Thứ Sáu, 18 tháng 4, 2014

CÂU HỎI MÔN LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC & PHÁP LUẬT VIỆT NAM




CÂU HỎI MÔN LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC & PHÁP LUẬT VIỆT NAM

1. Nhận xét về thiết chế nhà nước và tình hình soạn thảo pháp luật triều Trần
2.Nhận xét về thiết chế nhà nước và tình hình soạn thảo pháp luật triều Lê (sơ)
3. Nhận xét về chương Điền sản trong bộ Lê triều hình luật (Luật Hồng Đức)

2.2. Nhà Trần (1226 – 1400).
* Sự ra đời của nhà Trần:
Vào cuối thế kỷ XII, từ đời vua Lý Cao Tông (lên ngôi khi mới 3 tuổi), không lo triều chính mà chỉ ăn chơi, phung phí vô độ, đẩy nhà Lý bước đầu bước vào thời kỳ suy thoái. Đến đời vua Lý Huệ Tông, tình hình suy thoái ngày càng nghiêm trọng, đất nước loạn lạc bởi các thế lực cát cứ ở địa phương, trong triều thì nhiều biến động, do đó buộc nhà Lý phải lệ thuộc vào các thế lực bên ngoài, nhất là họ Trần. Đến cuối năm 1225, dưới sự sắp xếp và quyết định của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng kết hôn với Trần Cảnh (Con thứ của Trần Thừa, cháu họ của Trần Thủ Độ), sau đó làm lễ nhường ngôi cho chồng. Trần Cảnh lên ngôi vào đầu năm 1226, trở thành vua Trần Thái Tông, mở ra một triều đại mới với một nhà nước mới – Nhà Trần.
Sự thay thế của nhà Trần đối với nhà Lý đã đáp ứng được yêu cầu của đất nước vào lúc đó. Bằng con đường hôn nhân, sự thay đổi triều đại này đã diễn ra một cách tương đối êm ả, hợp lòng quân dân và làm nên một triều đại với nhiều chiến công vẻ vang, xây dựng và phát triển đất nước trên nhiều lĩnh vực.    
* Bộ máy nhà nước:
Nhà Trần tiếp tục kế thừa nhà Lý trong việc xây dựng bộ máy theo thiết chế nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, nhưng có nhiều bổ sung, đổi mới quan trọng. Điểm mới và nổi bật nhất là chế độ “lưỡng đầu” (Vua – Thái thượng hoàng). Cơ chế này được lập ra ngày từ đầu và duy trì trong hầu hết thời gian tồn tại nhà Trần. Về danh nghĩa, Thái thương hoàng là cố vấn cho vua, nhưng trên thực tế thì Thái thượng hoàng lại là người quyết định hầu hết những vấn đề trọng đại của triều đình và đất nước, do đó có thể gọi đây là chế độ hai vua cùng trị vì đất nước. Việc thiết lập và duy trì cơ chế đó trong phần lớn thời gian tồn tại của vương triều này là cách thức để nhà Trần vừa bảo vệ sự cầm quyền của dòng họ mình, vừa ngăn chặn việc tranh giành ngôi vua giữa các hoàng tử, đồng thời còn là sự kèm cặp, hỗ trợ của vua cũ đối với vua mới, giúp vua mới điều hành đất nước được tốt hơn.
Dưới thời nhà Trần, các cơ quan hành chính và chuyên môn sớm được thiết lập, mở rộng và quản lý chặt chẽ hơn trước. Theo thể chế “lưỡng đầu”, bên cạnh kinh đô Thăng Long còn có phủ Thiên Trường, được xây dựng và bảo vệ gần như một kinh đô thứ hai. Đó là quê hương, là nơi ở của thượng hoàng.
Về bộ máy quan lại, dưới triều Trần thì được tổ chức quy củ và có hệ thống hơn triều Lý, gồm hai bộ phận: quan trong (ở trung ương) và quan ngoài (ở địa phương). Tầng lớp quý tộc, tôn thất phát triển hơn và thể hiện rõ vai trò của mình trong sự nghiệp giúp vua giữ nước. Các vương hầu nhà Trần, ngoài việc nắm giữ những chức vụ chủ chốt ở triều đình, còn được phân phong đi trấn trị các vùng trọng yếu. Vương hầu có quyền lực lớn ở vùng mình trấn trị. Họ còn được phân phong thái ấp có phủ đệ và được tồ chức đội quân riêng. Lúc bình thường họ sống ở phủ đệ, lúc hữu sự họ về kinh đô.
Ở triều đình, nhà Trần đặt thêm nhiều cơ quan chuyên trách mới, đó là:
- Hệ thống các cơ quan tư pháp như: Thẩm hình viện (xét xử), Tam ty viện (Kiểm sát), Bình bạc ty (coi việc kiện tụng) và Ngự sử đài (giám sát quan lại và can gián vua);
- Quốc sử viện: Lo việc chép sử;
- Thái y viện: Lo việc trông coi sức khỏe;
- Quốc học viện: Lo việc học hành;
- Tư thiên giám: Lo việc thiên văn, làm lịch;
- Quốc tử giám: Trường học lớn nhất nước.
Về quan chế, Tướng quốc là người đứng đầu bá quan văn võ. Ở triều đình trung ương có các chức Tam thái, Tam thiếu (sư, phó, bảo) giống như thời Lý, ngoài ra bổ sung thêm ba chức quan mới được gọi là Tam tư: Tư đồ phụ trách ngoại giao, văn hóa; Tư mã phụ trách chinh phạt và Tư không phụ trách các mặt còn lại.
Ở ban võ, đứng đầu là các quan đại thần bao gồm: Thái úy, Thiếu úy và Bình chương sự, tiếp dưới là quan lại ở các bộ do quan Thượng thư đứng đầu và các chức võ quan khác Thị lang, Lang trung… Về ngạch võ, điểm khác hơn thời Lý là có các chức Phiêu kỵ thượng tướng quân (dành riêng cho hoàng tử), Tiết chế tướng quân. Các chức vụ quan trọng trong triều lúc đầu phần lớn là do các quý tộc tông thất nắm giữ, sau do nhu cầu chuyển dần sang giới quan liêu.
Ở cấp địa phương, có các chức An phủ chánh sứ và An phủ phó sứ; đứng đầu phủ là tri phủ, trấn phủ sứ. Đứng đầu châu là Chuyển vận sứ, Thông phán. Đứng đầu huyện là Lệnh úy; ở xã là đội ngũ xã quan (đại, tiểu tư xã, xã chính). Ngoài ra còn có các chức võ quan trông coi quân đội ở địa phương như: Quan sát sứ, Kinh lược sứ, Phòng ngự sứ và các chức quan trông coi về kinh tế như: “Hà đê phó chánh sứ” chuyên trách việc đê điều, “Đồn điền chánh phó sứ” chuyên trách quản lý đồn điền cùng một số chức quan trông coi về giáo dục ở lộ, phủ.v.v.
Bên cạnh bộ máy quan lại như trên, nhà Trần vẫn tiếp tục duy trì hệ thống “tăng quan” như thời nhà Lý với các chức đứng đầu là Quốc sư, Tăng thống, Tăng lục.v.v.
Nhìn chung, so với bộ máy quan lại nhà Lý thì nhà Trần có sự bổ sung và mở rộng hơn cả ở trung ương và địa phương. Các chức vụ và nhiệm vụ được gắn chặt, quy định rõ ràng, cụ thể hơn. Bộ máy này vừa thực hiện sự kế thừa, vừa có sự sáng tạo, đáp ứng được yêu cầu đất nước trong thời kỳ mới, đó chính là bước tiến quan trọng của nhà nước thời Trần.
* Việc điều hành đất nước:
- Về phân chia địa giới hành chính: Sau khi thành lập, nhà Trần thực hiện cải tổ hành chính, chia cả nước thành 12 lộ, hai trại và đặt thêm năm phủ, sáu châu.
- Về sử dụng, tuyển chọn quan lại: Trong sử dụng quan lại thì nhà Trần có điểm khác hơn nhà Lý là dành nhiều quyền lợi cho quan lại thông qua chế độ lương bổng; các quan lại thuộc tầng lớp quý tộc được ban cấp đất đai để lập thái ấp, được khai khẩn để lập điền trang.
Trong tuyển chọn quan lại, nhà Trần tiếp tục kế thừa và phát triển hơn thời Lý. Kế thừa ở chỗ ban đầu cũng dành những vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước cho những người thuộc dòng dõi quý tộc và các công thần (quân chủ quý tộc). Nhưng mặt khác, ngay buổi đầu thành lập, năm 1227 nhà Trần đã mở khoa thi Tam giáo (Nho, Phật, Đạo); thi Thái học sinh (tiến sĩ) vào năm 1232 và đã chọn tam khôi với học vị trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa vào năm 1247. Nhà Trần cũng đã định ra lệ khảo duyệt (khảo khóa) các quan theo định kỳ. Qua đó cho thấy, ở thời Trần, việc tuyển chọn quan lại bằng con đường khoa cử giữ vị trí hết sức quan trọng, công tác khoa cử tuyển chọn người thực tài đã ngày càng nâng cao vai trò của tầng lớp nho sĩ quan liêu trong bộ máy chính trị thời Trần từ số lượng khiêm tốn lúc đầu, sau càng gia tăng trong những triều đại kế tiếp. Điều đó đã nói lên xu thế phát triển của nhà nước thời Trần là từ nhà nước quân chủ quý tộc chuyển sang nhà nước quân chủ quan liêu.
- Về tổ chức quân đội: Quân đội thời Trần cũng bao gồm quân cấm vệ và quân các lộ với nhiều binh chủng (bộ binh, thủy binh, kỵ binh, tượng binh…) giống như thời nhà Lý. Điểm khác hơn chính là lực lượng quân đội riêng của vương hầu, quý tộc và các thủ lĩnh dân tộc thiểu số, khi đất nước bị xâm lăng thì các đạo quân hợp lực cùng nhau đánh giặc.
Về xây dựng lực lượng quân đội, nhà Trần tiếp tục áp dụng chính sách “ngụ binh ư nông” của thời Lý, đồng thời chủ trương “binh cốt tinh không cốt nhiều”. Do đó nhà Trần rất coi trọng việc rèn luyện võ nghệ cho binh sĩ, lập ra “Giảng võ đường” để đào tạo quan võ, tướng lĩnh, chú trọng xây dựng kỷ cương quân đội. Nhờ đó thời nhà Trần có lực lượng quân đội rất hùng mạnh, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ vương triều và đất nước.
- Về kinh tế: Nhà Trần tiếp tục chú trọng phát triển liên hoàn các chính sách về nông nghiệp, bao gồm: sở hữu tư nhân về ruộng đất, tổ chức khai hoang, trị thủy - thủy lợi, bảo vệ sức kéo, ngụ binh ư nông, ban cấp thái ấp, mở rộng mạng lưới giao thông đường bộ, đường thủy. Triều đình đã lập ra Ty Khuyến nông, đặt các chức quan Hà đê chánh phó sứ, hàng năm, mọi người đều có nghĩa vụ lao động tu sửa đê, học sinh Quốc Tử Giám cũng không được miễn trừ.
Nhìn chung, dưới triều Trần, một thế cân bằng ổn định về kinh tế đã được duy trì giữa các yếu tố công hữu và tư hữu, giữa nông nghiệp và nền kinh tế hàng hóa, giữa quyền lực, lợi ích của Nhà nước, (quyền sở hữu ruộng đất Nhà nước, nguồn tô thuế) với các đẳng cấp quý tộc quan liêu (thái ấp điền trang) cũng như của khối bình dân làng xã (ruộng công).
- Về xây dựng pháp luật: Kế thừa nhà Lý, thời Trần cũng tồn tại song song hai hình thức pháp luật: luật thành văn do Nhà nước ban hành và luật tục trong các làng xã. Tuy nhiên nhà Trần rất quan tâm đến việc xây dựng pháp luật của vương triều, biểu hiện qua việc đã cho biên soạn và ban hành nhiều bộ luật như:
- Quốc triều thông chế (1230);
- Quốc triều thường lễ (1230);
- Hoàng triều ngọc điệp (1267);
- Công văn cách thức (1290);
- Hoàng triều đại điển (1341);
- Hình thư (1341). Đây là bộ luật được Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn khảo đính bộ Hình thư thời Lý và trở thành bộ luật cơ bản của vương triều.
Nhìn chung, pháp luật đời Trần bảo vệ nghiêm ngặt chính thể quân chủ và chế độ đẳng cấp. Tội mưu phản Triều đình bị xếp vào hàng đại nghịch và bị trừng trị rất nặng “phải giết hết thân tộc”. Đẳng cấp quý tộc quan liêu được pháp luật ưu đãi, có quyền dùng tiền chuộc tội. Gia nô và nô tì không được quyền tố cáo chủ. Trong gia đình, cấm cha con, vợ chồng và gia nô không được kiện cáo nhau.
 Pháp luật đời Trần cũng đã bảo vệ quyền tư hữu tài sản của người dân. Tội trộm cắp bị trừng trị rất nặng, thích chữ vào mặt, chặt ngón chân, lần thứ ba sẽ bị giết. Những đồ vật lấy trộm một phần sẽ phải đền 9 phần, nếu không đền được bắt vợ con sung làm nô tì.
Trong các làng xã, dân chúng vẫn tuân theo các phong tục cổ truyền, các bô lão giữ vai trò dàn xếp và xét xử.
- Về đối nội: Nhận thấy được những khiếm khuyết của các triều đại trước, nên sau khi thành lập, nhà Trần đã ra sức củng cố bộ máy nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, xây dựng hệ thống bộ máy nhà nước gồm bốn cấp từ trung ương đến địa phương một cách chặt chẽ. Đây là một bước phát triển vượt bậc trong lịch sử và phản ánh cho thấy nhà nước thời này đã đặc biệt quan tâm trực tiếp với tay quản lý đến cấp cơ sở, đưa hương - giáp - xã vào nền nếp, khuôn khổ, vận hành theo qũy đạo chung của quốc gia phong kiến quân chủ trung ương tập quyền. Việc làm này hẳn không ngoài mục đích quản lý có hiệu lực vì lợi ích của đội ngũ cầm quyền đồng thời còn để sát dân, gần dân, động viên huy động toàn dân dựng nước, giữ nước có kết quả. Vai trò của hương, giáp, xã trong kháng chiến chống giặc Tống vào thế kỷ XI và ba lần chống giặc Nguyên Mông vào thế kỷ XIII đã chứng minh rõ điều đó.
- Về đối ngoại: Nhà Trần tiếp tục chính sách của nhà Lý trong việc giữ yên biên cương, bảo toàn lãnh thổ. Tuy có sự việc xảy ra năm 1252, quân Chămpa cướp bóc vùng ven biển phía nam Đại Việt đã bị quân Việt, dưới sự chỉ huy của vua Trần Thái Tông, tiến quân vào đánh bại, nhưng nổi bật lên vẫn là quan hệ hoà hiếu rất tốt đẹp giữa nhà Trần với vương triều Indravarman IV của Chămpa, nhất là trong và sau cuộc phối hợp kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược. Trong quan hệ ngoại giao với Mông Cổ, nhà Trần tỏ thái độ rất kiên quyết tìm mọi cách để giữ vững độc lập, tự chủ, mặc dù vẫn chịu nộp cống cho chúng theo lệ thường từ trước với nhà Tống, làm cho nhà Nguyên phải kính nể. Khi quân Mông - Nguyên xâm lược nước ta, nhà Trần đã lãnh đạo cả nước đứng lên đánh thắng chúng, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền và độc lập của đất nước.
* Vai trò của nhà nước thời Trần:
Giống như nhà nước phong kiến thời Lý, nhà nước thời Trần cũng là một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền phương Đông. Tuy nhiên do áp dụng chế độ “lưỡng đầu”, nên mặc dù trên danh nghĩa thì nhà vua là người đứng đầu đất nước, nhưng quyền hành thực tế lại nằm trong tay Thái thượng hoàng. Các vua Trần tự coi là cha mẹ của dân, thi hành một chính sách thân dân kiểu gia trưởng, kết hợp với tư tưởng nhân từ bác ái của đạo Phật. Thời bình, các vua Trần thường xuyên thăm hỏi việc đắp đê, gặt hái, trong các dịp hội hè đã xuống dự cùng dân chúng. Khi đất nước có họa xâm lăng, Vua – Thái thượng hoàng là người có quyền quyết định trong việc tổ chức và phát động chiến tranh, hoặc xuống chiếu huy động quân đội trong nước. Khi có chiến tranh, vua hoặc các hoàng tử thường trực tiếp “tự làm tướng” cầm quân đi đánh giặc.



