t sức quyết liệt, gay gắt trong lĩnh vực văn hoá.
Bằng văn hoá và thông qua văn hoá, x ã hội có thể định hướng hành vi của xã hội theo những giá trị, chuẩn mực nhất định. Tuy vậy, không nên bi ến các hoạt động văn hoá thành sự giáo huấn khô khan, quá trừu tượng, mà phải bằng các hình thức hoạt động phong phú, sinh động tác động vào việc hình thành nhân cách, giúp con ng ười phát triển toàn diện, phát huy được mọi năng lực tinh thần của con người.
Trong bất kỳ hoạt động văn hoá n ào cũng chứa đựng chức năng nhận thức. Bằng văn hoá v à thông qua ho ạt động văn hoá, x ã hội tác động đến nhận thức của mỗi cá nhân; trang bị th êm cho cá nhân nh ững tri thức, kinh nghiệm v à làm cho sự hiểu biết của cá nhân về thế giới, về xã hội và về bản thân ng ày càng sâu s ắc.
Chức năng nhận thức được biểu hiện rất r õ trong hoạt động giáo dục, đào tạo, nghiên cứu triển khai khoa học, công nghệ. Đây chính l à những hoạt động tác động trực tiếp tới nhận thức, trí tuệ; mở mang v à nâng cao dân trí.
Phát huy chức năng nhận thức của văn hoá sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, rút ngắn khoảng cách giữa các nước chậm phát triển với các nước phát triển.
Cùng v ới nhu cầu nhận thức, con người còn hướng đến nhu cầu cảm nhận và thụ hưởng các giá trị thẩm mỹ. Nhu cầu v à khả năng hướng tới cái đẹp l à dấu hiệu cơ bản để nhận biết con người. về điều này, Karl Marx đ ã từng viết: “Bản chất con người là biết nhào nặn hiện thực theo quy luật của cái đẹp”.
Hướng tới cái đẹp, nhận thức được cái đẹp v à có khả năng rung động trước cái đẹp, đó chính là cảm xúc thẩm mỹ. Cảm xúc thẩm mỹ, ở một mức độ nào đó, tạo nên giá trị, phẩm chất đạo đức của con người.
Lịch sử nhân loại cho thấy, mỗi bước tiến của x ã hội là một bước con người vươn tới cái đẹp. Chính nhu cầu và khả năng vươn tới cái đẹp là một trong những động lực quan trọng tạo nên sự tiến bộ cả về vật chất và tinh thần của đời sống con người. Càng tiến đến trình độ văn minh cao bao nhiêu thì khát vọng về cái đẹp của con người càng trở nên bức thiết bấy nhi êu.
Thiên nhiên và đời sống xã hội luôn tạo cho con người những cảm xúc thẩm mỹ. Cái đẹp vừa l à khuôn mẫu, vừa là gợi ý cho các chủ thể trong sự sáng tạo nghệ thuật, tức là làm ra cái đẹp.
Chức năng thẩm mỹ của văn hoá chính l à ở chỗ chỉ cho con người nhận biết khả năng phát hiện cái đẹp và sáng tạo cái đẹp. Chức năng này không th ể tách rời chức năng nhận thức của con người và do vậy, chức năng thẩm mỹ còn gắn bó mật thiết với cả chức năng giáo dục.
Con người là chủ thể sáng tạo lịch sử. Tính sáng tạo n ày chỉ thực sự được phát huy một cách hiệu quả khi con người biết căn cứ vào những điều kiện lịch sử. Những điều kiện đó hoặc đ ã có, hoặc đang dần dần xuất hiện.
Văn hoá là tổng thể những hoạt động mang tính tinh thần và trí tuệ cao, là quá trình nh ận thức ngày càng sâu s ắc những quy luật của tự nhiên, của xã hội cũng như của con người nhằm mở rộng tầm hiểu biết, trí tưởng tượng cũng như năng lực khám phá v à sáng tạo không ngừng của con người. Chính với ý nghĩa đó, văn hoá có thể đưa ra những dự báo cần thiết về tự nhi ên, xã hội và con người.
Trước sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học - công nghệ hiện nay, các nhà văn hoá đưa ra những dự báo về to àn cầu hoá, hội nhập văn hoá, về một x ã hội tri thức trong tương lai gần... Những dự báo đó đều là căn cứ để xây dựng các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển con người.
Nhu cầu hưởng thụ văn hoá của con người vô cùng đa dạng, nhưng nhìn chung, có th ể quy về hai loại nhu cầu cơ bản là nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Khi x ã hội phát triển ng ày càng cao, con người thường hướng tới việc thoả mãn nhu cầu tinh thần.
Giải trí l à thoả mãn một phần nhu cầu tinh thần của con người. Các hoạt động văn hoá sẽ đáp ứng v à không ngừng thoả mãn nhu cầu này của con người. Con người tìm đến các hoạt động văn hoá, hoạt động nghệ thuật l à nhằm thoả mãn những sở thích cá nhân của m ình.
Chức năng giải trí của văn hoá không chỉ nhằm b ù đắp lại sức lao động đã hao phí mà còn nhằm phát huy những năng khiếu tiềm tàng ở mỗi con người, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của con người.
Hoạt động văn hoá với mục đích giải trí không chỉ có chức năng giải trí đơn thuần, mà đồng thời với chức năng n ày, hoạt động văn hoá còn hàm ch ứa chức năng giáo dục hoàn thiện con người.

XÃ HỘI HỌC ĐẠI CƯƠNG - CHƯƠNG III :TỔ CHỨC XÃ HỘI VÀ THIẾT CHÉ XÃ HỘI

Chương III
TỔ CHỨC XÃ HỘI VÀ THIẾT CHÉ XÃ HỘI
I. NHÓM XÃ HỘI
  Khái niệm nhóm xã hội
Nhóm xã hội là tập hợp người có liên hệ với nhau theo một kiểu nhất định, hay nói một cách đầy đủ hơn, nhóm xã hội là một tập hợp người có liên hệ với nhau về vị thế, vai trò, những nhu cầu lợi íchnhững định hướng nhất định.