2.3. Nhà Lê Sơ.
* Sự ra đời của nhà Lê Sơ:
Năm 1406, lấy cớ nhà Hồ cướp ngôi của nhà Trần, nhà Minh đưa quân sang xâm chiếm nước ta. Chỉ sau sáu tháng, do đường lối chiến lược và chiến thuật sai lầm, cuộc kháng chiến của nhà Hồ đã bị thất bại, từ đó nước ta rơi vào ách đô hộ tàn bạo của phong kiến nhà Minh trong 20 năm (1407-1427).
Tháng 7 năm 1407, vua Minh ra chiếu đổi nước ta thành quận Giao Chỉ, sát nhập vào Trung Quốc, đồng thời, các quan lại nhà Minh còn ráo riết thi hành chính sách ngu dân, đồng hoá dân tộc, triệt để cướp bóc, vơ vét của cải, nhân dân ta bị cưỡng bức đi khai thác vàng, bạc, mò ngọc trai dưới biển, khai thác lâm thổ sản, các hương liệu quý, đi lao dịch, nhiều người còn bị bắt làm nô tỳ, hoặc bị bắt đưa về Trung Quốc, phục dịch bọn quan lại nhà Minh.
Chính sách thống trị tàn bạo của nhà Minh đã vấp phải sự kháng cự của nhân dân ta. Nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra và đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Trải qua 10 năm (1418 – 1427) gian khổ đấu tranh, nghĩa quân Lam Sơn đã đánh đuổi được quân Minh, khôi phục nền độc lập của đất nước, mở ra một triều đại mới đó là triều Hậu Lê mà thời kỳ đầu là Lê Sơ, một thời kỳ đỉnh cao trong lịch sử phát triển Nhà nước và Pháp luật Việt Nam.
* Bộ máy nhà nước:
Nhà nước Lê Sơ thời kỳ này được xây dựng theo thiết chế quân chủ trung ương tập quyền. Quyền lực nhà nước tập trung vào triều đình trung ương, đứng đầu là vua. Vua nắm trong tay mọi quyền lực bao gồm cả kinh tế, chính trị, văn hóa, cả vương quyền và thần quyền. Thời Lê Thánh Tông, chức Tướng quốc (Tể tướng) đầu triều và một số chức danh đại thần khác đã bị bãi bỏ. Hoàng đế trực tiếp điều khiển triều đình. Quyền lực của các quý tộc tôn thất cũng bị hạn chế, không được lập quân vương hầu, phủ đệ, Lê Thánh Tông bỏ lệ ban Quốc tính.
Về phẩm trật trong triều, dưới vua là các quan chức cao cấp dành riêng cho các tôn thất và các đại công thần. Đứng đầu quan lại trong triều là Tả, Hữu tướng quốc (tương đương chức Tể tướng), tiếp đó là các đại thần ban văn gồm Tam thái (sư, phó, bảo), Tam thiếu (sư, phó, bảo), Tam tư (đồ, mã, không). Đại thần ban võ gồm Thái úy, Thiếu úy và Bình chương sự. Đội ngũ quan lại trong triều cũng được chia thành hai ngạch văn và võ. Đứng đầu ngạch văn là chức Đại hành khiển, tiếp là chức Thượng thư đứng đầu các bộ (ban đầu chỉ có hai bộ là bộ lại và bộ lễ. Sau là 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công). Ở các bộ vẫn là các chức quan như: Tham tri, Gián nghị, Thị lang, Lang trung .v.v. Những cơ quan chuyên môn trong triều gồm có các đài, các viện, giám, sảnh như Ngự sử đài, Hàn lâm viện, Quốc tử giám, Nội thị sảnh ... Đứng đầu ngạch quan võ là Đại tổng quản hay Đại đô đốc tổng quản (tổng chỉ huy quân đội). Tiếp đó là các chức võ quan cao cấp như thời Lý, Trần.
Nói tóm lại, qua các triều đại thời Lê sơ, các đời vua đều quan tâm và cố gắng thực hiện là kiện toàn bộ máy nhà nước quân chủ tập trung. Đến thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497), nó đạt tới đỉnh cao, trở thành một nhà nước toàn trị, cực quyền, mang tính quan liêu chuyên chế. Đây là một bước ngoặt lịch sử, một sự chuyển đổi mô hình, từ nền quân chủ quý tộc thời Lý - Trần mang đậm tính Phật giáo màu sắc Đông Nam Á sang một nền quân chủ quan liêu Nho giáo Đông Á.
* Việc điều hành đất nước:
- Về phân chia địa giới hành chính:
Năm 1427, khi còn bao vây quân Minh ở Đông Quan, Lê Lợi đã bước đầu xây dựng hệ thống chính quyền và phân chia các khu vực hành chính trong nước, Vùng Bắc bộ được chia thành 4 đạo Đông, Tây, Nam, Bắc. Dưới các đạo là trấn, châu, huyện.
Sau khi đánh đuổi được quân Minh, nhà Hậu Lê chia cả nước thành 5 đạo gồm 4 đạo cũ ở Bắc bộ và một đạo mới Hải Tây. Dưới đạo là các trấn, lộ rồi đến phủ, huyện, châu và cuối cùng là xã.
Năm 1466, nhà Hậu Lê phân chia lại đơn vị hành chính. Theo đó, cả nước được chia thành 12 đạo, dưới đạo là phủ, châu, huyện, xã. Đến năm 1471, khi lãnh thổ Đại Việt được mở rộng đến Bình Định, nhà nước đã cho đặt thêm đạo thứ 13 là Quảng Nam gồm 4 phủ, 9 huyện. Bộ máy cai quản ở các đạo tăng từ 2 ty lên thành 3 ty nhằm phân chia quyền hạn giữa các lĩnh vực binh, chính, hình nhằm thu hẹp, hạn chế bớt quyền hạn của quan lại ở địa phương, ngăn chặn khuynh hướng phân tán, cát cứ.
- Về sử dụng, tuyển chọn quan lại:
+ Trong vấn đề sử dụng quan lại, nhà nước thời Lê Sơ rất coi trọng việc đánh giá đúng nỗ lực và phẩm chất của từng quan lại. Cứ 3 năm một lần, nhà nước tổ chức sơ khảo; sau 3 lần sơ khảo thì tiến hành chung khảo. Kết quả các kỳ thi sơ khảo, chung khảo là cơ sở để thăng hoặc giáng chức, thuyên chuyển quan lại. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông ra chiếu dụ “Hiệu định quan chế” quy định rõ ràng công việc và trách nhiệm của các chức quan từ trung ương cho đến địa phương, cấp xã quan cũng phải đạt tiêu chuẩn là hạng giám sinh, tư đồ hay “lương gia tử đệ”, trên 30 tuổi, phải biết chữ và có hạnh kiểm tốt. Quan lại được hưởng đặc quyền, đặc lợi so nhà nước quy định, đồng thời còn có quy định riêng về trang phục, nhà cửa cho các hạng quan mà dân không được áp dụng.
+ Trong tuyển chọn quan lại, thời Lê Sơ nói chung và đặc biệt là thời vua Lê Thánh Tông, việc tuyển chọn quan lại được thực hiện chủ yếu thông qua con đường thi cử. Từ năm 1442, nhà nước đã quy định về việc thi tiến sĩ và chủ trương khắc tên những người thi đậu tiến sĩ vào bia đá đặt tại Quốc tử giám. Đến đời vua Lê Thánh Tông, chế độ giáo dục và khoa cử theo Nho giáo đã phát triển tới mức cực thịnh với ba kỳ thi Hương, Hội, Đình, mở rộng đối tượng dự thi (trừ người phạm tội và người ca hát). Ngoài những kỳ thi trên, nhà nước còn tổ chức những kỳ thi chọn nhân viên với môn thi viết chữ và làm tính. Với cách thức tuyển chọn như vậy, nhà nước Lê Sơ đã thực sự mang tính chất nhà nước quân chủ quan liêu, lấy Nho giáo làm nền tảng tư tưởng . Ngoài ra, nhà nước Lê Sơ còn có các công thức tuyển chọn quan lại khác như: Bảo cử (đề cử người có nỗ lực lên bộ lại để tâu vua xin bổ dụng), nhiệm tử (sử dụng con cháu quan lại có công).
- Về tổ chức quân đội: Quân đội thời Lê Sơ gồm thân binh (quân trong thành) và ngoại binh (quân ở các địa phương). Quân các đạo ở địa phương được chia thành vệ, ty, đội và tiếp tục thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông” như thời Lý – Trần. Thời vua Lê Thánh Tông, nhà vua trực tiếp chỉ huy quân đội và quy định chế độ tuyển binh rất chặt chẽ.
Việc luyện tập quân đội được quy chế hóa theo từng bình chủng và khảo hạch quân sĩ theo thời hạn 3 năm một lần. Nhờ sự luyện tập và kỷ luật chặt chẽ nên quân đội thời Lê Sơ rất mạnh, là công cụ bảo vệ vững chắc biên cương và mở rộng lãnh thổ.
- Về kinh tế: Nhà nước Lê sơ là một Nhà nước trọng nông, đã đề ra nhiều biện pháp để khuyến khích và phát triển nông nghiệp.Việc chăm sóc, đào đắp kênh đê rất được chú trọng. đặt ra các chức quan Khuyến nông và Hà đê. Khi khẩn cấp đã huy động cả học sinh Quốc Tử Giám trong việc hộ đê. Để bảo đảm sản xuất, các vua Lê đã cho thi hành chính sách “ngụ binh ư nông”, cho quân đội thay phiên về làm ruộng, theo tinh thần “tĩnh vi nông. động vi binh”. Luật pháp nghiêm cấm việc giết trâu, bò sống để bảo vệ sức kéo. Khi huy động công việc lao dịch, các quan sở tại phải tránh thời vụ, để không làm kinh động sức dân.
Hoạt động thương nghiệp chủ yếu ở thời Lê sơ là nền buôn bán nhỏ thông qua mạng lưới chợ ở nông thôn và thành thị. Nhà Lê đã ban hành lệ lập chợ, khẳng định “trong dân gian hễ có dân là có chợ, để lưu thông hàng hoá”. Đối với thủ công nghiệp thì nhà nước Lê sơ một mặt dung dưỡng nền sản xuất nhỏ thủ công nghiệp trong các làng xã, mặt khác đẩy manh hoạt động của các quan xưởng thuộc thủ công nghiệp Nhà nước. Ở nông thôn, đã xuất hiện nhiều làng chuyên nghề như Bát Tràng (gốm sứ), Huê Cầu (nhuộm thâm). Riêng việc buôn bán với nước ngoài, Nhà nước đã kiểm soát nghiêm ngặt các cáng khẩu, như Vân Đồn, Vạn Ninh, (Quảng Ninh), Càn Hải, Hội Thống (Nghệ An), cấm dân chúng tự tiện buôn bán trao đổi hàng hóa với các tàu buôn ngoại quốc, thi hành chính sách “bế quan toả cảng”.
- Về xây dựng pháp luật: Các hoạt động lập pháp thời Lê Sơ được đẩy mạnh để đáp ứng các yêu cầu mọi mặt của xã hội Đại Việt thời kỳ này. Quá trình xây dựng hệ thống pháp luật được bắt đầu từ thời vua Lê Thái Tổ với các quy định về ruộng đất, kiện tụng và hình phạt. Đời vua Lê Thái Tông nêu ra nguyên tắc xét xử các vụ kiện. Đời vùa Lê Nhân tông đưa ra quy định công nhận và bảo vệ ruộng đất tư, đỉnh cao là đời vua Lê Thánh Tông với nhiều bộ luật ban hành, trong đó có bộ luật cơ bản của nhà nước thời Lê Sơ là “Quốc triều hình luật” hay còn gọi là “Lê triều hình luật”, “Luật Hồng Đức”. Đánh giá về bộ luật này, trong “Lịch triều hiến chưng loại chí” nhà sử học Phan Huy Chú cho rằng nó là: “cái mẫu mực để trị nước, cái khuôn phép để buộc dân”. Ngoài bộ luật cơ bản trên, nhà nước thời Lê Sơ còn ban hành nhiều bộ luật khác như:
+ Lê triều quan chế (1471);
+ Thiên nam dư hạ tập (1483);
+ Hồng Đức thiện chính thư (1470 - 1497);
Tóm lại, hệ thống pháp luật thời Lê Sơ mà tiêu biểu là Luật Hồng Đức được thiết lập nhằm mục tiêu bảo vệ quyền thống trị của nhà nước phong kiến tập quyền (trừng phạt nặng những tội làm tổn hại tới vua và triều đình). Bên cạnh việc củng cố trật tự xã hội thì các điều luật đều nhắm đến việc bảo vệ chế độ tư hữu; lợi ích của giai cấp địa chủ, phong kiến và tầng lớp quý tộc quan liêu, đồng thời bảo vệ chế độ gia tộc phụ quyền và đạo đức phong kiến. Mặc dù có mô phỏng luật Trung Quốc, nhưng nhiều điều khoản đã lưu ý đến những tập quán cổ truyền mang tính đặc hữu dân tộc. Điểm tiến bộ của pháp luật thời kỳ này là thể hiện được tính dân chủ, bảo vệ cuộc sống của dân tự do, chống nô tì hóa, chống sự hà hiếp của cường hào, quan lại đối với nhân dân. Tôn trọng quyền lợi phụ nữ trong việc thừa kế gia tài và xét xử ly hôn, được coi là tiến bộ hơn so với luật Trung Quốc đương thời. Có thể nói, bộ Quốc triều hình luật là một công trình lập pháp có vị trí, vai trò rất lớn  trong lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam. Nó là sản phẩm của thời đại chế độ phong kiến đang lên, góp phần đưa quốc gia Đại Việt phát triển đến đỉnh cao.
- Về đối nội: Các vua thời Lê sơ rất chú trọng đến việc trị nước bằng các chế định pháp luật; độc tôn Nho giáo và Nho học; đẩy mạnh phát triển nông nghiệp kết hợp tăng cường rèn luyện quân đội; mở mang giáo dục, khoa cử và chấn chỉnh kỷ cương triều chính… từng bước đưa nước Đại Việt từ một nước bị nô lệ của nhà Minh trở thành một quốc gia độc lập và có vị thế trong khu vực.
- Về đối ngoại: Với lòng tự hào dân tộc, các vua thời Lê sơ đã không ngừng củng cố, phát triển quốc gia dân tộc thống nhất. Lê Thánh Tông nói: “Quyết không để một tấc đất, một thước sông của Thái Tổ lọt vào tay kẻ khác”. Các vua Lê đã thi hành một chính sách hòa hoãn nhưng kiên quyết với nhà Minh trong vấn đề biên giới, phát triển lãnh thổ về phía tây và phía nam. Năm 1471, Lê Thánh Tông cất quân đánh Cham pa, chiếm thành Đồ Bàn (Bình Định), lấy vùng đất mới lập thành thừa tuyên Quảng Nam. Các nước trong khu vực (như Xiêm La, Miến Điện) đều đến triều cống.
* Vai trò của nhà nước thời Lê Sơ:
Trong thiết chế quân chủ tuyệt đối thời Lê sơ, vai trò của nhà vua đã được đẩy lên rất cao với chủ nghĩa “tôn quân”. Nhà nước quân chủ tập trung thời Lê sơ là một nhà nước mạnh và ổn định. Bên cạnh vai trò nhà vua chỉ huy, thống lĩnh quân đội cùng với bộ máy quan lại thực thi chính sách và pháp luật của triều đình được kế thừa và phát huy từ thời Lý – Trần, nhà nước thời Lê Sơ còn đề cao vai trò chỉ đạo và sự can thiệp của mình vào đời sống kinh tế - xã hội, duy trì sự cân bằng giữa những yếu tố nhà nước và dân gian, công hữu và tư hữu; can thiệp và bảo hộ chính sách trọng nông, thu tô; khuyến khích phát triển nền kinh tế tiểu nông - sản xuất nhỏ làng xã, đồng thời hạn chế giao thương với nước ngoài.

3.2.3. Hoàn chỉnh pháp luật và bộ Lê triều hình luật
Năm 1483, sau khi lên ngôi vua, Lê Thánh Tông cho tập hợp những điều lệ đã ban trong các đời vua Lê trước, tham khảo pháp luật thờI Lý - Trần, căn cứ vào tình hình của đất nước mà soạn ra bộ luật mới. Đó là bộ Lê triều hình luật, còn gọi là bộ luật Hồng Đức. Bộ luật này kể cả những điều luật được bổ sung thêm ở thời Lê mạt, gồm 722 điều luật, chia làm 6 quyển, 16 chương.
Nội dung cơ bản của bộ luật nhằm khẳng định và củng cố sự thắng lợi của giai cấp địa chủ, trấn áp mọi hành động chống đối nhà nước phong kiến, xâm phạm đến lợi ích của giai cấp thống trị. Gồm mấy đặc điểm sau:
- Bảo vệ quyền thống trị của nhà nước quân chủ quan liêu. Cả một chương của bộ luật dành cho luật cấm vệ gồm 47 điều, nhằm bảo đảm an toàn hoàng cung và bản thân nhà vua. Những hành vi ra vào hoàng cung trái với thể lệ đều bị trừng trị nặng. Tội mưu phản, mưu đại nghịch, mưu chống lại nhà nước, nhà vua đều bị tử hình, bất cứ ai cũng không được hưởng chế độ bát nghị, không được chuộc tội bằng tiền, không được miễn giảm khi triều đình ân xá.
- Bảo vệ quyền lợi của giai cấp địa chủ phong kiến. Nhà nước có những quy định được ghi vào luật pháp nhằm giành cho tầng lớp quý tộc quan liêu nhiều đặc quyền, đặc lợi. Những đại quý tộc và quan lại cao cấp nếu phạm tội (trừ tội thập ác) thì được ân giảm hay tha bổng theo lệ “bát nghị”. Bảo vệ quyền lợi của nhà nước và của giai cấp thống trị còn được thể hiện trong nhiều điều luật của bộ luật Hồng Đức, nghiêm cấm và trừng phạt nặng những hành vi xâm lấn, chiếm đoạt ruộng đất công, quy định quyền sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, quy định những nguyên tắc mua bán, cầm cố, kế thừa ruộng đất. Có những điều khoản đã trở thành cơ sở pháp lý cho việc chiếm đoạt ruộng đất của giai cấp địa chủ.
- Củng cố trật tự xã hội phong kiến, bảo vệ chế độ gia tộc phụ quyền và các chuẩn mực đạo đức phong kiến theo tinh thần Nho giáo. Cơ sở xã hội nhà nước phong kiến thời Lê sơ là chế độ gia tộc phụ quyền.
Tầng lớp quý tộc quan liêu là đẳng cấp cao nhất trong xã hội, có nhiều đặc quyền, đặc lợi về nhiều phương diện. Có những điều luật quy định nghiêm ngặt về áo quần, ăn mặc, nhà cửa, đồ dùng chỉ dành cho tầng lớp quý tộc quan liêu, dân thường không được dùng. Tầng lớp nô tỳ bị coi là thấp kém nhất trong xã hội, không được coi là thần dân của nhà nước. Đối với phụ nữ, bộ luật Hồng Đức có những điều luật khắt khe hơn đối với nam giới. Tuy nhiên, trong một số điều luật, người phụ nữ thời Lê sơ được pháp luật bảo vệ quyền lợi kinh tế. Con gái được hưởng quyền chia gia tài bình đẳng như con trai, trong trường hợp gia đình không có con trai thì con gái trưởng được quyền thừa kế hương hỏa. Khi phân chia tài sản gia đình do ly hôn, người vợ được lấy lại số tài sản riêng do bố mẹ cho làm của hồi môn và chia tài sản thành hai phần bằng nhau cho hai người. Về mặt hôn nhân, người con gái đã đính hôn nhưng chưa làm lễ thành hôn mà người con trai bổng mắc bệnh không thể chữa, hoặc phạm tội, hoặc phá tài sản thì người con gái được phép xin từ hôn và trả lại sính lễ. Những quy định nói trên nhằm bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ đã thể hiện được tính thực tiễn, tính dân tộc và tiến bộ của luật pháp bấy giờ.
Bộ luật Hồng Đức là bộ luật hoàn chỉnh nhất của nhà nước phong kiến việt Nam. Về cơ bản, bộ luật này là bộ luật hình như tên gọi của nó – Lê triều hình luật, nhưng thực chất, đây là một bộ luật tổng hợp nhiều mặt luật pháp (luật hình, luật hành chính, luật dân sự, luật tố tụng, luật hôn nhân và gia đình…). Bộ luật biểu hiện rõ nét tính chất giai cấp và quyền lực của nhà nước phong kiến đối với nhân dân, nhưng đây cũng là bộ luật tương đối tiến bộ nhất trong thời đại phong kiến Việt Nam, mang đậm nét sáng tạo và tinh thần thực tiễn của giai cấp phong kiến Việt Nam trong giai đoạn đi lên của nó. Giáo sư Oliverôldman, chủ nhiệm khoa Luật Đông Á (Đại học Luật Haward), nhận xét: “Bộ luật thời Lê của nước Việt Nam truyền thống là một công trình bất hủ của vùng Đại Đông Á truyền thống. Nếu ngày mai chúng ta được chứng kiến ở Trung Hoa một cuộc đấu tranh nhằm từ bỏ sự vô tổ chức sau cách mạng văn hóa và đi tới soạn thảo luật pháp nhằm hiện đại hóa đất nước, thì chúng ta cũng thấy triều đại nhà Lê ở Việt Nam vào những thế kỷ đặc biệt của mình đã nổ lực xây dựng một quốc gia dân tộc vững mạnh như thế nào để bảo vệ quyền tư hữu hợp pháp của con người thông qua hệ thống pháp luật tiến bộ, trong đó có nhiều điều đã có thể sánh ngang về mặt chức năng với những quan điểm pháp luật ở phương Tây cận đại”. [2, tr.102]. 
Trong làng xã Việt Nam truyền thống, nhân dân ta thường coi lệ làng cũng quan trọng không kém phép nước. Thời Lê sơ cũng vậy, ngoài luật nước, các làng xã cũng xây dựng và sửa đổi khoán ước, hương ước của làng mình cho phù hợp với điều kiện mới. Việc xét xử theo lệ làng cũng nghiêm ngặt không kém luật nước. Người dân ở các làng xã vẫn mong muốn qua lệ làng, khoán ước, hương ước để thể hiện và bảo vệ quyền tự trị của mình có khi khác với luật pháp của nhà nước. Chính vì thế, Lê Thánh Tông buộc phải chấp nhận cho các làng xã lập “khoán ước và cấm lệ”, nhưng lại ban hành những quy định của nhà nước về việc lập “lệ làng”, chỉ ở “những làng, xã nào có những tục lệ khác lạ” và “quan lại cấp trên duyệt nếu cần thì bác bỏ”, nhằm không cho phép các “lệ làng” làm trái với luật pháp của nhà nước. Nhà Lê muốn thống nhất giữa lệ làng với phép nước, lấy luật pháp nhà nước để trị tội những người không chịu theo tục lệ của làng khi tục lệ đó đã được nhà nước chuẩn y. Luật pháp của nhà nước Lê sơ đã hạn chế và thu hẹp quyền tự trị của các làng, xã rất rõ nét, tăng cường sự lệ thuộc của các làng, xã với nhà nước trung ương, củng cố chế độ quân chủ quan liêu.
3.2.4. Cải cách kinh tế, phát triển nông nghiệp
3.2.4.1. Chế độ lộc điền
Khác hẳn với các triều Lý, Trần, nhà Lê thực hiện chính sách lộc điền, đem ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước ban cấp cho tầng lớp quan lại cao cấp. Chế độ lộc điền được thi hành ngay từ những triều vua đầu tiên của nhà Lê, nhưng chưa  trở  thành quy chế. Đến  thời  vua  Lê Thánh Tông mới được quy định và ban hành thống nhất trong cả nước (1477). Ruộng đất dùng để ban cấp chủ yếu là loại ruộng đất công làng xã. Lộc điền gồm hai loại: một loại cấp vĩnh viễn gọi là ruộng đất thế nghiệp, một loại cấp tạm thời trong một đời, sau khi chết 3 năm thì phải hoàn lại cho nhà nước. Chế độ lộc điền là hình thức ban cấp ruộng đất quy mô của nhà Lê nhằm ưu đãi tầng lớp quý tộc, quan lại cao cấp, biến họ trở thành những địa chủ lớn. Chế độ lộc điền đã góp phần củng cố và phát triển chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất cũng như góp phần xác lập quan hệ sản xuất địa chủ, tá điền và chế độ bóc lột địa tô phù hợp với bước phát triển mới của chế độ sở hữu tư nhân lớn về ruộng đất và của những quan hệ sản xuất phong kiến. Cùng với chính sách quân điền, chính sách lộc điền đã tiến một bước mạnh mẽ vào chế độ chiếm hữu ruộng đất công của làng xã, khẳng định tính chất phong kiến của chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất. Chế độ lộc điền có tác dụng củng cố bộ máy quan liêu, củng cố cơ sở xã hội của nhà nước phong kiến (giai cấp địa chủ), đánh dấu một bước tiến trong quá trình hình thành và xác lập chế độ phong kiến Việt Nam.
3.2.4.2. Chính sách quân điền
Cũng như chính sách lộc điền, chính sách quân điền đã được thực hiện ngay từ những triều vua trước. Đến đời vua Lê Thái Tông, từ năm 1477, chính sách quân điền mới được chính thức ban hành và từ năm 1481, được thực hiện thống nhất trên quy mô cả nước theo nguyên tắc sau:
Tất cả mọi người từ quan tam phẩm đến cô nhi quả phụ đều được chia ruộng công. Những gia đình nông dân thường đã có ruộng đất riêng đầy đủ, không được cấp.
Ruộng xã nào chia cho dân xã ấy, xã nào ruộng quá nhiều, người ít thì cho phép lấy bớt ruộng xã nhiều chia cho xã bên cạnh ruộng ít, người nhiều. Dân trong xã tùy theo thứ hạng được cấp phần ruộng đất khác nhau. Quan hàm tam phẩm được 11 phần, ngũ phẩm được 9,5 phần… Cô nhi, quả phụ được 3 phần.
Ruộng công làng xã cứ 6 năm chia lại một lần. Mọi người cày cấy ruộng công đều phải nộp tô cho nhà nước. Riêng quan lại từ tứ phẩm trở lên do lộc điền ít nên không phải nộp tô.
Chính sách quân điền thời Hồng Đức là một đòn tấn công mạnh mẽ nhằm phủ định quyền chi phối ruộng đất công của làng xã theo tục lệ, buộc làng xã phải tuân thủ những nguyên tắc quy định về phân chia và hưởng thụ bộ phận ruộng đất công – là bộ phận ruộng đất quan trọng nhất, lớn nhất của nhà nước, làng xã lệ thuộc chặt chẽ vào nhà nước, trên nguyên tắc, ruộng đất công làng xã không được đem mua bán, chuyển nhượng, quyền đó thuộc nhà nước trung ương, nhà vua. Nhà nước trung ương, nhà vua với chính sách quân điền đã trở thành người chủ lớn nhất trong cả nước và nông dân làng xã trở thành tá điền của nhà nước, làng xã rơi xuống địa vị là người quản lý ruộng đất cho nhà nước trung ương, nhà vua. Chính sách quân điền góp phần quan trọng vào sự xác lập và hệ thống của những quan hệ sản xuất phong kiến: quan hệ sản xuất địa chủ - tá điền trong xã hội ở thế kỷ XV.
Chính sách này còn có tác dụng giải quyết vấn đề ruộng đất trong nông nghiệp, tạo điều kiện củng cố nền kinh tế tiểu nông, thúc đẩy sản xuất, phục hồi và phát triển kinh tế nông nghiệp trong cả nước. Tuy nhiên, chính sách quân điền của Lê Thánh Tông chứa đựng sâu sắc tính chất giai cấp và còn bộc lộ những mặt tiêu cực và hạn chế, chứa đựng những mâu thuẫn nan giải, đã trói buộc người nông dân vào ruộng đất để bóc lột tô thuế và chịu mọi gánh nặng sưu dịch của nhà nước trong lúc sự củng cố nền kinh tế tiểu nông lại tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của sản xuất hàng hóa, trong tình hình sự phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất đã thắng thế trong xã hội.
3.2.4.3. Chính sách khẩn hoang và đồn điền
Xuất phát từ yêu cầu nhanh chóng phục hồi nền kinh tế nông nghiệp sau một thời gian dài chiến tranh, nhà nước Lê sơ ngay từ rất sớm, đã có những chính sách khuyến khích nhân dân các làng xã khai hoang lập làng, đặc biệt dưới thời Lê Thánh Tông. Nhiều chỉ dụ của nhà vua được ban hành nhằm đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang, lập làng và hợp pháp hóa việc khai hoang, lập làng trong nhân dân, góp phần giải quyết tình hình lưu vong trong xã hội. Nhờ những biện pháp tích cực, cho đến nửa sau thế kỷ XV, diện tích ruộng đất hoang hóa đã được khôi phục, tăng thêm diện tích sản xuất, tăng thêm nguồn thu nhập của nhà nước; bộ phận nông dân tư hữu, tự do tăng lên, điều hòa mâu thuẫn giai cấp, ổn định xã hội, nền kinh tế nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi và có bước phát triển.
Song song với chính sách khai hoang, lập làng, Lê Thánh Tông còn đẩy mạnh việc khai hoang lập đồn điền. Chính sách này bắt đầu được thi hành từ thời Thái Tổ và được mở rộng dưới thời Thánh Tông. Chỉ dụ năm 1481 nêu rõ mục đích lập đồn điền của nhà nước “để khai thác hết sức nông nghiệp, mở rộng nguồn súc tích cho nước”. Nhiều sở đồn điền được thành lập chuyên lo việc mộ dân lưu vong khẩn hoang. Lực lượng được huy động ở hình thức khai hoang này bao gồm cả quân lính đồn trú, tù binh, tội nhân. Nhà nước đặt ra cơ quan chuyên trách công việc khai hoang, lập đồn điền do các chức quan chánh, phó sứ đồn điền phụ trách.
Chính sách đồn điền của Lê Thánh Tông có tác dụng tích cực, thiết thực trong việc mở rộng diện tích sản xuất, phát triển kinh tế nông nghiệp.
Như vậy, khoảng từ năm 1471, thông qua cải cách, Lê Thánh Tông đã tạo được hệ thống hành chính thống nhất trong phạm vi cả nước. Hệ thống khá gọn gàng với chức trách phân minh, bảo đảm sự chỉ đạo và tập trung quyền lực của trung ương. Đây là mô hình tiên tiến nhất của chế độ quân chủ phong kiến đương thời, trong đó, trung ương và địa phương gắn liền nhau, quyền lực được bảo đảm từ trên xuống dưới. Lê Thánh Tông là một vị hoàng đế lớn của một vương triều mạnh, có nhiều đóng góp trong lịch sử dân tộc...



LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

GIẢI ĐỀ CƯƠNG MÔN
LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Câu 1: Điều kiện ra đời và bộ máy nhà nước của nhà nước Văn Lang.
Trả lời:
Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, dựa theo sách “Lĩnh Nam chích quái” và một bộ sử khuyết danh thời Trần “Việt sử lược” cùng với những kết quả nghiên cứu ngày nay, thời điểm hình thành nhà nước Văn Lang vào khoảng nửa đầu thiên niên kỷ thứ nhất Tr.CN, tương ứng với giai đoạn xuất hiện của văn hóa Đông Sơn, cách đây gần 3.000 năm.
Bắt nguồn từ giai đoạn Phùng Nguyên và đặc biệt ở giai đoạn Đông Sơn, xã hội Việt Nam đã có sự chuyển biến các mặt:
* Về kinh tế, với vị trí chủ đạo là nền nông nghiệp trồng lúa, ban đầu người Việt chỉ sử dụng công cụ lao động bằng đá nên năng suất thấp. Đến thời văn hóa Phùng Nguyên thì bước vào thời đại kim khí và phát triển nhảy vọt vào thời văn hóa Đông Sơn. Sự xuất hiện của nhiều loại công cụ lao động kim khí, đặc biệt là lưỡi cày bằng sắt đã giúp năng suất nông nghiệp tăng vượt bậc. Đồng thời với đó, các ngành nghề thủ công, chăn nuôi, đánh bắt … tiếp tục phát triển đã có sự tác động sâu sắc và chuyển biến cơ bản về mọi mặt của nền kinh tế.
* Về xã hội, chế độ phụ hệ thay thế cho chế độ mẫu hệ; xuất hiện “gia đình nhỏ” và chế độ tư hữu ra đời. Công xã nông thôn thay thế cho công xã thị tộc, ngoài quan hệ huyết thống còn có quan hệ láng giềng, cộng với chế độ tư hữu đã làm phá vỡ tính công bằng xã hội, phân hóa xã hội thành 3 tầng lớp: quý tộc; nông dân công xã nông thônnô tì mà thực chất đó là những “nô lệ gia đình”.
Sự phân hóa xã hội như vậy tất yếu sẽ dẫn đến mâu thuẫn, xung đột trong xã hội, mặc dù sự đối kháng chưa đến mức gay gắt, không thể điều hòa, nhưng đó là một trong những cơ sở quan trọng, thúc đẩy sự ra đời của các cơ quan quyền lực công cộng để quản lý xã hội, giải quyết các mâu thuẫn xung đột trong xã hội. Cơ quan quyền lực đó chính là nhà nước.