Gurvitch (nhà xã h ội học người Pháp, 1894-1965) cho rằng nhóm là một đơn vị tập thể hiện thực dựa trên những thái độ tập thể liên tục và tích cực và có sự nghiệp chung để thực hiện. Như vậy, theo Gurvitch đặc trưng cơ bản của nhóm là sự thống nhất về tinh thần, t ình cảm, mục đích và phương thức hoạt động của nhóm.
Nhóm là một trong những đơn vị cơ bản tạo thành xã hội. Con người luôn sống th ành nhóm. Tuy nhiên, khái ni ệm nhóm ở con người không chỉ có tính sinh học tự nhi ên, mà còn mang tính xã h ội, quan hệ cá nhân - cá nhân - nhóm và quan h ệ nhóm - nhóm tác động và chịu ảnh hưởng của những quan hệ x ã hội. Xã hội tác động tới các cá nhân thông qua nhóm, hay nói cách khác, nhóm gi ữ vai trò trung gian để liên kết cá nhân và xã hội.
Nhóm là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học khác nhau. X ã hội học tìm hiểu nhóm như là một cộng đồng của những tương tác, những vị thế và cơ cấu xã hội trong mối quan với các nhóm khác cũng như với toàn thể xã hội
Để làm rõ vai trò trung gian của nhóm (liên kết cá nhân - xã hội), cần xem xét nhóm như một tập hợp, một tiểu hệ thống x ã hội trong bối cảnh xã hội rộng lớn. Trong đó, yếu tố li ên kết cơ bản của nhóm (dấu hiệu chính của nhóm) l à hoạt động xã hội của nhóm với những dạng cụ thể và hình thức phù hợp của nhóm. Các th ành viên tham dự vào hoạt động chung của nhóm phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức của nhóm. Ngược lại, cơ cấu xã hội, tiểu văn hoá của nhóm ảnh hưởng tới hoạt động của các thành viên trong nhóm.
Cần phân biệt nhóm x ã hội với cộng đồng x ã hội. Là biến thái của nhóm xã hội, trong nhiều trường hợp cụ thể, cộng đồng x ã hội lại đồng nhất với nhóm x ã hội. Sự khác biệt ở đây l à chất keo dính kết nội tại của cộng đồng xã hội là sự liên kết các lợi ích, giá trị, truyền thống văn hoá, huyết thống tôn giáo, tín ngưỡng... của các th ành viên không ph ải bằng pháp luật thành văn; mỗi thành viên trong cộng đồng tự nguyện phấn đấu, giữ g ìn và phát tri ển các giá trị chung, gắn bó, đo àn kết với nhau trong đời sống xã hội.
Nhóm xã hội là một khái niệm rất rộng đi từ gia đ ình đến giai cấp, giới tính, lứa tuổi; đi từ quy mô đến thời gian tồn tại và các chức năng của nhóm.
Dù khó có thể đưa ra một tiêu chuẩn nào để phân biệt loại nhóm một cách chính xác tuyệt đối, các nh à xã hội học vẫn cố gắng tiến h ành việc này dựa trên một số cơ sở sau đây:
       Căn cứ vào số lượng thành viên tham gia thì có nhóm nhỏ (gia đình, nhóm bạn bè, đơn vị sản xuất kinh doanh...) và nhóm lớn (các tổ chức chính trị, tôn giáo giai cấp, đảng phái...).
       Căn cứ vào tính chất liên kết thì có nhóm sơ cấp (nhóm cấp I), trong đó, các thành viên quan hệ trực tiếp với nhau theo truyền thống, tình cảm, sở thích và nhóm thứ cấp (nhóm cấp II), các thành viên trong nhóm này quan h ệ một cách gián tiếp với nhau bởi những quy định, điều lệ chung... do nhóm đặt ra.
       Căn cứ vào hình thức biểu hiện mối li ên hệ giữa các th ành viên trong nhóm có nhóm chính thức; nhóm chính thức là nhóm có cơ chế vận hành thông qua luật pháp và quản lý hành chính và nhóm không chính thức là nhóm được hình thành từ những quan hệ tự phát; các thành viên của nhóm có thủ lĩnh ri êng và quan h ệ theo những luật lệ không thành văn nhưng được họ tán đồng, tự nguyện v à trung thành.
        Căn cứ vào cách thức gia nhập của th ành viên có nhóm tự nguyệnnhóm áp đặt, nhóm tự phátnhóm có tổ chức.
Tổ chức xã hội là một phạm trù cơ bản của xã hội học. Trong các ngành khác nhau, khái ni ệm tổ chức x ã hội được sử dụng gắn liền với đối tượng nghiên cứu của nó, nên có nhiều ý nghĩa khác nhau.
Xã hội học coi tổ chức x ã hội là một thành tố của cấu trúc x ã hội. Từ giác độ đó, có thể đi đến khái niệm: Tổ chức xã hội là một hệ thống các quan hệ, tập hợp, liên kết những cá nhân nào đó để hoạt động xã hội, nhằm đạt được một mục đích nhất định.
Như vậy, khái niệm tổ chức x ã hội của x ã hội học nhấn mạnh hệ thống các quan hệ li ên kết cá nhân chứ không chỉ dừng lại ở h ình thức của một tập hợp những cá nhân nào đó và mối quan hệ ở đây l à mối quan hệ xã hội.
Xét trên giác độ nhóm, tổ chức x ã hội là một dạng nhóm thứ cấp (nhóm cấp II) khá phổ biến. Tuy nhi ên, không ph ải nhóm thứ cấp n ào cũng là tổ chức xã hội. Để được coi là tổ chức xã hội, nhóm thứ cấp cần phải có năm dấu hiệu đặc trưng dưới đây:
      Thứ nhất, là nhóm xã hội có mục tiêu, có chủ đích và có ý thức.
       Thứ hai, quan hệ quyền lực phải được biểu hiện cụ thể trong cấu trúc của nhóm; các thành viên c ủa nhóm được phân bố trong mạng lưới các quan hệ quyền lực theo thứ bậc trên dưới, cao thấp; những cá nhân có bậc thang quyền lực cao hơn có khả năng điều chỉnh hành vi, thái độ của cá nhân ở nấc thang quyền lực thấp h ơn.