* Về các nhân tố khác tác động đến sự ra đời của nhà nước Văn Lang:
Một là, do điều kiện thiên nhiên của nước ta vừa thuận lợi vừa có những khó khăn, khắc nghiệt đối với nông nghiệp. Vì vậy người Việt phải đoàn kết, tập hợp lại dưới sự chỉ đạo của một cơ quan quyền lực công cộng để xây dựng các công trình thủy lợi như đắp đê, đào kênh mương vừa chống lũ vừa phục vụ tưới tiêu cho nông nghiệp.
Hai là, với địa thế của một nước đầu mối giao thông và giao lưu kinh tế, văn hóa nên yêu cầu tự vệ, chống ngoại xâm sớm được đặt ra một cách bức thiết. Điều này đã được ghi nhận khá nhiều trong các truyền thuyết dân gian mà tiêu biểu nhất là chuyện Thánh Gióng phá giặc Ân vào đời vua Hùng Vương thứ 6.
Tóm lại, yêu cầu tự vệ chống ngoại xâm cùng với yêu cầu thủy lợi có tác động rất quan trọng vào quá trình hình thành nhà nước đầu tiên trên lịch sử nước ta; Do vậy nhà nước đầu tiên (Văn Lang) ra đời có phần sớm hơn điều kiện chín muồi của sự phát triển kinh tế và phân hóa xã hội.
Khi nhà nước Văn Lang ra đời, tổ chức bộ máy đã được hình thành với vị trí cao nhất thuộc về Hùng Vương – người có vai trò như vị thủ lĩnh, được 14 bộ lạc còn lại tôn lên đứng đầu đất nước, thực chất là thủ lĩnh của liên minh bộ lạc. Hùng Vương nắm quyền cao nhất cả về chính trị và quân sự, đồng thời còn là người chủ trì các nghi lễ tôn giáo lớn nhất. Các vua Hùng thế tập, truyền ngôi được 18 đời.
Dưới vua Hùng Vương, những người giúp việc thân cận nhất cho vua Hùng là các Lạc hầu, đó có thể là tướng văn hoặc tướng võ, có quyền thay mặt vua Hùng giải quyết các công việc triều chính. Ở địa phương, nước Văn Lang được chia thành 15 bộ do các Lạc tướng đứng đầu, đây cũng chính là 15 bộ lạc đã liên kết với nhau để lập nên nước Văn Lang. Lạc tướng cũng có quyền thế tập cha truyền con nối giữ chức vụ này, do vậy Lạc tướng còn được gọi là Phụ đạo.
 Ở cơ sở, bộ máy chính quyền là các “kẻ”, “chạ”, “chiềng”. Thực chất đây là các công xã nông thôn do Bồ chính, một chức vụ đứng đầu chính quyền cơ sở được dân làng lựa chọn, đồng thời cử một số người cao tuổi, có uy tín trong làng lập nên hội đồng công xã, cùng với Bồ chính quản lý, điều hành các hoạt động của địa phương. Mỗi làng có một ngôi nhà công cộng làm nơi hội họp và là trung tâm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của cả làng.
Như vậy, bộ máy nhà nước Văn Lang còn đơn giản, mang nhiều dấu ấn của chế độ công xã nguyên thủy. Đó là một hình thức nhà nước sơ khai của thời dựng nước.
*
--------------------*     ---------     *--------------------

Câu 2: Sự ra đời, bộ máy nhà nước, việc điều hành đất nước và vai trò nhà nước của các triều đại nhà Lý, Trần, Lê Sơ và Nguyễn.
Trả lời
2.1. Nhà Lý.
* Sự ra đời của nhà Lý:
Năm 1005, Lê Hoàn mất, các con của ông chém giết nhau để tranh giành ngôi báu. Đến cuối thời vua Lê Ngọa triều (Lê Long Đĩnh), tình hình chính trị ngày càng thối nát, nhân dân oán giận. Năm 1009, Lê Long Đĩnh chết khi mới 23 tuổi và các con đều còn nhỏ. Triều thần chán ghét nhà Tiền Lê, vì vậy, các sư tăng và đại thần, đại diện là Đào Cam Mộc đã tôn Điện tiền chỉ huy sứ tên là Lý Công Uẩn (sinh năm 974) lên làm vua, mở đầu cho Vương triều nhà Lý (l009 - 1225), đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của đất nước, giai đoạn kỷ nguyên Đại Việt.
* Bộ máy nhà nước:
Nhà Lý xây dựng bộ máy của mình từ trung ương đến địa phương theo thiết chế nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, quyền hành tập trung vào tay triều đình, đứng đầu là vua (hoàng đế). Vua nắm toàn quyền về lập pháp, hành pháp, tư pháp và thần quyền, là người chủ trì các nghi lễ lớn của đất nước và được phong thần Thành hoàng.
Về xây dựng các đơn vị hành chính, nhà Lý đã có những thay đổi, bổ sung quan trọng so với trước. Cả nước được chia thành 24 lộ, dưới lộ có phủ, châu; ở cơ sở là hương, giáp, thôn và tiếp tục duy trì đơn vị đạo ở một số vùng miền núi.
Về bộ máy quan lại, phẩm trật các quan văn, võ thời Lý có 9 bậc, chia làm hai ngạch văn và võ. Đứng đầu ngạch văn là sáu quan đại thần (gồm tam thái và tam thiếu). Dưới hơn, đứng đầu các bộ là chức quan thượng thư và dưới nữa là các chức tả hữu tham tri, tả hữu gián nghi, trung thư thị lang, bộ thị lang … Đứng đầu ngạch võ là các chức quan đại thần như thái úy, thiếu úy; dưới hơn là các võ quan cao cấp như đô thống, nguyên súy, tổng quản, khu mật sứ, kim ngô, đại tướng, đô tướng…
Quan lại ở địa phương cũng được chia thành hai loại quan văn và quan võ. Đứng đầu các lộ, trại là thông phán, trại chủ; ở phủ, châu thì có chức tri phủ, tri châu và ở cơ sở là đội ngũ xã quan phụ trách các hương, xã, thôn.
Nhìn chung, bộ máy quan lại nhà Lý có nhiều điểm mô phỏng theo quan chế nhà Tống, nhưng có sự giản lược hơn, rõ nét nhất là dưới thời vua Lý Nhân Tông.
* Việc điều hành đất nước:
- Về phân chia địa giới hành chính: Cơ bản là kế thừa thời Tiền Lê và trước đó là của chính quyền họ Khúc, tuy nhiên chưa có sự quy định thống nhất thể hiện ở nhiều tên gọi giữa các cấp lộ, trấn và phủ, huyện, châu…
- Về sử dụng, tuyển chọn quan lại: Nhà Lý sử dụng người thân và các công thần nắm giữ các chức vụ trọng trách trong triều. Việc tuyển chọn quan lại thì kết hợp chế độ “nhiệm tử” và “bảo cử” vẫn được áp dụng theo truyền thống từ trước. Nếu như chế độ “bảo cử” dựa vào tiêu chuẩn tuổi tác, tài năng và đức độ, thì chế độ “nhiệm tử” phải là con cái quan lại, chủ yếu ở hàng ngũ tông thất, công thần. Từ 1075 đến hàng thế kỷ tiếp theo, “khoa cử” tuy đã xuất hiện, nhưng chưa đủ khả năng và cũng không dễ thay thế hoàn toàn chế độ bảo cử và nhiệm tử đã thành phương thức tuyển chọn quan lại truyền thống.
- Về tổ chức quân đội: Nhà Lý thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông”, thời bình họ không phải tập trung, chỉ tham gia sản xuất ở hương ấp hoặc các điền trang, thái ấp của vương hầu, khi có chiến tranh thì cho gọi ra lệ thuộc vào các tướng. Đây là một biện pháp quan trọng nhằm duy trì và phát triển một nền nông nghiệp vững mạnh, vừa không phải trích ra một lượng lớn lương thực nuôi quân, vừa lại không mất đi một lượng lao động chính do phải sung các tráng đinh vào quân ngũ trong thời bình, nhưng cũng vừa bảo đảm nguồn quân lính khi cần thiết.
- Về kinh tế: Nhà Lý chú trọng phát triển liên hoàn trong chủ trương chính sách về nông nghiệp, bao gồm: sở hữu tư nhân về ruộng đất, tổ chức khai hoang, trị thủy - thủy lợi, bảo vệ sức kéo, ngụ binh ư nông, ban cấp thái ấp, mở rộng mạng lưới giao thông đường bộ, đường thủy. Những chủ trương chính sách trên không ngoài mục đích mở mang nông nghiệp, làm cho dân giàu nước mạnh, bảo đảm “thực túc binh cường” với tinh thần cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu giữ nước.
- Về xây dựng pháp luật: Từ trị nước theo luật tục do người đứng đầu nhà nước Đinh, Tiền Lê điều hành vận dụng, đến thời nhà Lý đã đánh dấu một bước tiến mới trên con đường pháp trị. Năm 1042, đời Lý Thái Tông đã ban hành bộ “Hình thư” - bộ sách luật mở đầu của thời này, nổi lên mấy điểm cốt yếu:
1. Khắc phục tình trạng phiền nhiễu, khắc nghiệt, oan uổng do người chịu trách nhiệm cầm cân công Lý đã gây nên cho dân.
2. Giữ phép nước trên tinh thần nhân ái, yêu thương con người.
3. Phổ biến rộng rãi cho dân dễ hiểu, tạo điều kiện thuận tiện cho dân tuân theo pháp luật.
- Về đối nội: Thực hiện chính sách “thân dân”, “khoan thư sức dân” nhằm động viên nhân dân tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước khi hòa bình và đánh giặc lúc có chiến tranh.
- Về đối ngoại: Nhà Lý thực hiện chính sách đối ngoại mềm dẻo; ở phía bắc thì chủ động cử sứ giả sang Tống, hằng năm vẫn triều cống và chấp nhận là phiên thần nhưng vẫn hết sức cương quyết bảo vệ lãnh thổ, giữ vững quan điểm là một nước có chủ quyền, độc lập. Ngoài việc bang giao chính thức bằng các sứ bộ, hai nước Tống và Lý còn có sự giao dịch hằng ngày ở biên thùy. Phía nam thì linh động, có mềm có cứng đối với các nước Chiêm Thành, Ai Lao… một mặt không để họ quấy rối, mặt khác ngăn chặn liên kết với nhà Tống đánh chiếm nước ta.
* Vai trò của nhà nước thời Lý:
Nhà nước phong kiến thời Lý là nhà nước quân chủ trung ương tập quyền phương Đông. Đứng đầu là vua, bên cạnh vua là một bộ máy quan lại gồm tầng lớp quý tộc quan lại văn, võ làm việc trong các cơ quan hành chính và chuyên môn.
Trước hết, trong lĩnh vực bảo vệ Tổ quốc thì nhà nước thời Lý, mà đứng đầu là vua thường giữ vai trò là thủ lĩnh quân sự của cộng đồng dân tộc, là người có quyền quyết định trong việc tổ chức và phát động chiến tranh, hoặc xuống chiếu huy động quân đội trong nước. Khi có chiến tranh, vua hoặc các hoàng tử thường trực tiếp “tự làm tướng” cầm quân đi đánh giặc. Song hành với bảo vệ Tổ quốc, một nhiệm vụ không kém phần quan trọng khác là trị thủy – thủy lợi. Trong lĩnh vực này, nhà Lý đã quan niệm việc trị thủy như một quốc sách, một mặt quan trọng trong hoạt động của nhà nước từ trung ương cho đến các lộ, có bộ máy điều hành nằm trong hệ thống quan chức của nhà nước, đóng vai trò chỉ đạo, huy động, triển khai và giám sát công tác trị thủy – thủy lợi, phục vụ mục đích phát triển nông nghiệp, “thực túc, binh cường”.
2.2. Nhà Trần (1226 – 1400).
* Sự ra đời của nhà Trần:
Vào cuối thế kỷ XII, từ đời vua Lý Cao Tông (lên ngôi khi mới 3 tuổi), không lo triều chính mà chỉ ăn chơi, phung phí vô độ, đẩy nhà Lý bước đầu bước vào thời kỳ suy thoái. Đến đời vua Lý Huệ Tông, tình hình suy thoái ngày càng nghiêm trọng, đất nước loạn lạc bởi các thế lực cát cứ ở địa phương, trong triều thì nhiều biến động, do đó buộc nhà Lý phải lệ thuộc vào các thế lực bên ngoài, nhất là họ Trần. Đến cuối năm 1225, dưới sự sắp xếp và quyết định của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng kết hôn với Trần Cảnh (Con thứ của Trần Thừa, cháu họ của Trần Thủ Độ), sau đó làm lễ nhường ngôi cho chồng. Trần Cảnh lên ngôi vào đầu năm 1226, trở thành vua Trần Thái Tông, mở ra một triều đại mới với một nhà nước mới – Nhà Trần.
Sự thay thế của nhà Trần đối với nhà Lý đã đáp ứng được yêu cầu của đất nước vào lúc đó. Bằng con đường hôn nhân, sự thay đổi triều đại này đã diễn ra một cách tương đối êm ả, hợp lòng quân dân và làm nên một triều đại với nhiều chiến công vẻ vang, xây dựng và phát triển đất nước trên nhiều lĩnh vực.     
* Bộ máy nhà nước:
Nhà Trần tiếp tục kế thừa nhà Lý trong việc xây dựng bộ máy theo thiết chế nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, nhưng có nhiều bổ sung, đổi mới quan trọng. Điểm mới và nổi bật nhất là chế độ “lưỡng đầu” (Vua – Thái thượng hoàng). Cơ chế này được lập ra ngày từ đầu và duy trì trong hầu hết thời gian tồn tại nhà Trần. Về danh nghĩa, Thái thương hoàng là cố vấn cho vua, nhưng trên thực tế thì Thái thượng hoàng lại là người quyết định hầu hết những vấn đề trọng đại của triều đình và đất nước, do đó có thể gọi đây là chế độ hai vua cùng trị vì đất nước. Việc thiết lập và duy trì cơ chế đó trong phần lớn thời gian tồn tại của vương triều này là cách thức để nhà Trần vừa bảo vệ sự cầm quyền của dòng họ mình, vừa ngăn chặn việc tranh giành ngôi vua giữa các hoàng tử, đồng thời còn là sự kèm cặp, hỗ trợ của vua cũ đối với vua mới, giúp vua mới điều hành đất nước được tốt hơn.
Dưới thời nhà Trần, các cơ quan hành chính và chuyên môn sớm được thiết lập, mở rộng và quản lý chặt chẽ hơn trước. Theo thể chế “lưỡng đầu”, bên cạnh kinh đô Thăng Long còn có phủ Thiên Trường, được xây dựng và bảo vệ gần như một kinh đô thứ hai. Đó là quê hương, là nơi ở của thượng hoàng.
Về bộ máy quan lại, dưới triều Trần thì được tổ chức quy củ và có hệ thống hơn triều Lý, gồm hai bộ phận: quan trong (ở trung ương) và quan ngoài (ở địa phương). Tầng lớp quý tộc, tôn thất phát triển hơn và thể hiện rõ vai trò của mình trong sự nghiệp giúp vua giữ nước. Các vương hầu nhà Trần, ngoài việc nắm giữ những chức vụ chủ chốt ở triều đình, còn được phân phong đi trấn trị các vùng trọng yếu. Vương hầu có quyền lực lớn ở vùng mình trấn trị. Họ còn được phân phong thái ấp có phủ đệ và được tồ chức đội quân riêng. Lúc bình thường họ sống ở phủ đệ, lúc hữu sự họ về kinh đô.
Ở triều đình, nhà Trần đặt thêm nhiều cơ quan chuyên trách mới, đó là:
- Hệ thống các cơ quan tư pháp như: Thẩm hình viện (xét xử), Tam ty viện (Kiểm sát), Bình bạc ty (coi việc kiện tụng) và Ngự sử đài (giám sát quan lại và can gián vua);
- Quốc sử viện: Lo việc chép sử;
- Thái y viện: Lo việc trông coi sức khỏe;
- Quốc học viện: Lo việc học hành;
- Tư thiên giám: Lo việc thiên văn, làm lịch;
- Quốc tử giám: Trường học lớn nhất nước.
Về quan chế, Tướng quốc là người đứng đầu bá quan văn võ. Ở triều đình trung ương có các chức Tam thái, Tam thiếu (sư, phó, bảo) giống như thời Lý, ngoài ra bổ sung thêm ba chức quan mới được gọi là Tam tư: Tư đồ phụ trách ngoại giao, văn hóa; Tư mã phụ trách chinh phạt và Tư không phụ trách các mặt còn lại.
Ở ban võ, đứng đầu là các quan đại thần bao gồm: Thái úy, Thiếu úy và Bình chương sự, tiếp dưới là quan lại ở các bộ do quan Thượng thư đứng đầu và các chức võ quan khác Thị lang, Lang trung… Về ngạch võ, điểm khác hơn thời Lý là có các chức Phiêu kỵ thượng tướng quân (dành riêng cho hoàng tử), Tiết chế tướng quân. Các chức vụ quan trọng trong triều lúc đầu phần lớn là do các quý tộc tông thất nắm giữ, sau do nhu cầu chuyển dần sang giới quan liêu.
Ở cấp địa phương, có các chức An phủ chánh sứ và An phủ phó sứ; đứng đầu phủ là tri phủ, trấn phủ sứ. Đứng đầu châu là Chuyển vận sứ, Thông phán. Đứng đầu huyện là Lệnh úy; ở xã là đội ngũ xã quan (đại, tiểu tư xã, xã chính). Ngoài ra còn có các chức võ quan trông coi quân đội ở địa phương như: Quan sát sứ, Kinh lược sứ, Phòng ngự sứ và các chức quan trông coi về kinh tế như: “Hà đê phó chánh sứ” chuyên trách việc đê điều, “Đồn điền chánh phó sứ” chuyên trách quản lý đồn điền cùng một số chức quan trông coi về giáo dục ở lộ, phủ.v.v.
Bên cạnh bộ máy quan lại như trên, nhà Trần vẫn tiếp tục duy trì hệ thống “tăng quan” như thời nhà Lý với các chức đứng đầu là Quốc sư, Tăng thống, Tăng lục.v.v.
Nhìn chung, so với bộ máy quan lại nhà Lý thì nhà Trần có sự bổ sung và mở rộng hơn cả ở trung ương và địa phương. Các chức vụ và nhiệm vụ được gắn chặt, quy định rõ ràng, cụ thể hơn. Bộ máy này vừa thực hiện sự kế thừa, vừa có sự sáng tạo, đáp ứng được yêu cầu đất nước trong thời kỳ mới, đó chính là bước tiến quan trọng của nhà nước thời Trần.
* Việc điều hành đất nước:
- Về phân chia địa giới hành chính: Sau khi thành lập, nhà Trần thực hiện cải tổ hành chính, chia cả nước thành 12 lộ, hai trại và đặt thêm năm phủ, sáu châu.
- Về sử dụng, tuyển chọn quan lại: Trong sử dụng quan lại thì nhà Trần có điểm khác hơn nhà Lý là dành nhiều quyền lợi cho quan lại thông qua chế độ lương bổng; các quan lại thuộc tầng lớp quý tộc được ban cấp đất đai để lập thái ấp, được khai khẩn để lập điền trang.
Trong tuyển chọn quan lại, nhà Trần tiếp tục kế thừa và phát triển hơn thời Lý. Kế thừa ở chỗ ban đầu cũng dành những vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước cho những người thuộc dòng dõi quý tộc và các công thần (quân chủ quý tộc). Nhưng mặt khác, ngay buổi đầu thành lập, năm 1227 nhà Trần đã mở khoa thi Tam giáo (Nho, Phật, Đạo); thi Thái học sinh (tiến sĩ) vào năm 1232 và đã chọn tam khôi với học vị trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa vào năm 1247. Nhà Trần cũng đã định ra lệ khảo duyệt (khảo khóa) các quan theo định kỳ. Qua đó cho thấy, ở thời Trần, việc tuyển chọn quan lại bằng con đường khoa cử giữ vị trí hết sức quan trọng, công tác khoa cử tuyển chọn người thực tài đã ngày càng nâng cao vai trò của tầng lớp nho sĩ quan liêu trong bộ máy chính trị thời Trần từ số lượng khiêm tốn lúc đầu, sau càng gia tăng trong những triều đại kế tiếp. Điều đó đã nói lên xu thế phát triển của nhà nước thời Trần là từ nhà nước quân chủ quý tộc chuyển sang nhà nước quân chủ quan liêu.
- Về tổ chức quân đội: Quân đội thời Trần cũng bao gồm quân cấm vệ và quân các lộ với nhiều binh chủng (bộ binh, thủy binh, kỵ binh, tượng binh…) giống như thời nhà Lý. Điểm khác hơn chính là lực lượng quân đội riêng của vương hầu, quý tộc và các thủ lĩnh dân tộc thiểu số, khi đất nước bị xâm lăng thì các đạo quân hợp lực cùng nhau đánh giặc.
Về xây dựng lực lượng quân đội, nhà Trần tiếp tục áp dụng chính sách “ngụ binh ư nông” của thời Lý, đồng thời chủ trương “binh cốt tinh không cốt nhiều”. Do đó nhà Trần rất coi trọng việc rèn luyện võ nghệ cho binh sĩ, lập ra “Giảng võ đường” để đào tạo quan võ, tướng lĩnh, chú trọng xây dựng kỷ cương quân đội. Nhờ đó thời nhà Trần có lực lượng quân đội rất hùng mạnh, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ vương triều và đất nước.
- Về kinh tế: Nhà Trần tiếp tục chú trọng phát triển liên hoàn các chính sách về nông nghiệp, bao gồm: sở hữu tư nhân về ruộng đất, tổ chức khai hoang, trị thủy - thủy lợi, bảo vệ sức kéo, ngụ binh ư nông, ban cấp thái ấp, mở rộng mạng lưới giao thông đường bộ, đường thủy. Triều đình đã lập ra Ty Khuyến nông, đặt các chức quan Hà đê chánh phó sứ, hàng năm, mọi người đều có nghĩa vụ lao động tu sửa đê, học sinh Quốc Tử Giám cũng không được miễn trừ.
Nhìn chung, dưới triều Trần, một thế cân bằng ổn định về kinh tế đã được duy trì giữa các yếu tố công hữu và tư hữu, giữa nông nghiệp và nền kinh tế hàng hóa, giữa quyền lực, lợi ích của Nhà nước, (quyền sở hữu ruộng đất Nhà nước, nguồn tô thuế) với các đẳng cấp quý tộc quan liêu (thái ấp điền trang) cũng như của khối bình dân làng xã (ruộng công).
- Về xây dựng pháp luật: Kế thừa nhà Lý, thời Trần cũng tồn tại song song hai hình thức pháp luật: luật thành văn do Nhà nước ban hành và luật tục trong các làng xã. Tuy nhiên nhà Trần rất quan tâm đến việc xây dựng pháp luật của vương triều, biểu hiện qua việc đã cho biên soạn và ban hành nhiều bộ luật như:
- Quốc triều thông chế (1230);
- Quốc triều thường lễ (1230);
- Hoàng triều ngọc điệp (1267);
- Công văn cách thức (1290);
- Hoàng triều đại điển (1341);
- Hình thư (1341). Đây là bộ luật được Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn khảo đính bộ Hình thư thời Lý và trở thành bộ luật cơ bản của vương triều.
Nhìn chung, pháp luật đời Trần bảo vệ nghiêm ngặt chính thể quân chủ và chế độ đẳng cấp. Tội mưu phản Triều đình bị xếp vào hàng đại nghịch và bị trừng trị rất nặng “phải giết hết thân tộc”. Đẳng cấp quý tộc quan liêu được pháp luật ưu đãi, có quyền dùng tiền chuộc tội. Gia nô và nô tì không được quyền tố cáo chủ. Trong gia đình, cấm cha con, vợ chồng và gia nô không được kiện cáo nhau.
 Pháp luật đời Trần cũng đã bảo vệ quyền tư hữu tài sản của người dân. Tội trộm cắp bị trừng trị rất nặng, thích chữ vào mặt, chặt ngón chân, lần thứ ba sẽ bị giết. Những đồ vật lấy trộm một phần sẽ phải đền 9 phần, nếu không đền được bắt vợ con sung làm nô tì.
Trong các làng xã, dân chúng vẫn tuân theo các phong tục cổ truyền, các bô lão giữ vai trò dàn xếp và xét xử.
- Về đối nội: Nhận thấy được những khiếm khuyết của các triều đại trước, nên sau khi thành lập, nhà Trần đã ra sức củng cố bộ máy nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, xây dựng hệ thống bộ máy nhà nước gồm bốn cấp từ trung ương đến địa phương một cách chặt chẽ. Đây là một bước phát triển vượt bậc trong lịch sử và phản ánh cho thấy nhà nước thời này đã đặc biệt quan tâm trực tiếp với tay quản lý đến cấp cơ sở, đưa hương - giáp - xã vào nền nếp, khuôn khổ, vận hành theo qũy đạo chung của quốc gia phong kiến quân chủ trung ương tập quyền. Việc làm này hẳn không ngoài mục đích quản lý có hiệu lực vì lợi ích của đội ngũ cầm quyền đồng thời còn để sát dân, gần dân, động viên huy động toàn dân dựng nước, giữ nước có kết quả. Vai trò của hương, giáp, xã trong kháng chiến chống giặc Tống vào thế kỷ XI và ba lần chống giặc Nguyên Mông vào thế kỷ XIII đã chứng minh rõ điều đó.
- Về đối ngoại: Nhà Trần tiếp tục chính sách của nhà Lý trong việc giữ yên biên cương, bảo toàn lãnh thổ. Tuy có sự việc xảy ra năm 1252, quân Chămpa cướp bóc vùng ven biển phía nam Đại Việt đã bị quân Việt, dưới sự chỉ huy của vua Trần Thái Tông, tiến quân vào đánh bại, nhưng nổi bật lên vẫn là quan hệ hoà hiếu rất tốt đẹp giữa nhà Trần với vương triều Indravarman IV của Chămpa, nhất là trong và sau cuộc phối hợp kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược. Trong quan hệ ngoại giao với Mông Cổ, nhà Trần tỏ thái độ rất kiên quyết tìm mọi cách để giữ vững độc lập, tự chủ, mặc dù vẫn chịu nộp cống cho chúng theo lệ thường từ trước với nhà Tống, làm cho nhà Nguyên phải kính nể. Khi quân Mông - Nguyên xâm lược nước ta, nhà Trần đã lãnh đạo cả nước đứng lên đánh thắng chúng, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền và độc lập của đất nước.
* Vai trò của nhà nước thời Trần:
Giống như nhà nước phong kiến thời Lý, nhà nước thời Trần cũng là một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền phương Đông. Tuy nhiên do áp dụng chế độ “lưỡng đầu”, nên mặc dù trên danh nghĩa thì nhà vua là người đứng đầu đất nước, nhưng quyền hành thực tế lại nằm trong tay Thái thượng hoàng. Các vua Trần tự coi là cha mẹ của dân, thi hành một chính sách thân dân kiểu gia trưởng, kết hợp với tư tưởng nhân từ bác ái của đạo Phật. Thời bình, các vua Trần thường xuyên thăm hỏi việc đắp đê, gặt hái, trong các dịp hội hè đã xuống dự cùng dân chúng. Khi đất nước có họa xâm lăng, Vua – Thái thượng hoàng là người có quyền quyết định trong việc tổ chức và phát động chiến tranh, hoặc xuống chiếu huy động quân đội trong nước. Khi có chiến tranh, vua hoặc các hoàng tử thường trực tiếp “tự làm tướng” cầm quân đi đánh giặc.
2.3. Nhà Lê Sơ.
* Sự ra đời của nhà Lê Sơ:
Năm 1406, lấy cớ nhà Hồ cướp ngôi của nhà Trần, nhà Minh đưa quân sang xâm chiếm nước ta. Chỉ sau sáu tháng, do đường lối chiến lược và chiến thuật sai lầm, cuộc kháng chiến của nhà Hồ đã bị thất bại, từ đó nước ta rơi vào ách đô hộ tàn bạo của phong kiến nhà Minh trong 20 năm (1407-1427).
Tháng 7 năm 1407, vua Minh ra chiếu đổi nước ta thành quận Giao Chỉ, sát nhập vào Trung Quốc, đồng thời, các quan lại nhà Minh còn ráo riết thi hành chính sách ngu dân, đồng hoá dân tộc, triệt để cướp bóc, vơ vét của cải, nhân dân ta bị cưỡng bức đi khai thác vàng, bạc, mò ngọc trai dưới biển, khai thác lâm thổ sản, các hương liệu quý, đi lao dịch, nhiều người còn bị bắt làm nô tỳ, hoặc bị bắt đưa về Trung Quốc, phục dịch bọn quan lại nhà Minh.
Chính sách thống trị tàn bạo của nhà Minh đã vấp phải sự kháng cự của nhân dân ta. Nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra và đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Trải qua 10 năm (1418 – 1427) gian khổ đấu tranh, nghĩa quân Lam Sơn đã đánh đuổi được quân Minh, khôi phục nền độc lập của đất nước, mở ra một triều đại mới đó là triều Hậu Lê mà thời kỳ đầu là Lê Sơ, một thời kỳ đỉnh cao trong lịch sử phát triển Nhà nước và Pháp luật Việt Nam.
* Bộ máy nhà nước:
Nhà nước Lê Sơ thời kỳ này được xây dựng theo thiết chế quân chủ trung ương tập quyền. Quyền lực nhà nước tập trung vào triều đình trung ương, đứng đầu là vua. Vua nắm trong tay mọi quyền lực bao gồm cả kinh tế, chính trị, văn hóa, cả vương quyền và thần quyền. Thời Lê Thánh Tông, chức Tướng quốc (Tể tướng) đầu triều và một số chức danh đại thần khác đã bị bãi bỏ. Hoàng đế trực tiếp điều khiển triều đình. Quyền lực của các quý tộc tôn thất cũng bị hạn chế, không được lập quân vương hầu, phủ đệ, Lê Thánh Tông bỏ lệ ban Quốc tính.
Về phẩm trật trong triều, dưới vua là các quan chức cao cấp dành riêng cho các tôn thất và các đại công thần. Đứng đầu quan lại trong triều là Tả, Hữu tướng quốc (tương đương chức Tể tướng), tiếp đó là các đại thần ban văn gồm Tam thái (sư, phó, bảo), Tam thiếu (sư, phó, bảo), Tam tư (đồ, mã, không). Đại thần ban võ gồm Thái úy, Thiếu úy và Bình chương sự. Đội ngũ quan lại trong triều cũng được chia thành hai ngạch văn và võ. Đứng đầu ngạch văn là chức Đại hành khiển, tiếp là chức Thượng thư đứng đầu các bộ (ban đầu chỉ có hai bộ là bộ lại và bộ lễ. Sau là 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công). Ở các bộ vẫn là các chức quan như: Tham tri, Gián nghị, Thị lang, Lang trung .v.v. Những cơ quan chuyên môn trong triều gồm có các đài, các viện, giám, sảnh như Ngự sử đài, Hàn lâm viện, Quốc tử giám, Nội thị sảnh ... Đứng đầu ngạch quan võ là Đại tổng quản hay Đại đô đốc tổng quản (tổng chỉ huy quân đội). Tiếp đó là các chức võ quan cao cấp như thời Lý, Trần.
Nói tóm lại, qua các triều đại thời Lê sơ, các đời vua đều quan tâm và cố gắng thực hiện là kiện toàn bộ máy nhà nước quân chủ tập trung. Đến thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497), nó đạt tới đỉnh cao, trở thành một nhà nước toàn trị, cực quyền, mang tính quan liêu chuyên chế. Đây là một bước ngoặt lịch sử, một sự chuyển đổi mô hình, từ nền quân chủ quý tộc thời Lý - Trần mang đậm tính Phật giáo màu sắc Đông Nam Á sang một nền quân chủ quan liêu Nho giáo Đông Á.
* Việc điều hành đất nước:
- Về phân chia địa giới hành chính:
Năm 1427, khi còn bao vây quân Minh ở Đông Quan, Lê Lợi đã bước đầu xây dựng hệ thống chính quyền và phân chia các khu vực hành chính trong nước, Vùng Bắc bộ được chia thành 4 đạo Đông, Tây, Nam, Bắc. Dưới các đạo là trấn, châu, huyện.
Sau khi đánh đuổi được quân Minh, nhà Hậu Lê chia cả nước thành 5 đạo gồm 4 đạo cũ ở Bắc bộ và một đạo mới Hải Tây. Dưới đạo là các trấn, lộ rồi đến phủ, huyện, châu và cuối cùng là xã.
Năm 1466, nhà Hậu Lê phân chia lại đơn vị hành chính. Theo đó, cả nước được chia thành 12 đạo, dưới đạo là phủ, châu, huyện, xã. Đến năm 1471, khi lãnh thổ Đại Việt được mở rộng đến Bình Định, nhà nước đã cho đặt thêm đạo thứ 13 là Quảng Nam gồm 4 phủ, 9 huyện. Bộ máy cai quản ở các đạo tăng từ 2 ty lên thành 3 ty nhằm phân chia quyền hạn giữa các lĩnh vực binh, chính, hình nhằm thu hẹp, hạn chế bớt quyền hạn của quan lại ở địa phương, ngăn chặn khuynh hướng phân tán, cát cứ.