       Thứ ba, cùng với hệ thống quyền lực, tổ chức x ã hội, đồng thời là một tập hợp các vị thế v à vai trò. Vị thế của các th ành viên trong t ổ chức xã hội được xác định rõ ràng, được tổ chức xã hội đó thừa nhận, gắn liền với trách nhiệm v à quyền hạn nhất định. Để thể hiện đún g vị thế của các th ành viên, tổ chức phải đặt ra những tập hợp các h ành vi được phép và và những hành vi không được phép để kiểm soát và điều chỉnh hành vi của các thành viên.
       Thứ tư, Vai trò của các thành viên trong tổ chức xã hội được thể hiện theo yêu cầu của tổ chức. Tổ chức x ã hội thông qua các quy tắc do mình đặt ra, điều chỉnh quan hệ giữa các th ành viên nhằm phối hợp thực hiện vai trò của họ với mục đích đưa tổ chức đi vào nề nếp, ổn định.
       Thứ năm, phần lớn các tổ chức xã hội chính thức công khai hoá các mối quan hệ trong tổ chức cũng như ngoài tổ chức, mục đích hoạt động của tổ chức. Quan hệ b ên trong và bên ngoài c ủa tổ chức dựa tr ên hệ thống vị thế và vai trò xã hội đã được thừa nhận một cách chính thức.
Tổ chức xã hội được xem như một thể chế xã hội, một phương thức quản lý hay như là một thuộc tính của x ã hội. Hình thức của tổ chức xã hội luôn thay đổi c ùng với những thay đổi khách quan của ho àn cảnh xã hội và sự thay đổi chủ quan của con người. Hướng chủ yếu của sự thay đổi về tổ chức xã hội là làm cho tổ chức ngày càng có trình độ hoà hợp cao hơn, ngày càng phát huy khả năng tự quản. Nói cách khác, đó là quá trình dân chủ hoá tổ chức. Mọi x ã hội dân chủ đều l à xã hội có tổ chức.
          Căn cứ vào mức độ hình thức hoá của tổ chức
Có hai loại tổ chức l à tổ chức chính thức v à tổ chức không chính thức như sau:
      Tổ chức chính thức (tổ chức hình thức hoá) là tổ chức có các quy tắc tổ chức chặt chẽ và được pháp luật thừa nhận. Loại tổ chức x ã hội này có những chức năng rõ rệt, thể hiện ở nghĩa vụ, quyền lợi của của các thành viên; có nh ững công cụ điều tiết l à những chuẩn mực h ành vi của mỗi th ành viên; có nh ững mối li ên hệ theo thứ bậc của các chức vụ cũng như liên hệ chức năng trong tổ chức.
       Tổ chức không chính thức là tổ chức không có quy tắc chặt chẽ, không có sự thừa nhận của pháp luật. Tổ chức không chính thức h ình thành một cách tự phát ở b ên trong hoặc bên ngoài t ổ chức chính thức. Có hai loại tổ chức không chính thức dưới đây:
+ Tổ chức ngoài quy tắc là loại tổ chức được hình thành một cách tự phát giữa các th ành viên của một tổ chức chính thức nhằm thực hiện những nhiệm vụ của tổ chức đó nhưng lại không tuân theo những phương thức được quy định chính thức m à có những liên hệ ngoài quy tắc và trong nhi ều trường hợp những li ên hệ ngoài quy tắc lại tỏ ra hiệu quả hơn. Hai nhân tố tạo nên mối liên hệ bên trong tổ chức ngo ài quy tắc là lợi ích chung và hiệu quả.
+ Tổ chức tâm lý - xã hội là tổ chức được hình thành một cách tự phát, ở ngoài tổ chức chính thức từ những liên hệ cá nhân của những người có chung nhu cầu nào đó như thời trang, giải trí, học tập, văn học, nghệ thuật...
Tổ chức ngoài quy tắc và tổ chức tâm lý - xã hội có khi thâm nhập vào nhau nhưng vẫn duy trì những chức năng ri êng. Thực chất, tổ chức không chính thức là sự tự tổ chức của những cá nhân được hình thành một cách tự nhiên gắn liền với mọi hệ thống xã hội, mọi tổ chức. Ưu điểm của nó là tính hiệu quả trực tiếp v à nhanh chóng, linh ho ạt về hình thức hoạt động. Nhược điểm của tổ chức n ày là tuy dễ hình thành nhưng cũng dễ tan rã, gây nhiễu những li ên hệ chính thức v à thiếu phương hướng bền vững.
         Căn cứ vào mục tiêu
Căn cứ vào mục tiêu, có thể chia tổ chức x ã hội thành tổ chức xã hội “có tổ chức” v à tổ chức xã hội “không có tổ chức”.
      Tổ chức xã hội “có tổ chức ” gồm hai loại nhỏ:
+ Tổ chức quản lý (xí nghiệp, cơ quan...) nhằm giải quyết những nhiệm vụ nhất định, mục ti êu của tổ chức được áp đặt cho các th ành viên và sự điều tiết b ên trong của nó dựa vào quy tắc quản lý - bị quản lý.
+ Tổ chức liên kết liên kết các hiệp hội quần chúng, trong đó, mục tiêu chung trùng hợp với mục tiêu cá nhân ở mức độ nào đó, các tổ chức loại này được điều tiết theo những quy tắc do các th ành viên thi ết lập thông qua điều lệ.
+ Tổ chức “không có tổ chức” (tổ chức tự phát) bao gồm tổ chức liên hợp và tổ chức cư trú, trong đó:
+ Tổ chức liên hợp (gia đình, trường phái khoa học, nghệ thuật...) với mục ti êu chung trùng h ợp với mục ti êu cá nhân, các chức năng điều tiết hình thành một cách tự phát theo những chuẩn mực v à giá trị tập thể, ít hoặc không chính thức.
+ Tổ chức cư trú được hình thành từ những cá nhân, những gia đình cùng chung địa bàn cư trú nhằm giải quyết những vấn đề có li ên quan đến sinh hoạt chung v à những liên hệ láng giềng ổn định.
Các loại tổ chức x ã hội này có liên quan m ật thiết với nhau. Trong thực tế, nhiều trường hợp còn lồng ghép vào nhau để tăng cường và bổ sung lẫn nhau trong hoạt động x ã hội như trường hợp các tổ chức đo àn thể trong cơ quan.
         Hiệp hội tự nguyện
Hiệp hội tự nguyện là dạng tổ chức xã hội tương ứng với nhóm không chính th ức với những đặc điểm sau đây:
     Hiệp hội được lập ra v ì nhu cầu và lợi ích của bản thân các th ành
viên.
      Việc gia nhập hiệp hội l à hoàn toàn t ự nguyện với những ti êu chuẩn không khắt khe.
      Hiệp hội tự nguyện không có mối li ên hệ trực tiếp với các cơ quan quyền lực nhà nước. Như vậy, hiệp hội không chịu sự điều h ành, chỉ đạo trực tiếp của các cơ quan chính quyền và các cấp chính quyền cũng không can thiệp v ào các tổ chức tự n guyện nếu hoạt động của các hiệp hội nằm trong khuôn khổ của pháp luật.
Các hiệp hội tự nguyện không có một c ơ cấu chắc chắn hoặc một hệ thống quyền lực cưỡng bức để duy tr ì hoạt động của m ình, mà chỉ dựa vào sự tự nguyện của các th ành viên và m ột hệ thống hành động không bị ràng buộc chặt chẽ.
Các hiệp hội thu hút được khá đông th ành viên và ngu ồn kinh phí thông qua quyên góp, tài tr ợ.
Các hiệp hội tự nguyện có xu hướng ngày càng mở rộng gắn liền với trình độ phát triển của xã hội. Đây là dạng tổ chức không thể thiếu trong đời sống xã hội, nhằm đáp ứng v à thoả mãn nhu cầu vật chất v à tinh thần của các cá nhân trong x ã hội; thoả mãn một phần nhu cầu tổ chức hoạt động sống của các th ành viên trong xã h ội, đồng thời, vẫn tôn trọng tự do cá nhân của mỗi th ành viên.
          Tổ chức biệt lập
Tổ chức biệt lập là tổ chức xã hội được lập ra nhằm phục vụ những lợi ích của nhà nước, của tôn giáo hoặc của những c ơ quan khác, tức là lợi ích xã hội nói chung. Tổ chức biệt lập có những đặc điểm sau đây:
     Các thành viên của tổ chức bị cô lập, tách biệt khỏi x ã hội.
     Rất nhiều luật lệ, quy tắc do x ã hội và tổ chức biệt lập đặt ra để duy trì trật tự, đồng thời khiến cho các th ành viên ph ải phụ thuộc lẫn nhau.
      Tổ chức biệt lập thường có cơ cấu quan hệ phân cấp trên - dưới rất rõ ràng và ch ặt chẽ.
Các tổ chức biệt lập có thể chia th ành nhiều loại khác nhau:
      Các tổ chức dành cho những cá nhân không thể chăm sóc được bản thân như bệnh viện, nhà dưỡng lão, nhà trẻ mồ côi...;
      Các tổ chức dùng để giam giữ, cách ly nhữn g phần tử bị coi l à nguy hiểm cho xã hội như nhà tù, trại cải tạo, trại tập trung...;
      Các tổ chức thực hiện những nhiệm vụ đặc biệt cho x ã hội như doanh trại quân đội, tàu chiến, pháo đài...;
     Các tổ chức biệt lập của tôn giáo như nhà dòng, tu viện...
Các tổ chức biệt lập tồn tại do nhu cầu v à lợi ích chung của x ã hội. Chỉ khi nào xã hội không có nhu cầu về sự tồn tại của các tổ chức biệt lập nữa thì các tổ chức này mới chuyển hoá ho àn toàn thành các t ổ chức xã hội thông thường, hoặc có thể xoá bỏ chú ng trong hệ thống tổ chức xã hội.
Hiện nay, ở nhiều quốc gia, tính chất của các tổ chức biệt lập đang có nhiều thay đổi. Tính biệt lập hoàn toàn đã giảm đi. Các th ành viên của tổ chức biệt lập đã được tiếp xúc với thế giới b ên ngoài một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
         Bộ máy công chức
Bộ máy công chức l à một hệ thống thứ bậc của quyền lực, nghĩa vụ và trách nhiệm. Hệ thống này là một tổ chức chính thức có thể sử dụng vào hoạt động để hướng tới những mục đích chuy ên biệt. Trong hệ thống công chức, tất cả các vị trí, vai trò của các thành viên đã được sắp xếp theo một chương trình định trước; do vậy, các mục đích chuy ên biệt có thể thực hiện được với hiệu quả cao.
Bộ máy công chức ra đời, tồn tại v à phát triển trong hệ thống tổ chức xã hội; trở thành một loại hình hoạt động hiệu quả hơn các tổ chức khác. Nó s ử dụng tối đa khả năng của người lao động v à giảm tới mức tối thiểu sức ép căng thẳng cũng như sự va chạm trực tiếp giữa các thành viên của tổ chức trong quan hệ l ãnh đạo - phục tùng để có thể đạt được mục đích.
Bộ máy công chức có thể đặt các th ành viên vào nh ững vị trí đa dạng trong bậc thang quyền lực tương ứng với trình độ tri thức và năng lực thực sự của mỗi th ành viên.
Theo nhà phân t ầng học nổi tiếng người Đức Max Weber, bộ máy công chức có năm đặc tính chính sau đây:
     Đặc tính chuy ên môn hoá yêu cầu mỗi thành viên trong hệ thống công chức thực hiện một số nhiệm vụ chuy ên môn hẹp được ấn định theo quy chế. Hệ thống n ày yêu cầu quá trình chuyên môn hoá cao h ơn các loại hình tổ chức xã hội khác. Quá trình chuyên môn hoá t ạo ra lợi thế trong nhiều khâu hoạt động trong đó có khâu đ ào tạo; nó cho phép thực hiện quy trình đào tạo cá nhân theo một nhiệm vụ hoặc chuy ên môn hẹp.
      Đặc tính ti êu chuẩn và chất lượng đòi hỏi các tổ chức trong hệ thống bộ máy công ch ức phải tuyển chọn nhân vi ên thoả mãn những yêu cầu đã được đề ra trước. Mỗi một vị trí trong hệ thống đó đ òi hỏi những tiêu chuẩn và chất lượng tương ứng. Các tiêu chuẩn và chất lượng đó cũng có ý nghĩa bảo vệ người nhân viên khỏi sự đối xử bấ t công trong vi ệc xử lý các vấn đề về quyền lợi, trách nhiệm v à nghĩa vụ của họ.