- Về sử dụng, tuyển chọn quan lại:
+ Trong vấn đề sử dụng quan lại, nhà nước thời Lê Sơ rất coi trọng việc đánh giá đúng nỗ lực và phẩm chất của từng quan lại. Cứ 3 năm một lần, nhà nước tổ chức sơ khảo; sau 3 lần sơ khảo thì tiến hành chung khảo. Kết quả các kỳ thi sơ khảo, chung khảo là cơ sở để thăng hoặc giáng chức, thuyên chuyển quan lại. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông ra chiếu dụ “Hiệu định quan chế” quy định rõ ràng công việc và trách nhiệm của các chức quan từ trung ương cho đến địa phương, cấp xã quan cũng phải đạt tiêu chuẩn là hạng giám sinh, tư đồ hay “lương gia tử đệ”, trên 30 tuổi, phải biết chữ và có hạnh kiểm tốt. Quan lại được hưởng đặc quyền, đặc lợi so nhà nước quy định, đồng thời còn có quy định riêng về trang phục, nhà cửa cho các hạng quan mà dân không được áp dụng.
+ Trong tuyển chọn quan lại, thời Lê Sơ nói chung và đặc biệt là thời vua Lê Thánh Tông, việc tuyển chọn quan lại được thực hiện chủ yếu thông qua con đường thi cử. Từ năm 1442, nhà nước đã quy định về việc thi tiến sĩ và chủ trương khắc tên những người thi đậu tiến sĩ vào bia đá đặt tại Quốc tử giám. Đến đời vua Lê Thánh Tông, chế độ giáo dục và khoa cử theo Nho giáo đã phát triển tới mức cực thịnh với ba kỳ thi Hương, Hội, Đình, mở rộng đối tượng dự thi (trừ người phạm tội và người ca hát). Ngoài những kỳ thi trên, nhà nước còn tổ chức những kỳ thi chọn nhân viên với môn thi viết chữ và làm tính. Với cách thức tuyển chọn như vậy, nhà nước Lê Sơ đã thực sự mang tính chất nhà nước quân chủ quan liêu, lấy Nho giáo làm nền tảng tư tưởng . Ngoài ra, nhà nước Lê Sơ còn có các công thức tuyển chọn quan lại khác như: Bảo cử (đề cử người có nỗ lực lên bộ lại để tâu vua xin bổ dụng), nhiệm tử (sử dụng con cháu quan lại có công).
- Về tổ chức quân đội: Quân đội thời Lê Sơ gồm thân binh (quân trong thành) và ngoại binh (quân ở các địa phương). Quân các đạo ở địa phương được chia thành vệ, ty, đội và tiếp tục thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông” như thời Lý – Trần. Thời vua Lê Thánh Tông, nhà vua trực tiếp chỉ huy quân đội và quy định chế độ tuyển binh rất chặt chẽ.
Việc luyện tập quân đội được quy chế hóa theo từng bình chủng và khảo hạch quân sĩ theo thời hạn 3 năm một lần. Nhờ sự luyện tập và kỷ luật chặt chẽ nên quân đội thời Lê Sơ rất mạnh, là công cụ bảo vệ vững chắc biên cương và mở rộng lãnh thổ.
- Về kinh tế: Nhà nước Lê sơ là một Nhà nước trọng nông, đã đề ra nhiều biện pháp để khuyến khích và phát triển nông nghiệp.Việc chăm sóc, đào đắp kênh đê rất được chú trọng. đặt ra các chức quan Khuyến nông và Hà đê. Khi khẩn cấp đã huy động cả học sinh Quốc Tử Giám trong việc hộ đê. Để bảo đảm sản xuất, các vua Lê đã cho thi hành chính sách “ngụ binh ư nông”, cho quân đội thay phiên về làm ruộng, theo tinh thần “tĩnh vi nông. động vi binh”. Luật pháp nghiêm cấm việc giết trâu, bò sống để bảo vệ sức kéo. Khi huy động công việc lao dịch, các quan sở tại phải tránh thời vụ, để không làm kinh động sức dân.
Hoạt động thương nghiệp chủ yếu ở thời Lê sơ là nền buôn bán nhỏ thông qua mạng lưới chợ ở nông thôn và thành thị. Nhà Lê đã ban hành lệ lập chợ, khẳng định “trong dân gian hễ có dân là có chợ, để lưu thông hàng hoá”. Đối với thủ công nghiệp thì nhà nước Lê sơ một mặt dung dưỡng nền sản xuất nhỏ thủ công nghiệp trong các làng xã, mặt khác đẩy manh hoạt động của các quan xưởng thuộc thủ công nghiệp Nhà nước. Ở nông thôn, đã xuất hiện nhiều làng chuyên nghề như Bát Tràng (gốm sứ), Huê Cầu (nhuộm thâm). Riêng việc buôn bán với nước ngoài, Nhà nước đã kiểm soát nghiêm ngặt các cáng khẩu, như Vân Đồn, Vạn Ninh, (Quảng Ninh), Càn Hải, Hội Thống (Nghệ An), cấm dân chúng tự tiện buôn bán trao đổi hàng hóa với các tàu buôn ngoại quốc, thi hành chính sách “bế quan toả cảng”.
- Về xây dựng pháp luật: Các hoạt động lập pháp thời Lê Sơ được đẩy mạnh để đáp ứng các yêu cầu mọi mặt của xã hội Đại Việt thời kỳ này. Quá trình xây dựng hệ thống pháp luật được bắt đầu từ thời vua Lê Thái Tổ với các quy định về ruộng đất, kiện tụng và hình phạt. Đời vua Lê Thái Tông nêu ra nguyên tắc xét xử các vụ kiện. Đời vùa Lê Nhân tông đưa ra quy định công nhận và bảo vệ ruộng đất tư, đỉnh cao là đời vua Lê Thánh Tông với nhiều bộ luật ban hành, trong đó có bộ luật cơ bản của nhà nước thời Lê Sơ là “Quốc triều hình luật” hay còn gọi là “Lê triều hình luật”, “Luật Hồng Đức”. Đánh giá về bộ luật này, trong “Lịch triều hiến chưng loại chí” nhà sử học Phan Huy Chú cho rằng nó là: “cái mẫu mực để trị nước, cái khuôn phép để buộc dân”. Ngoài bộ luật cơ bản trên, nhà nước thời Lê Sơ còn ban hành nhiều bộ luật khác như:
+ Lê triều quan chế (1471);
+ Thiên nam dư hạ tập (1483);
+ Hồng Đức thiện chính thư (1470 - 1497);
Tóm lại, hệ thống pháp luật thời Lê Sơ mà tiêu biểu là Luật Hồng Đức được thiết lập nhằm mục tiêu bảo vệ quyền thống trị của nhà nước phong kiến tập quyền (trừng phạt nặng những tội làm tổn hại tới vua và triều đình). Bên cạnh việc củng cố trật tự xã hội thì các điều luật đều nhắm đến việc bảo vệ chế độ tư hữu; lợi ích của giai cấp địa chủ, phong kiến và tầng lớp quý tộc quan liêu, đồng thời bảo vệ chế độ gia tộc phụ quyền và đạo đức phong kiến. Mặc dù có mô phỏng luật Trung Quốc, nhưng nhiều điều khoản đã lưu ý đến những tập quán cổ truyền mang tính đặc hữu dân tộc. Điểm tiến bộ của pháp luật thời kỳ này là thể hiện được tính dân chủ, bảo vệ cuộc sống của dân tự do, chống nô tì hóa, chống sự hà hiếp của cường hào, quan lại đối với nhân dân. Tôn trọng quyền lợi phụ nữ trong việc thừa kế gia tài và xét xử ly hôn, được coi là tiến bộ hơn so với luật Trung Quốc đương thời. Có thể nói, bộ Quốc triều hình luật là một công trình lập pháp có vị trí, vai trò rất lớn  trong lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam. Nó là sản phẩm của thời đại chế độ phong kiến đang lên, góp phần đưa quốc gia Đại Việt phát triển đến đỉnh cao.
- Về đối nội: Các vua thời Lê sơ rất chú trọng đến việc trị nước bằng các chế định pháp luật; độc tôn Nho giáo và Nho học; đẩy mạnh phát triển nông nghiệp kết hợp tăng cường rèn luyện quân đội; mở mang giáo dục, khoa cử và chấn chỉnh kỷ cương triều chính… từng bước đưa nước Đại Việt từ một nước bị nô lệ của nhà Minh trở thành một quốc gia độc lập và có vị thế trong khu vực.
- Về đối ngoại: Với lòng tự hào dân tộc, các vua thời Lê sơ đã không ngừng củng cố, phát triển quốc gia dân tộc thống nhất. Lê Thánh Tông nói: “Quyết không để một tấc đất, một thước sông của Thái Tổ lọt vào tay kẻ khác”. Các vua Lê đã thi hành một chính sách hòa hoãn nhưng kiên quyết với nhà Minh trong vấn đề biên giới, phát triển lãnh thổ về phía tây và phía nam. Năm 1471, Lê Thánh Tông cất quân đánh Cham pa, chiếm thành Đồ Bàn (Bình Định), lấy vùng đất mới lập thành thừa tuyên Quảng Nam. Các nước trong khu vực (như Xiêm La, Miến Điện) đều đến triều cống.
* Vai trò của nhà nước thời Lê Sơ:
Trong thiết chế quân chủ tuyệt đối thời Lê sơ, vai trò của nhà vua đã được đẩy lên rất cao với chủ nghĩa tôn quân. Nhà nước quân chủ tập trung thời Lê sơ là một nhà nước mạnh và ổn định. Bên cạnh vai trò nhà vua chỉ huy, thống lĩnh quân đội cùng với bộ máy quan lại thực thi chính sách và pháp luật của triều đình được kế thừa và phát huy từ thời Lý – Trần, nhà nước thời Lê Sơ còn đề cao vai trò chỉ đạo và sự can thiệp của mình vào đời sống kinh tế - xã hội, duy trì sự cân bằng giữa những yếu tố nhà nước và dân gian, công hữu và tư hữu; can thiệp và bảo hộ chính sách trọng nông, thu tô; khuyến khích phát triển nền kinh tế tiểu nông - sản xuất nhỏ làng xã, đồng thời hạn chế giao thương với nước ngoài.
2.4. Nhà Nguyễn.
* Sự ra đời của nhà Nguyễn:
Nhà Nguyễn được thành lập năm 1802, sự ra đời của vương triều này là kết quả của cuộ đấu tranh lâu dài và khốc liệt giữa dòng họ Chúa Nguyễn ở Đàng Trong với phong trào nông dân Tây Sơn. Người lập ra thời đại phong kiến cuối cùng này là Nguyễn Phúc Ánh (1762 - 1820).
Năm 1774, lợi dụng sự suy sụp của triều đình chúa Nguyễn do cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, quân Trịnh vào chiếm Phú Xuân khiến Nguyễn Phúc Ánh phải trốn vào Nam. Từ đó ông bôn tẩu gian nan, tìm đủ mọi cách chiêu tập lực lượng, cầu cứu nước Pháp (1784), xin viện trợ quân Xiêm (1785) để giành lại vương quyền cho họ Nguyễn nhưng đều bị quân Tây Sơn đánh bại. Chỉ đến sau khi vua Quang Trung mất (năm 1792), quân Tây Sơn ngày càng yếu thì quân Nguyễn mới khôi phục và ngày càng lớn mạnh. Năm 1801, quân Nguyễn do Nguyễn Phúc Ánh chỉ huy đã đánh chiếm Quy Nhơn và chiếm Thuận Hóa. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi Hoàng đế ở Phú Xuân, lấy niên hiệu là Gia Long, chính thức lập nên triều đại nhà Nguyễn. Tháng 3 năm 1804, vua Gia Long đổi quốc hiệu nước ta là Việt Nam.
Sự ra đời của nhà Nguyễn đã chấm dứt thời kỳ đất nước bị phân liệt, chia cắt kéo dài, hoàn thành sự nghiệp thống nhất quốc gia mà trước đó nhà Tây Sơn đã đặt nền móng. Lãnh thổ nước ta thời Nguyễn đã kéo dài từ Lạng Sơn, Cao Bằng cho đến tận Cà Mau, Hà Tiên, cơ bản trùng với lãnh thổ nước ta hiện nay.
* Bộ máy nhà nước:
Nhà Nguyễn đã xây dựng một thiết chế nhà nước theo khuynh hướng trung ương tập quyền, quân chủ chuyên chế. Trải qua các đời vua Nguyễn, có thể nói triều vua Minh Mạng đã xây dựng một nhà nước phong kiến đạt đỉnh đến cao, Ông đã tiến hành cải cách và tổ chức bộ máy nhà nước từ trung ương đến các địa phương chặt chẽ hơn, hoàn chỉnh hơn đời vua Gia Long trước đó. Về cơ bản, bộ máy nhà nước thời Nguyễn như sau:
+ Chính quyền trung ương: Đứng đầu đất nước và triều đình là vua (hoàng đế). Vua là người nắm mọi quyền lực, nắm toàn quyền quyết định mọi công việc từ vương quyền đến thần quyền; kinh tế, chính trị, lập pháp, hành pháp và tư pháp. Dưới vua có 6 bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công). Đứng đầu mỗi bộ là thượng thư, giúp việc cho thượng thư có các quan chức tả hữu tham tri, tả hữu thị lang. Mỗi bộ đều có văn phòng bộ và tùy theo phạm vi công việc mà chia thành các ty chuyên trách.
Các cơ quan chuyên môn trong triều là Viện, Giám, Ty, Phủ, Quán…còn được gọi là Nha môn. Mỗi Nha môn chịu trách nhiệm về một lĩnh vực cụ thể và có quyền tấu trình trực tiếp lên hoàng đế.
Hệ thống tư pháp gồm ba cơ quan chính là Bộ hình, Đô sát viện và Đại Lý tự hợp thành Tam pháp ty. Thời nhà Nguyễn, triều đình không chỉ quan tâm chú trọng xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp thông qua việc kiện toàn Tam pháp ty mà còn thường xuyên đích thân nhà vua hoặc cử các quan đại thần làm khâm sai thay mặt triều đình đi thanh tra, nắm bắt tình hình ở các địa phương, kịp thời chấn chỉnh, giải quyết các vấn đề của đất nước.
+ Chính quyền địa phương:
- Thời kỳ đầu (1802 – 1830): Chức vụ cao nhất ở địa phương là Tổng trấn, quản lý Bắc Thành và Gia Định thành. Giúp việc cho Tổng trấn là Phó Tổng trấn. Bộ máy ở thành có các Tào (hộ, binh, hình), Phòng (lại, lễ, công). Các trấn, doanh do Trấn thủ đứng đầu, giúp việc ho Trấn thủ là Hiệp trấn, Tham trấn, Cai bạ. Các phủ, huyện, châu do Tri phủ, Tri huyện, Tri châu đứng đầu và cuối cùng là các chức Chánh tổng, Xã trưởng ở cấp xã.
- Thời kỳ sau (từ 1831 trở đi): Do vua Minh Mạng xóa bỏ đơn vị hành chính cấp thành, thành lập cấp tỉnh nên đứng đầu các tỉnh là Tổng đốc, tiếp đó là các chức Tuần phủ, Bố chánh, Án sát. Ngạch võ thì có Đề đốc, Lãnh binh trông coi quân đội. Ngoài ra còn có các chức quan chuyên trách như: Hà đê sứ, Doanh điền sứ, Đốc học… Riêng cấp hành chính dưới tỉnh thì không có thay đổi gì lớn ngoài việc quy định xóa bỏ quyền thế tập của các Tri châu miền núi, đồng thời cử Lưu quan là người kinh lên các châu để giám sát và thu thuế; các huyện có bổ sung thêm các chức Giáo thụ, Huấn đạo để trông coi việc học.
* Việc điều hành đất nước:
- Về phân chia địa giới hành chính:
Dưới thời Gia Long, các đơn vị hành chính trong cả nước được chia thành nhiều khu vực có tên gọi rất khác nhau: Kinh đô gọi là dinh Quảng Đức, đến năm 1822 đổi thành phủ Thừa Thiên. Từ Thanh Hoá trở ra Bắc gọi là Bắc thành gồm 11 trấn và từ Bình Định trở vào Nam gọi là Gia Định trấn (đến năm 1808 đổi là Gia Định thành) chia thành 5 trấn. Bắc thành và Gia Định thành là hai đơn vị hành chính địa phương lớn nhất trực thuộc trung ương, có đầy đủ bộ máy cai trị như một triều đình thu nhỏ, đứng đầu mỗi thành là một viên tổng trấn và một viên phó tổng trấn trông coi mọi việc.