     Đặc tính quy tắc thành văn bắt buộc các tổ chức trong hệ thống bộ máy công chức phải điều h ành hoạt động của các th ành viên b ằng các quy định và quy ch ế một cách r õ ràng, được ban hành thành văn bản quản lý như điều lệ, nội quy, quy chế...
     Đặc tính thứ bậc quyền lực chứng tỏ một hiện thực hết sức quan trọng là trong hệ thống bộ máy quyền lực bao giờ cũng tồn tại một hệ thống thứ bậc quyền lực. Mỗi cá nhân có một vị trí t heo thứ bậc trên dưới và kèm theo đó là trách nhi ệm, quyền hạn v à phận sự. Mỗi cá nhân phải chấp nhận thứ bậc đó v à chấp nhận các cá nhân ở thứ bậc tr ên trực tiếp thông qua cơ chế kiểm tra, giám sát, chấp h ành và báo cáo. Các t ổ chức trong bộ máy công chức dù lớn hay nhỏ đều có sự r àng buộc các cá nhân gắn chặt với nhau th ành hệ thống móc xích, mà trong đó, cấp dưới phải chấp h ành mệnh lệnh của cấp tr ên.
     Đặc tính đối xử lãnh đạm yêu cầu các thành viên trong hệ thống bộ máy công chức sống v à làm việc theo phận sự, nghĩa vụ trên căn bản mối quan hệ công tác thiếu cảm xúc v à mang tính lãnh đạm. Kiểu quan hệ lãnh đạm trong chừng mực nào đó là cần thiết bởi vì nếu tất cả mọi cá nhân trong tổ chức đều xây dựng mối quan hệ công việc phi chính tắc thì ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của bộ máy.
Bộ máy công chức là một dạng tổ chức xã hội có nhiều ưu điểm hơn các dạng tổ chức x ã hội khác nhưng không phải là hoàn hảo. Bản thân dạng tổ chức n ày chứa đựng những khiếm khuyết, xét cả những yếu tố bên trong cũng như bên ngoài bộ máy và thường đặt ra nhiều vấn đề khó giải quyết như con người công chức, chủ nghĩa h ình thức... cần phải đề phòng và khắc phục.
          Quyền lực xã hội
Một trong những lý do để tổ chức x ã hội tồn tại v à phát triển là sự phân chia quyền lực xã hội. Nhưng quyền lực không chỉ tồn tại trong các tổ chức xã hội mà còn tồn tại trong các nhóm x ã hội (dân tộc, giai cấp, gia đình...).
Quyền lực xã hội là một loại quan hệ x ã hội (theo chiều dọc) biể u hiện ở khả năng một cá nhân hoặc một nhóm trong việc điều khiển h ành vi, thái độ, quan điểm của cá nhân khác, của nhóm khác.
Quyền lực xã hội có thể có từ những nguồn gốc khác nhau nh ư tôn giáo, kinh tế, chính trị... nhưng điểm thống nhất của quyền lực là sức mạnh cưỡng chế của nó dựa tr ên những phương tiện và biện pháp trừng phạt những cá nhân n ào không tuân th ủ.
Xã hội học dựa tr ên sự phân tích mối quan hệ của chủ thể v à khách thể (đối tượng) của quyền lực để phân biệt quyền lực tiến bộ hay quyền lực phản động. Chủ thể và khách thể thực hiện quyền lực xã hội có thể là một cá nhân, một nhóm xã hội hay một cộng đồng xã hội. Thực chất của quyền lực chính l à việc giới hạn đồng thời với việc nới rộng mức độ tự do của chủ thể v à khách th ể thực hiện quyền lực.
Quyền lực xã hội có thể biểu hiện dưới hình thức cưỡng bức v à quyền uy. Cưỡng bức l à một dạng quyền lực có sử dụng một cách ép buộc về thể xác v à tinh thần để áp đặt ý chí của người này cho người khác. Uy quyền là một dạng quyền lực được sự đồng t ình của công chúng, được hợp thức hoá theo thứ bậc để người ra lệnh kiểm soát h ành vi của người dưới quyền. Khi người lãnh đạo thiếu sự đồng tình của nhóm thành viên thì th ường thực thi quyền lực của m ình bằng dạng quyền lực cưỡng bức hoặc phải chấp nhận chia sẻ, hay, thậm chí từ bỏ quyền lực đó.
Ngoài hai dạng thức cơ bản nêu trên của quyền lực x ã hội, còn tồn tại những dạng quyền lực khác như quyền lực tuyệt đối v à quyền lực giới hạn, quyền lực quân chủ, quyền lực thiểu số, quyền lực dân chủ...
          Trật tự xã hội
Trật tự xã hội là khái niệm chỉ sự hoạt động h ài hoà của các th ành phần trong cấu trúc x ã hội. Trật tự xã hội biểu hiện tính tổ chức của đời sống xã hội, tính chuẩn mực của hành động xã hội. Nhờ có trật tự x ã hội mà hệ thống xã hội đạt được sự ổn định và hoạt động một cách hiệu quả dưới tác động của các yếu tố b ên trong và bên ngoài xã h ội.
Các cơ chế đảm bảo cho trật tự x ã hội là các thiết chế xã hội (chủ yếu là quan hệ về kinh tế giữa các nhóm hoặc giai cấp x ã hội). Các lợi ích này sẽ được điều chỉnh cho đến khi nào đạt được sự công bằng theo quan niệm của một x ã hội nào đó cụ thể. Thông qua chức năng kiểm soát xã hội, các thiết chế x ã hội đảm bảo tính ổn định, tính có thể dự đoán, tính có thể điều khiển của những h ành vi cá nhân (tuân theo những giới hạn xã hội). Một khi h ành vi của cá nhân vượt qua giới hạn này sẽ làm giảm bớt sự ổn định v à trật tự xã hội.
Biểu hiện bên ngoài của sự phá vỡ tính ổn định v à trật tự xã hội là sự suy giảm tính năng động của hệ thống, xuất hiện sự tr ì trệ, hoặc là xung đột xã hội tăng lên về phạm vi và số lượng; hay là suy giảm mức độ hài lòng về xã hội của dân cư; hoặc giả là sự tăng lên về số lượng những hiện tượng chống đối x ã hội như bãi công, bãi khoá, b ạo động...
Sự vi phạm tính ổn định v à trật tự xã hội mang tính chất định tính hoặc định lượng. Nó mang tính định lượng trong trường hợp t ình huống và hệ thống xã hội có thể khắc phục được. Nó mang tính định tính khi sự vi phạm n ày chuyển thành một cuộc khủng hoảng x ã hội, dẫn đến việc chuyển đổi hệ thống xã hội sang một dạng mới hơn về chất.
Đối lập với trật tự x ã hội là rối loạn xã hội. Trong đó, các th ành phần của cấu trúc x ã hội hoạt động không nhịp nhàng. Các hành động của chủ thể xã hội xung đột với nhau do sự khác biệt lợi ích hoặc thiếu hụt các giá trị, chuẩn mực để đối chiếu.
         Kiểm soát xã hội
Kiểm soát xã hội là sự bố trí các chuẩn mực, các giá trị c ùng những chế tài để ép buộc việc thực hiện chúng. Sự kiểm soát nhằm đưa các hành vi của các cá nhân, các nhóm v ào các khuôn mẫu đã được xã hội thừa nhận là đúng, dùng các ch ế tài tiêu cực để đẩy lùi các hành vi lệch chuẩn v ào khuôn phép hay vào tr ật tự.
Chức năng kiểm soát x ã hội là tạo ra những điều kiện cho sự bền vững, ổn định v à trật tự xã hội, mặt khác tạo ra những thay đổi mang tính hợp lý và tích cực (thay đổi trong khuôn khổ được phép, không ảnh hưởng xấu đến độ bền vững v à tính ổn định của hệ thống xã hội).
Kiểm soát x ã hội cần phải có tính mềm dẻo, linh hoạt; như vậy chức năng kiểm soát mới có thể nhận biết ý nghĩa của những sai lệch chuẩn mực. Nhữn g sai lệch nào có tính ch ất tiêu cực, đe doạ phá hoại sự ổn định và trật tự xã hội, còn những sai lệch n ào là mầm mống của sự tiến bộ, của sự phát triển. Nếu như kiểm soát xã hội không thể phân định và kiểm soát được vấn đề n ày thì nó s ẽ triệt ti êu mọi nhân tố tích cực của sự phát triển xã hội.
Thông qua quá trình xã h ội hoá để các cá nhân tiếp nhận cơ chế kiểm soát xã hội. Trong quá tr ình này, các cá nhân, m ột mặt, tiếp nhận cách hành động, cách nhận thức như thế nào là chuẩn, là đúng, mặt khác, các cá nhân có thể thực hiện sự tự kiểm soát (điều chỉnh h ành vi của mình bằng cách so sánh, đối chiếu h ành vi của mình với các giá trị và chuẩn mực đ ã tiếp nhận). Nhờ đó, các cá nhân có thể thực hiện tốt những yêu cầu của xã hội với các vai tr ò mà họ đảm nhận.
Kiểm soát xã hội biểu hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống x ã hội để các cá nhân tiếp nhận cơ chế kiểm soát x ã hội dưới dạng kiểm soát chính thức và kiểm soát không chính thức. Trong đó:
      Kiểm soát chính thức gắn liền với hoạt động của một số tổ chức chính thức, với các quy định v à luật lệ để ép buộc các tổ chức phải tuân theo. Những tổ chức n ày là những tổ chức thi h ành pháp lu ật như công an, toà án, vi ện kiểm sát, trại giam...
      Kiểm soát phi chính thức thường gắn liền với các tổ chức x ã hội không chính thức và các nhóm sơ cấp, gắn liền với phản ứng xã hội (thái độ tán thành, ủng hộ hay chê trách, phản đối) không công khai v à chỉ phổ biến trong các nhóm nhỏ.
         Khái niệm thiết chế x ã hội
Xã hội muốn tồn tại v à phát triển thì phải dựa vào thiết chế xã hội để tổ chức, điều chỉnh v à kiểm soát các hoạt động x ã hội của các cá nhân, các nhóm xã h ội và xã hội. Xã hội học xin được giới thiệu một số khái niệm về thiết chế x ã hội như sau:
      Thiết chế xã hội là các ràng bu ộc xã hội được xã hội chấp nhận và được hầu hết các cá nhân, nhóm x ã hội và cả xã hội tuân thủ.
      Thiết chế xã hội là một hệ thống các quan hệ x ã hội ổn định, tạo nên một loạt các khuôn mẫu x ã hội thống nhất, được xã hội công k hai thừa nhận nhằm mục đích thoả m ãn các nhu c ầu cơ bản của xã hội.
     Thiết chế xã hội là một kiểu tổ chức hoạt động x ã hội và quan hệ xã hội nhất định, đảm bảo tính bền vững v à tính kế thừa cho các quan hệ đó.
Từ những khái niệm về thiết chế x ã hội đã dẫn, xã hội học khái quát định nghĩa: Thiết chế xã hội là hình thức cộng đồng và hình thức tổ chức của con người trong quá trình tiến hành các hoạt động xã hội. Thiết chế xã hội chính l à các ràng bu ộc được mọi cá nhân, nhóm cộng đồng và toàn thể xã hội chấp nhận và tuân thủ.
         Đặc trưng của thiết chế x ã hội
Mỗi một thiết chế có đối tượng riêng để hướng tới phục vụ, nhằm đáp ứng các nhu cầu xã hội chuyên biệt liên quan đến đối tượng. Để làm được điều đó, mỗi thiết chế x ã hội lại có những chức năng ri êng, cụ thể:
     Các thiết chế xã hội bao gồm các giá trị cơ bản mà các giá trị đó được các thành viên thừa nhận.
     Các quan h ệ được thiết lập trong thiết chế đó tỏ ra khá bền vững, các khuôn mẫu hành vi được hình thành trong thi ết chế trở th ành một phần truyền thống văn hoá của một cộng đồng x ã hội như dấu ấn của gia đình truyền thống ảnh hưởng sâu sắc đến gia đ ình hiện đại ở các x ã hội phương Đông.