Đến thời Minh Mệnh, địa giới hành chính có nhiều thay đổi nhằm củng cố chế độ quân chủ chuyên chế và quốc gia thống nhất. Các đơn vị hành chính cấp thành, trấn bị bãi bỏ, thống nhất tên gọi các đơn vị hành chính cấp trung gian trong cả nước là liên tỉnh và tỉnh, bãi bỏ cả tên gọi doanh ở miền Trung.
Năm 1831, Minh Mệnh chia các trấn trước đây thành 18 tỉnh. Năm 1832, tất cả các trấn, doanh còn lại ở miền Trung và miền Nam cũng được đổi thành tỉnh. Cả nước có 31 tỉnh chịu sự quản lý trực tiếp của chính quyền trung ương. Hai tỉnh có địa dư gần nhau ghép lại thành một liên tỉnh do một viên tổng đốc cai quản (cá biệt cũng có trường hợp 3 tỉnh liên hợp như - liên tỉnh Sơn - Hưng - Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang). Dưới tỉnh là phủ rồi đến huyện (châu), tổng, xã. Cả nước bấy giờ có 31 tỉnh, 89 phủ và phân phủ, 255 huyện và châu, 1742 tổng và 18.200 xã.
Có thể thấy bộ máy nhà nước ngày càng được củng cố chặt chẽ và hoàn thiện dưới thời vua Minh Mệnh qua cuộc cải cách hành chính và chính quyền từ trung ương đến địa phương vào những năm 1831-1832.
- Về sử dụng, tuyển chọn quan lại: Nhà Nguyễn cũng dành cho quan lại nhiều quyền lợi như: lương bổng, ban cấp đất đai, xe ngựa, trang phục…; cứ ba năm một lần thì tổ chức khảo hạch quan lại. Đề ra một số chính sách để ngăn chặn nạn quan trường như: chính sách “hồi ty”, có nghĩa tránh không cho quan lại làm quan ở chánh quán, quê mẹ, quê vợ; không cho những người có quan hệ thân thiết cùng làm quan một nơi. Ngoài ra còn có quy định về tiền công phí và tiền dưỡng liêm để giữ liêm chính trong đội ngũ quan lại.
Về tuyển chọn quan lại: nhà Nguyễn vẫn áp dụng ba phương thức truyền thông là “ấm sung”, “bảo cử” và “khoa cử”, trong đó “khoa cử” là chủ yếu. Với cách thức tuyển chọn quan lại như vậy, nhà Nguyễn cũng mang bản chất là nhà nước quân chủ quan liêu như thời Hậu Lê.
- Về tổ chức quân đội:
Dưới triều Nguyễn, về mặt tổ chức quân đội, trên hết có 5 phủ đô đốc chỉ huy 5 quân (trung quân, tiền quân, hậu quân, tả quân, hữu quân). Đứng đầu mỗi phủ đô đốc có chức đô thống chưởng phủ sự, rồi đến các chức thống chê, chưởng vệ. Năm phủ đô đốc đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của nhà vua. Vua nắm quyền quyết định tối hậu về việc điều động và di chuyển quân đội.
Quân đội được chia làm 3 loại: thân binh, cấm binh, tinh binh. Thân binh có nhiệm vụ bảo vệ nhà vua. Cấm binh bảo vệ hoàng thành, tinh binh bao gồm cả bộ binh, thuỷ binh, tượng binh.
Sang thời Minh Mệnh, quân đội gồm có bốn binh chủng: bộ binh, thuỷ binh, pháo binh, tượng binh. Tuy nhiên, pháo binh và tượng binh còn là binh chủng phụ thuộc, chưa trở thành một binh chủng hoàn chỉnh và mạnh như bộ binh và thuỷ binh. Trên các binh chủng này có bốn quan đô thống chỉ huy. Đứng đầu 4 đô thống là Đô thống trung quân.
Quân đội thời Nguyễn có tổ chức chặt chẽ, có quy củ, từng bước đi vào chính quy hoá từ tổ chức đến trang bị, là một đội quân khá mạnh ở vùng Đông Nam Á bấy giờ. Thế nhưng, quân đội đó đã không bảo vệ được nền độc lập của đất nước trước cuộc xâm lược của tư bản Pháp. Nguyên nhân thất bại không phải do tổ chức, trang bị, lực lượng yếu kém mà bởi những nguyên nhân khác, trong đó nguyên nhân cơ bản là do đường lối đánh giặc giữ nước sai lầm của vua quan triều Nguyễn ở nửa cuối thế kỷ XIX.
- Về kinh tế: Triều Nguyễn quản lý đất nước từ năm 1802, đứng trước những khó khăn, thử thách to lớn về kinh tế, đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề ruộng đất và đời sống của nhân dân.
Trong lĩnh vực nông nghiệp thì các vua triều Nguyễn đã thực hiện một số biện pháp, chính sách về ruộng đất như chính sách quân điền (năm 1804), doanh điền (1828), đồng thời đẩy mạnh chính sách khai khẩn ruộng đất hoang dưới nhiều hình thứchuy động binh lính, dân nghèo, người Hoa, người dân tộc thiểu số, những người bị tù tội nặng đi khai hoang do nhà nước tổ chức để thành lập đồn điền ở nhiều nơi. Ngoài ra, công cuộc trị thuỷ và thuỷ lợi cũng được các vua triều Nguyễn từ Gia Long đến Minh Mệnh, Thiệu Trị quan tâm. Hàng năm, nhà nước xuất tiền của thuê nhân công sửa đắp đê và kêu gọi các quan lại đóng góp ý kiến về các biện pháp chống lụt, hạn.
Trong lĩnh vực thủ công nghiệp: Thời Nguyễn, thủ công nghiệp nhà nước giữ một vai trò quan trọng, bao gồm 57 cục với nhiều công xưởng và ngành nghề khác nhau như làm gạch ngói, đúc, làm đá, vẽ, làm đồ pha lê, vàng, bạc, khắc chữ, đúc súng, làm đạn, đóng thuyền, bè, làm đồ trang sức, in ấn, sản xuất lịch và một số máy móc. Bên cạnh đó, thủ công nghiệp trong nhân dân khá phát triển. Các làng nghề thủ công tiếp tục được duy trì và mở rộng bao gồm các nghề xây dựng, làm đồ gốm, sành sứ, dệt vải, lụa...
Trong lĩnh vực thương nghiệp: Việc buôn bán trong nước được mở rộng và phát triển, nhưng ngược lại thì thực hiện chính sách đóng cửa không buôn bán với các nước tư bản phương Tây do lo sợ dã tâm xâm chiếm ngày càng lộ rõ của các đế quốc tư bản Phương Tây hùng mạnh.
Nhìn chung, nền kinh tế hàng hoá Việt Nam dưới triều Nguyễn tuy có một số hoạt động mới, nhưng vẫn không có bước phát triển đáng kể.
- Về xây dựng pháp luật: Hoạt động lập pháp của nhà Nguyễn thời kỳ này được đẩy mạnh, các đời vua đầu của nhà Nguyễn từ Gia Long đến Tự Đức đều chú trọng xây dựng pháp luật, cho biên soan và ban hành các bộ luật, điển hình như:
+ Năm 1815 ở đời vua Gia Long, nhà Nguyễn ban hành bộ luật cơ bản của vương triều, đó là bộ “Hoàng Việt luật lệ” hay còn gọi là Luật Gia Long.
+ Năm 1833, vua Minh Mạng ban hành bộ “Đại Nam Hội điển toát yếu”, đầy là công trình tập hợp, hệ thống hóa các văn bản pháp luật do hoàng đế ban hành như: Chiếu, Chỉ, Dụ, Lệnh, Chuẩn được sắp xếp theo trình tự thời gian. Tập Hội điển này quy định về chế độ, chức trách của các quan và nhiệm vụ, quyền hạn chính của các bộ luật hành chính.
+ Năm 1843, vua Thiệu Trị cho xây dựng bộ “Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ”, kéo dài đến đời vua Tự Đức mới hoàn thành (13 năm). Bộ Luật này cũng tập hợp các văn bản pháp luật do hoàng đế ban hành, chủ yếu bổ sung thêm về lĩnh vực dân sự, hình sự và tố tụng.
Nội dung chủ yếu của pháp luật thời Nguyễn là bộ “Hoàng Việt luật lệ”. Đây là một bộ luật tổng hợp giống như bộ “Quốc triều hình luật” thời Lê. Bộ luật này đề cập đến đến bốn lĩnh vực chính: Luật hình, luật dân sự, luật hôn nhân gia đình và luật tố tụng. Các điều luật của luật pháp thời Nguyễn đã phản ánh và củng cố quan hệ phong kiến ở giai đoạn cuối của chế độ phong kiến Việt Nam. Nó là căn cứ bảo vệ quyền thống trị cỉa chế độ quân chủ chuyên chế nhà Nguyễn và là quyền lợi của giai cấp địa chủ phong kiến. Nó cũng là căn cứ để bảo vệ trật tự xã hội và chế độ gia đình gia trưởng phụ quyền trên cơ sở đạo Lý nho giáo kết hợp với các phong tục tập quán của làng xã Việt Nam.
Nhận xét chung về Bộ luật Gia Long nói riêng và luật pháp thời Nguyễn nói chung, luật pháp thời kỳ này đã đạt được những thành tựu quan trọng, thể hiện qua việc xây dựng và ban hành bộ “Hoàng Việt Luật lệ” và các tập “Hội điển” lớn. Đó vừa là kết quả của hoạt động lập pháp thời Nguyễn, vừa sự kế thừa những thành tựu pháp luật của các thời kỳ trước, nhất là thời Lê đồng thời có sự vận dụng pháp luật của nhà Thanh (Trung Quốc). Tuy nhiên đến thế kỷ XIX, với việc bảo vệ và củng cố chế độ phong kiến khi chế độ này đã lỗi thời, do vậy mà pháp luật thời Nguyễn không đóng góp được hiện có yêu cầu phát triển của đất nước ta lúc đó, đó là thúc đẩy kinh tế hàng hóa, chuyển sang chế độ tư bản chủ nghĩa.
- Về đối nội: Mặc dù triều đình nhà Nguyễn có nhiều cố gắng trong việc cải cách nhà nước, nhưng với một chế độ phong kiến lỗi thời và nhiều chính sách sai lầm khác đã đẩy đời sống nhân dân Việt Nam vào con đường cơ cực. Vì vậy trong nửa đầu thế kỷ XIX đã có tới trên 300 cuộc nổi dậy của các tầng lớp nhân dân nối tiếp nhau diễn ra. Phong trào đấu tranh không chỉ thu hút lực lượng nông dân mà còn lôi cuốn cả trí thức, quan lại nhỏ, nhân dân và thủ lĩnh các dân tộc ít người cùng binh lính. Từ những rối ren đó cộng với những âm mưu thôn tính nước ta lamg thuộc địa của các nước phương Tây đã khiến triều đình nhà Nguyễn gặp nhiều lúng túng trong chính sách đối nội.
- Về đối ngoại: Cũng như các triều đại trước, nước đầu tiên mà Gia Long tiến hành ngoại giao là Trung Quốc. Năm 1802, sau khi lên ngôi vua, Gia Long cho một đoàn sứ giả sang cầu phong triều đình Trung quốc, xin đổi quốc hiệu là Nam Việt. Sau những tranh luận về tên gọi, nhà Thanh đồng ý đảo ngược lại thành Việt Nam, vua Thanh cho Tổng đốc Quảng Tây là Tề Bố Xâm sang làm lễ tấn phong cho Gia Long là Việt Nam quốc vương, ấn định thể lệ tiến cống hai năm một lần và cứ bốn năm một lần Việt Nam sẽ phái sứ bộ sang làm lễ triều kính.
Ngoài Trung Quốc, nhà Nguyễn còn qua lại với Xiêm La. Từ năm 1802 trở đi hai bên vẫn có sự sứ bộ qua lại trao đổi thân thiện và tặng phẩm. Tại Ai Lao, Việt và Xiêm cùng đặt ảnh hưởng, Quốc vương Ai Lao xin thần phục cả Việt lẫn Xiêm. Còn với Chân Lạp, khi vua Gia Long lên ngôi, nước Cao Miên tuy mất Thủy Chân Lạp cho người Việt nhưng vẫn phải chịu thần phục.
Đối với các nước phương Tây, do sự bành trướng ngày càng lớn của họ tại các quốc gia Đông Nam Á nên khiến triều đình nhà Nguyễn lo ngại và thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng. Chỉ sau khi Gia Định bị người Pháp chiếm, việc ngoại giao giữa triều đình với các nước phương Tây khó khăn, Tự Đức mới thay đổi chính sách, đặt ra Bình Chuẩn Ty để lo buôn bán và Thượng Bạc Viện để giao dịch với người nước ngoài, nhưng không được khuyến khích phát triển.
* Vai trò của nhà nước thời Nguyễn:
Cùng là nhà nước quân chủ phong kiến tập quyền thống nhất trên toàn lãnh thổ, nhưng với một số các cải cách hành chính, đặc biệt dưới triều vua Minh Mạng đã có một số đổi mới làm tăng thêm vai trò của bộ máy quan liêu đối với việc đóng góp ý kiến vào thể chế điều hành, quản lý nhà nước của nhà vua.
Trong quá trình quản lý đất nước, mặc dù triều đình nhà Nguyễn vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế; nhưng khách quan mà xét thì nhà nước thời Nguyễn đã đóng vai trò rất lớn trong việc mở mang bờ cõi và định hình đất nước, chú trọng xác lập chủ quyền biển đảo, quan tâm tôn tạo các di tích lịch sử đời trước, đồng thời để lại một số di sản văn hóa có giá trị quốc tế như: Cố đô Huế, Hội An và Nhã nhạc cung đình Huế.
*
--------------------*     ---------     *--------------------
Câu 3: Những nội dung cơ bản của hai Bộ Luật “Quốc triều hình luật” (Luật Hồng Đức) thời Lê Sơ và “Hoàng Việt luật lệ” (Luật Gia Long) thời nhà Nguyễn. So sánh hai bộ luật trên.
Trả lời
1) Nội dung cơ bản hai bộ luật: Xem giáo trình Thầy Thông
2) So sánh hai bộ luật:
a) Điểm giống nhau: Đều ra đời trong chế độ phong kiến nên cả hai bộ luật đều thể hiện rõ bản chất giai cấp của nó. Mục tiêu hàng đầu của nó là để bảo vệ vương quyền và bên cạnh việc củng cố trật tự xã hội thì các điều luật đều nhắm đến việc bảo vệ chế độ tư hữu; lợi ích của giai cấp địa chủ, phong kiến và tầng lớp quý tộc quan liêu, đồng thời bảo vệ chế độ gia tộc phụ quyền và đạo đức phong kiến. Nó là sự pháp điển hóa tư tưởng chính trị và đạo đức Nho giáo.
b) Điểm khác nhau: So với bộ Hoàng Việt luật lệ (hay luật Gia Long) ra đời sau hàng thế kỷ (năm 1811), có thể thấy luật Hồng Đức chưa có tính khái quát hóa cao và phân ngành rõ như Hoàng Việt luật lệ. Tuy nhiên, sự bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong luật Hồng Đức lại tốt hơn so với Hoàng Việt luật lệ. Như giáo sư Vũ Văn Mẫu đã viết khi nhận xét về Hoàng Việt luật lệ “bao nhiêu những sự tân kỳ mới lạ trong bộ luật triều Lê đã không còn lưu lại một chút dấu tích nào trong luật nhà Nguyễn. Không còn những điều khoản liên quan đến hương hỏa, đến chúc thư, đến các điều kiện về giá thú, đến chế độ tài sản của vợ chồng.” (Vũ Văn Mẫu, Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử, quyển 1, tập 1, Sài Gòn, 1973).
* Các điểm tiến bộ của Luật Hồng Đức:
- Điểm tiến bộ thứ nhất trong luật Hồng Đức là nó cho thấy vai trò của người phụ nữ đã được đề cao hơn rất nhiều so với các bộ luật đương thời trong khu vực. Nó cho thấy người vợ có quyền quản lý tài sản của gia đình (khi chồng chết) và họ có quyền thừa kế như nam giới.
- Điểm thứ hai, là hình phạt cho phạm nhân nữ bao giờ cũng thấp hơn so với phạm nhân nam.
- Điểm thứ ba, nó thể hiện chính sách trọng nông của triều Lê. Bộ luật trừng phạt rất nặng các tội như phá hoại đê điều (điều 596), chặt phá cây cối và lúa má của người khác (điều 601), tự tiện giết trâu ngựa (điều 580) v.v
- Điểm thứ tư, luật Hồng Đức thể hiện sự quan tâm và bảo vệ dân thường. Trong bộ luật có nhiều điều trừng phạt nghiêm khắc những người quyền quý ức hiếp, nhũng nhiễu thường dân.
*
--------------------*     ---------     *--------------------

Câu 4: Chứng minh rằng Luật Hồng Đức đã thể chế hoá tư tưởng Nho giáo.