      Mỗi một thiết chế x ã hội có tính độc lập tương đối của nó v à có tầm bao quát rộng đến mức các hoạt động của nó chiếm một vị trí trung tâm trong xã h ội. Mỗi một thiết chế tự nó được cấu trúc ở mức cao v à được tổ chức và được tổ chức xung quanh hệ thống các giá trị, chuẩn mực, quy tắc, các khuôn mẫu đ ã được xã hội thừa nhận.
     Mục tiêu của một thiết chế được đại đa số các thành viên của xã hội thừa nhận, cho dù thành viên đó có tham gia trực tiếp hay không vào trong thi ết chế. Một cá nhân nào đó chỉ chú trọng đến công tác chuyên môn, không quan tâm đến các vấn đề chính trị, nhưng cá nhân không thể không thừa nhận sự cần thiết phải có thiết chế nhà nước trong xã hội.
      Mặc dù các thiết chế xã hội có tính độc lập tương đối, nhưng giữa chúng có mối quan hệ tương tác với nhau hết sức chặt chẽ. Khi có sự thay đổi về cơ cấu tổ chức hay khuôn mẫu h ành vi của một thiết chế nào đó, có thể kéo theo sự thay đổi của các thiết chế các lĩnh vực khác.
Khi trong thi ết chế chính trị diễn ra sự thay đổi về giai cấp cầm quyền thì có thể ảnh hưởng đến thiết chế kinh tế (các tổ chức kinh tế, pháp luật kinh tế...).
         Các yếu tố hợp th ành thiết chế xã hội
Các đặc trưng nêu trên được biểu hiện một cách chi tiết, cụ thể ở những đơn vị nhỏ nhất của một thiết chế x ã hội.
Các thành tố chung nhất của thiết chế x ã hội được cô đọng trong ba phạm trù sau đây:
       Các biểu tượng văn hoá là các dấu hiệu để giúp gợi nhớ diện mạo của thiết chế. Các biểu tượng đó có thể l à vật chất hoặc mang tính tinh thần như quốc kỳ, quốc ca, ch ùa, nhà thờ...
      Mã hoá hành vi là sự chỉ đạo tư cách đạo đức của các cá nhân thích hợp với vai tr ò. Với sự tham gia của p hạm trù mã hoá hành vi, các cá nhân sẽ ít bị lệch chuẩn khỏi thiết chế.
     Hệ tư tưởng là hệ thống các tư tưởng liên kết lại với nhau để giải thích cho sự tồn tại hợp lý của đạo đức, quyền lợi kinh tế, chính trị của một nhóm x ã hội đặc thù. Hệ tư tưởng chính trị bao giờ cũng biện hộ cho giai cấp cầm quyền, hệ tư tưởng tôn giáo biện hộ cho niềm tin v ào thần tượng tôn giáo...
          Quy định hành vi
Các thiết chế cơ bản cho các cá nhân hoạt động với các kiểu h ành vi xã hội được chấp nhận trong nhiều trạng thái x ã hội khác nhau. Thông qua xã h ội hoá, đồng thời với sự hoạt động của các thiết chế, các cá nhân ti ếp nhận các khuôn mẫu h ành vi và th ực hiện theo các khuôn mẫu đó tuỳ theo từng t ình huống cụ thể.
         Định hướng vai trò xã hội của cá nhân
Các thiết chế xác định phần lớn các vai tr ò của cá nhân m à xã hội chấp thuận để cá nhân nhận biết trong quá tr ình xã hội hoá. Từ đó, các cá nhân có thể lựa chọn vai trò nào đó đối với mình là phù hợp, có thể biết được sự mong đợi của vai trò trước khi cá nhân đó thể hiện (x ã hội hoá đón trước).
         Đem lại sự ổn định và kiên định cho các th ành viên của xã hội
Để các cá nhân hướng nhận thức của m ình tới các thiết chế x ã hội như là một sự chấp nhận các giá trị, chuẩn mực x ã hội và khuôn mẫu hành vi, nh ằm củng cố nhận thức v à thống nhất hành động của mọi thành viên trong xã h ội.
          Điều chỉnh và kiểm soát hành vi của các cá nhân, các nhóm xã hội để chúngph ù hợp với mong đợi của x ã hội
Ngoài các ch ức năng cơ bản (chức năng chung) n êu trên, còn có chức năng riêng biệt cho các loại thiết chế ri êng lẻ.
Các nhà xã hội học phân biệt hai loại chức năng ri êng biệt của thiết chế (xét theo h ình thức biểu hiện) l à chức năng công khai của thiết chế là những phần bộc lộ ra bên ngoài để cho các th ành viên trong nhóm hoặc xã hội nhận hội biết một cách r õ ràng và chức năng tiềm ẩn là chức năng không bộc lộ ra b ên ngoài một cách rõ ràng, do đó, các thành viên trong xã h ội hoặc trong nhóm không nhận thấy được.
Giữa các thiết chế đôi khi xảy ra sự di chu yển chức năng. Sự di chuyển này xảy ra khi xuất hiện một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau đây:
      Thiết chế không đáp ứng được nhu cầu;
      Các thiết chế đều có khả năng đáp ứng được nhu cầu, nhưng một trong số đó nổi trội hơn, có khả năng đáp ứng ở mức độ cao hơn so với các thiết chế khác.
Có nhiều cách phân loại thiết chế x ã hội khác nhau dựa tr ên các tiêu chí khác nhau như tính cưỡng bức, phạm vi áp dụng, giá trị x ã hội. Để dễ dàng phân biệt, xã hội học có thể chia thiết chế xã hội thành hai loại là thiết chế chủ yếuthiết chế phụ thuộc. Căn cứ để thực hiện sự phân chia này là ba đặc điểm nổi bật như sau:
     Tính phổ quát;
     Sự cần thiết;
     Tầm quan trọng của các thiết chế.
Những thiết chế chủ yếu l à thiết chế có tính phổ quát cao nhất, cần thiết nhất cho x ã hội và được coi là quan trọng nhất cho lợi ích của cá nhân và xã h ội. Dưới đây, xin giới thiệu những thiết chế chủ yếu (bao gồm các thiết chế phụ thuộc k èm theo) và nh ững chức năng chuy ên biệt của những thiết c hế chủ yếu đó:
       Thiết chế gia đình là hệ thống quy định ổn định v à tiêu chuẩn hoá quan hệ tính giao nam nữ để duy tr ì nòi giống của con người. Hình thức phổ biến của thiết chế gia đ ình hiện nay là chế độ một vợ, một chồng sống với các con trong gia đ ình. Các thiết chế phụ thuộc nằm trong thiết chế gia đ ình là thiết chế hôn nhân, nuôi dưỡng con, quan hệ họ hàng... Các chức năng chuyên biệt của thiết chế gia đ ình gồm có:
+ Điều chỉnh hành vi tình dục và giới;
+ Duy trì sự sinh sản các thành viên trong gia đ ình từ thế hệ này sang thế hệ khác;
+ Chăm sóc, bảo vệ trẻ em, người già và phụ nữ;
+ Xã hội hoá trẻ em;
+ Gắn vai trò và thiết lập vị thế đã được thừa kế từ gia đ ình;
+ Đảm bảo cung cấp kinh tế gia đ ình.
       Thiết chế giáo dục là quá trình xã hội hoá phát triển một cách không chính th ức ngay trong gia đ ình và trong môi tr ường văn hoá chung và m ột cách chính thức trong tổ chức giáo dục phức tạp của x ã hội. Các thiết chế phụ thuộc l à thi tuyển, bằng cấp, học vị... Các chức năng chuyên biệt của thiết chế giáo dục là:
+ Chuẩn bị nghề nghiệp x ã hội cho cá nhân;
+ Truyền bá và chuyển giao di sản văn hoá qua các thế hệ;
+ Giúp cá nhân làm quen d ần với các giá trị x ã hội;
+ Chuẩn bị cho các cá nhân tiếp nhận các vai tr ò xã hội và đảm nhận các vai trò phù hợp với sư mong đợi của xã hội;
+ Tham gia kiểm soát và điều chỉnh hành vi cá nhân c ũng như các quan hệ xã hội.
        Thiết chế kinh tế là thiết chế mà nhờ đó xã hội được cung cấp đầy đủ về vật chất v à dịch vụ. Nó bao gồm chủ yếu quá tr ình sản xuất, phân phối và trao đổi các sản phẩm. các thiết chế phụ thuộc l à tín dụng, ngân hàng, qu ảng cáo, hợp đồng kinh tế... Các chức năng chuy ên biệt của thiết chế kinh tế gồm có:
+ Sản xuất, trao đổi h àng hoá và d ịch vụ;
+ Phân phối hàng hoá và d ịch vụ;
+ Tiêu dùng sản phẩm và sử dụng dịch vụ.
        Thiết chế chính trị là biểu hiện tập trung nhất về quan hệ chính trị tồn tại trong x ã hội. Thiết chế chính trị quyết định bản chất giai cấp của hệ hệ thống chính trị - xã hội, quyết định mức độ dân chủ hoá các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các thiết chế phụ thuộc là hệ thống pháp luật, hệ thống to à án, cảnh sát, quân đội. Các chức năng ri êng biệt của thiết chế chính trị l à:
+ Thể chế hoá hiến pháp, các bộ luật hoặc các quy định d ưới luật vào đời sống xã hội;
+ Thực thi các điều luật đ ã được thông qua;
+ Giải quyết các xung đột x ã hội về quyền lực chính trị giữa các nhóm thành viên xã h ội;
+ Thiết lập các bộ phận dịch vụ an sinh x ã hội như chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, giáo dục, phúc lợi.
        Thiết chế tôn giáo được biểu hiện bằng các tín ngưỡng và hình thức thờ phụng mà con người đang thực hiện. Thiết chế tôn giáo bao gồm hệ thống luân lý và đạo đức, chỉ rõ điều phải trái trong những khuôn mẫu tác phong. Các thiết chế phụ thuộc l à thể thức cầu nguyện, nghi thức tổ chức h ành lễ... Các chức năng chuy ên biệt của thiết chế tôn giáo là:
+ Thoả mãn nhu cầu tâm linh của các th ành viên trong xã h ội;
+ Thúc đẩy sự hoà đồng và cố kết xã hội thông qua cộng đồng tôn
giáo;
+ Tạo ra văn hoá tôn giáo (tiểu văn hoá , một khía cạnh bản sắc văn hoá dân tộc).
Những thiết chế phụ thuộc l à những thiết chế cụ thể, chi tiết nằm trong thiết chế chủ yếu.
Các thiết chế chủ yếu đ ã nêu trên có m ối qua lại ở mức độ cao. Trong quá trình vận động và phát triển, hệ thống xã hội cần thiết phải duy trì sự cân bằng v à ổn định của các thiết chế chủ yếu. Bởi v ì nhiều chức năng của các thiết chế chủ yếu có thể có một phần hay to àn bộ trùng nhau, ho ặc gối nhau, cho n ên, việc duy trì sự cân bằng của các thiết chế trong c ùng một thời gian, cùng m ột vị trí là hết sức khó khăn.
Các thiết chế xã hội hình thành, tồn tại và phát triển để phục vụ cho một xã hội nhất định. Bởi vậy, giữa chúng phải có sự phối hợp, hỗ trợ và bảo vệ lẫn nhau. Thiết chế giáo dục v à thiết chế chính trị bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với nhau từ trung ương đến cơ sở. Hơn thế nữa, sự thay đổi vị trí của một thiết chế thường sẽ dẫn đến sự thay đổi vị trí của một thiết chế khác.
Giữa các thiết chế x ã hội cũng không tránh khỏi mâu thuẫn v à sự cạnh tranh. Mâu thuẫn v à cạnh tranh có thể dẫn đến sự suy yếu ở một hoặc nhiều th ành phần trong thiết chế. Chẳng hạn, sự cạnh tranh giữa thiết chế chính trị v à thiết chế tôn giáo có thể làm thay đổi thành phần, cơ cấu các giáo sĩ trong nghị viện.

Xu hướng hợp tác giữa các thiết chế là xu hướng cơ bản, xuyên suốt quá trình vận động, biến đổi v à phát triển của xã hội. Đó là điều kiện để duy trì ổn định và trật tự xã hội.