Trả lời
Các vua nhà Lê, kể từ vua Lê Thái Tổ (1428-1433) sau khi lên ngôi đều đề cao Nho học. Thời Lê các bộ kinh điển và sách vở liên quan tới Nho giáo được du nhập từ Trung Hoa và được phổ biến rộng rãi, vì vậy Nho giáo có điều kiện để trở thành cơ sở Lý luận cho các nhà soạn thảo luật pháp thời Lê.
Cũng giống như vấn đề chủ quyền quốc gia, luật pháp thời kỳ nào cũng điều chỉnh vấn đề hôn nhân và gia đình, nhưng mục đích của việc điều chỉnh vấn đề hôn nhân gia đình trong Quốc Triều Hình Luật là nhằm bảo vệ chế độ tông pháp của Nho giáo. Những chuẩn mực đạo đức ấy được tập trung vào các mối quan hệ cơ bản (Tam cương) với năm đức chủ yếu (Ngũ thường). Quốc Triều Hình Luật điều chỉnh những quan hệ cơ bản về kết hôn, ly hôn, quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái nhằm bảo vệ chế độ tông pháp và cũng là bảo vệ thuần phong mĩ tục của dân tộc.
Pháp luật hình sự thời kỳ nhà Lê cho phép người trong gia đình được che chở lẫn nhau, nghiêm cấm sự tố cáo ông bà, cha mẹ - đó là đạo hiếu truyền thống của người Việt từ ngàn đời nay được thể chế hoá vào trong luật. Trong tâm hồn của mỗi người Việt nam, ngay từ thuở lọt lòng  đã  được giáo dục và  ứng xử theo nguyên tắc hiếu - kính, con cái trong gia đình phải kính trọng, hiếu thuận với ông bà, cha mẹ, biết “kính trên nhường dưới”, người Việt quan niệm rằng “hiếu là nhân cách con người, là gốc của nhân luân, là một giá trị xã hội cao quí”
Điều 504 qui định: “Con cháu tố cáo ông bà, cha mẹ, nô tỳ tố cáo chủ có tội lỗi gì đều xử tội lưu đi châu xa, vợ tố cáo chồng cũng bị tội trên. Tố cáo ông bà ngoại, cha mẹ và ông bà cha mẹ về bậc tôn trưởng và hàng cơ thân của chồng, cùng là nô tỳ tố cáo người bậc cơ thân của chủ, dẫu việc có thật cũng phải tội biếm hay tội đồ.”;
Điều 485: “Ông bà cha mẹ bị người ta đánh, con cháu đánh lại mà không bị què gẫy, bị thương thì không phải tội.” Đây là đặc điểm rất đặc sắc của Quốc Triều Hình Luật, thể hiện rõ ưu thế của đạo đức, ngay cả trong trường hợp có sự xung đột giữa pháp luật và đạo đức thì đạo đức vẫn được coi là cái gốc để điều chỉnh hành vi của con người. Quốc Triều Hình Luật qui định về thất xuất (bảy trường hợp người chồng được phép bỏ vợ), đây là những căn cứ mà người vợ rất dễ mắc phải. Cũng trong bộ luật này nhà làm luật cũng qui định 3 trường hợp đặc biệt (tam bất khứ) buộc người chồng không được phép bỏ vợ: Đã để tang nhà chồng được 3 năm; Trước khi lấy chồng thì nghèo, sau đó trở nên giàu có; Trước khi lập gia đình có họ hàng thân thích sau đó không còn bà con để trở về. Về mặt kĩ thuật lập pháp, hai điều luật này tưởng chừng như ở rất xa nhau, nhưng chỉ với một điều luật qui định “tam bất khứ” nhà làm luật đã hoàn thành xuất sắc việc bảo vệ sự ổn định của gia đình, bảo vệ chế độ tông pháp, hạn chế việc phá vỡ trật tự gia đình của Nho giáo vì thế mà người có cơ sở bền vững để tiết chế nhân tình, thực hiện nhân nghĩa ở đời... Nhờ có Lễ, con người có thể tự mình nuôi dưỡng tính tình thành tập quán, thói quen đạo đức truyền thống.
Tiếp thu quan điểm Lễ của Nho giáo, các nhà làm luật triều Lê đã đưa ra những qui định và hình phạt chặt chẽ nhằm bảo vệ lễ giáo phong kiến. Trong gia đình, những hành vi vi phạm đạo Lý của Nho giáo cũng bị qui định phải chịu hình phạt theo hệ thống hình phạt ngũ hình ở Điều 1, đó là hình phạt từ nhẹ đến nặng như: Suy, trượng, đồ, lưu, tử. Để cho giáo Lý của đạo Nho được mọi người tuân theo một cách triệt để, nhà làm luật đã dùng đến những hình phạt rất nặng để trừng trị những hành vi trái với đạo Lý Nho giáo. Ngoài xã hội, chịu ảnh hưởng tư tưởng trung quân của Nho giáo, Quốc Triều Hình Luật đưa ra các hình phạt cho những người phạm vào kỉ cương phép nước và trật tự xã hội, mưu mô làm việc đại nghịch, mưu mô theo giặc phản nước phải chịu hình phạt cao nhất là xử tử ở Điều 411, 412.
Việc qui định chặt chẽ những lễ nghi trong gia đình, ngoài xã hội và trừng phạt nghiêm khắc những người xâm hại lễ nghi thì Quốc Triều Hình Luật đã thể hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa Lễ và Hình. Qua đó, Bộ luật đã bảo vệ giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc như lòng hiếu thảo, sự tôn kính ông bà, cha mẹ của con cháu; sự hoà thuận chung thuỷ giữa vợ chồng; sự kính nhường hoà thuận giữa anh chị em, truyền thống tôn sư trọng đạo. Đồng thời các qui định nghiêm khắc áp dụng trong mỗi vi phạm lễ nghi gia đình của Quốc Triều Hình Luật có tác động rất lớn đến sự tự điều chỉnh hành vi trong gia đình khiến họ sớm có ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm với bản thân và làm tròn bổn phận ở từng vị trí cụ thể với gia đình mình. Như vậy, bộ luật đã hỗ trợ đắc lực cho sự giáo dục đạo đức trong gia đình, trong xã hội, đã dùng pháp luật để xây dựng, củng cố những chuẩn mực và giá trị đạo đức truyền thống.
Ngoài ra, Luật Hồng Đức phần nào đã thể hiện được tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc ở những điểm sau:
1) Tính giai cấp: Bộ luật thể hiện được tính bảo vệ công khai và tuyệt đối quyền lực chính trị và kinh tế của nhà nước phong kiến. Bảo vệ lợi ích giai cấp phong kiến và các đặc quyền của tầng lớp quí tộc quan liêu, đối với luật hình khi áp dung phương pháp chuộc tội bằng tiền đối với những tội danh có mức lưu trở xuống. Đối tượng ngoài người phạm tội do vô ý, người già, trẽ em thì chỉ có người thuộc họ hàng thân thích của vua mới được áp dụng (công dân bình thường không được)
2) Tính nhân dân: Bộ luật thể hiện ở tính bảo vệ quyền lợi cá nhân con người, bảo vệ nền kinh tế tư hữu, chống sự hà hiếp.
3) Tính dân tộc: Bộ luật thể hiện ở phương pháp làm luật phản ảnh các tiềm lực lập pháp ở các triều vua trước và phản ảnh dưới sự phát triển kinh tế xã hội nội tại, xã hội phong kiến. Tuy nhiên có những hạn chế như việc phân loại sắp xếp các điều luật còn phần nào chồng chéo lẫn lộn, tính khái quát chưa cao. Nhưng với những nội dung và giá trị to lớn về mặt lập pháp, bộ luật Hồng Đức đã phát huy ảnh hưởng không chỉ trong xã hội cộng đồng mà còn là một di sản pháp luật quí giá của dân tộc ta.
*
--------------------*     ---------     *--------------------

Câu 5: Tại sao nói, pháp luật phong kiến bảo vệ tuyệt đối quyền lợi của giai cấp thống trị.
Trả lời
Pháp luật phong kiến Việt Nam bảo vệ tuyệt đối quyền lợi giai cấp thống trị vì pháp luật phong kiến Việt Nam đã thể hiện tính giai cấp công khai, thể hiện rõ ý chí thống nhất về trừng trị, dùng  hệ thống hình phạt hà khắc để ngăn ngừa và trừng trị những người có hành vi vi phạm pháp luật, điều đó mang đặc điểm chung của pháp luật phong kiến, nó bảo vệ quyền thống trị của nhà nước phong kiến tập quyền. Các hành vi xâm hại sự an toàn của triều đại đều được xếp vào tội thập ác và bị xử Lý rất nặng. Luật Hồng Đức và Gia Long đều có chương cấm về qui định việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự cho nhà Vua, bảo vệ cung điện, hoàng thành. Quyền lợi kinh tế của nhà Vua được bảo vệ chặt chẽ. Luật nghiêm trị tất cả những kẻ có hành vi xâm hại quyền sở hữu ruộng đất của nhà nước, nghiêm cấm việc ẩn lậu thuế.
- Luật bảo vệ lợi ích và đặc quyền đặc lợi của giai cấp địa chủ phong kiến và tầng lớp quí tộc quan liêu. Luật của các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều bảo vệ quyền sở hữu tư nhân của giai cấp địa chủ. Các tội trộm cướp đều bị trừng trị rất nặng. Luật triều Nguyễn còn thừa nhận việc chuyển quyền chiếm hữu ruộng đất lâu năm thành quyền sở hữu, tạo điều kiện cho giai cấp địa chủ và tầng lớp quí tộc, quan lại lấn chiếm ruộng đất.
- Luật củng cố, bảo vệ tôn ty trật tự xã hội phong kiến, chế độ gia đình trưởng và các nguyên tắc đạo đức phong kiến. Nội dung này được thể hiện rõ nhất trong ngành luật hôn nhân gia đình, luật tố tụng.

*
--------------------*     ---------     *--------------------

Câu 6: So sánh sự giống và khác nhau về hình phạt chính và phụ của pháp luật thời - Trần với thời Lê Sơ.
Trả lời
1) Về hình phạt chính:
* Điểm giống nhau:
Về bản chất: Đều ra đời trong chế độ phong kiến nên cả hai bộ luật đều thể hiện rõ bản chất giai cấp của nó. Mục tiêu hàng đầu của nó là để bảo vệ vương quyền và bên cạnh việc củng cố trật tự xã hội thì các điều luật đều nhắm đến việc bảo vệ chế độ tư hữu; lợi ích của giai cấp địa chủ, phong kiến và tầng lớp quý tộc quan liêu, đồng thời bảo vệ chế độ gia tộc phụ quyền và đạo đức phong kiến. Nó là sự pháp điển hóa tư tưởng chính trị và đạo đức Nho giáo.
Về nội dung: Đều có 5 loại hình phạt chính là: Suy, Trượng, đồ, lưu, tử.
- Suy: hình phạt đánh bằng roi.
- Trượng: hình phạt đánh bằng gậy.
- Đồ: hình phạt bắt người phạm tội làm khổ
- Lưu: Hình phạt bắt người phạm tội đi đày.
- Tử: giết người phạm tội bằng hình thức chém đầu.
* Điểm khác nhau:
- Pháp luật Lý - Trần áp dụng 5 hình phạt chính không phân biệt người phạm tội là nam hay nữ điều như nhau. Đến pháp luật Lê sơ thì sử dụng hình phạt suy giành cho nữ, và sử dụng hình phạt trượng giành cho nam. (đối với nữ chỉ phạt đánh bằng roi chứ không dùng hình phạt đánh bằng gậy như pháp luật Lý - Trần).
- Thời Lê sơ cũng có 5 hình phạt chính, nhưng qui định cụ thể hơn như:
Suy có 5 khung:
+ Khung1: Bắt người phạm tội làm người hầu, phục vụ trong quân đội, làng xã, trồng dâu nuôi tầm. Kèm theo hình phạt phu: Nam 80 trượng, nữ 60 roi.
+ Khung 2: bắt người phạm tội làm ở chuồng voi, nhà bếp. Kèm hình phạt phụ: Nam 80 trượng, Nữ: 60 roi, thích 2 chữ vào mặt.
+ Khung 3: bắt người phạm tội làm ruộng, xay lúa. Kèm hình phạt phụ: Nam 80 trượng, nữ 60 roi, thích 4 chữ vào cổ.
Đồ có 3 khung.
+ Khung 1: Lưu cận châu;
+ Khung 2: Lưu ngoại châu;
+ Khung 3: Lưu viễn châu.
Tử có 3 khung.
+ Khung 1: Giảo (treo cổ người phạm tội).
+ Khung 2: Trảm (chém đầu người phạm tội, bêu đầu nơi công cộng).
+ Khung 3: lăng trì (dùng dao xẻo thịt người phạm tội cho đến chết).
- Trong 1 số hình phạt cụ thể nhà Lê đã đưa ra 1 số hình phạt bổ sung như:
+ Tội phạm về chức vụ (hối lộ).
+ Tội cướp của giết người.
+ Tội đấu ẩu (đánh nhau).
+ Tội phạm về tình dục.
+ Tội phạm về quân sự.
- Hinh phạt phụ: Đây là hình phạt phụ đi kèm với hình phạt chính như giáng cấp bảy chức, chặt chân tay, bắt vợ con làm nô tì cho người khác, thích chữ vào mặt.
Ngoài những điểm trên ra, pháp luật thời Lê Sơ có những yếu tố tích cực nhất định như: Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ an ninh quốc gia, đồng thời còn bổ sung  những qui định nhằm hạn chế sự sách nhiểu của quan lại. Khuyến khích và bảo vệ sản xuất nông nghiệp. Chú ý tới quyền lợi của phụ nữ và những người cô quả, goá phụ. Đề cao một số tiêu chuẩn đạo đức của con người mà những tiêu chuẩn này mang tính nhân đạo, tính dân tộc.
*
--------------------*     ---------     *--------------------

Câu 7: Sự giống và khác nhau về bộ máy Nhà nước của các triều đại Lý, Trần, Hậu Lê.
Trả lời
* Bộ máy nhà nước thời Lý:
Được thiết lập từ trung ương đến địa phương và tập trung quyền hành vào tay triều đình, đứng đầu là vua và nhà vua cũng quy định phẩm trật các hàng quan văn, võ đều có 9 bậc. Những chức quan cao cấp nhất trong triều đình được chia làm hai ngạch:
- Ngạch văn: Gồm có Tam thái (thái sư, thái phó, thái bảo) và tam thiếu (thiếu sư, thiếu phó và thiếu bảo).
- Ngạch võ: gốm có Thái úy, thiếu úy và một số chức vị khác
Lúc đầu tam thái, tam thiếu không giữ chức làm việc, sau này mới được trao quyền hành.
Dưới quan văn, võ còn có các thượng thư đứng đầu các bộ, ngoài ra còn có các chức quan khác như: tả và hữu tham tri, tả và hữu giám nghị, trung thư thị lang, bộ thị lang, tả và hữu ty lang trung, tả và hửu phúc tâm, nội thường thị, phủ sĩ sư điện học sĩ, hàn lâm điện học sĩ...
Quan võ ở triều đình có các chức: đô thống, nguyên soái, tổng quản, khu mật sứ, tả và hữu kim ngô...
Chức quan nắm quyền lực cao nhất trong triều là tể tướng được gọi là tướng công dưới thời Lý Thái Tổ, Phụ quốc thái úy dưới thời Thái tông và Nhân tông có gia phong phẩm trật là “bình chương quân quốc trọng sự”.
Ở địa phương cũng đặt các quan văn, võ, ở xã thì có xã quan. Hiện nay chúng ta chưa có điều kiện xác định được quyền hạn, nhiệm, vụ của từng chức quan trên nhưng nhìn chung tổ chức bộ máy này có nhiều điểm phỏng theo quan chế thời nhà Tống, tuy nhiên có giản lược hơn.
Trong bộ máy chính quyền thời Lý, tầng lớp quý tộc bao gồm những người thân thuộc của nhà vua và một số công thần nắm giữ các trọng trách ở trung ương và địa phương, các hoàng tử được phong tước vương và cử đi trấn trị ở các nơi trọng yếu.
* Bộ máy nhà nước thời Trần:
Được xác định trên cơ sở của bộ máy nhà nước đời Lý nhưng hoàn thiện và phát triển hơn. Ở Trung ương bên cạnh các cơ quan, các chức quan đã có ở đời Lý thì nhà Trần đặt thêm một số chức quan, cơ quan mới mang tính chuyên trách.
Ví dụ: Nhà Trần đã cho ra đời chức quan gọi là tư mà người ta thường gọi là tam tư đó là:
- Tư đồ: Viên quan trông coi về ngoại giao, văn hóa, lễ nghi.
- Tư mã: Viên quan trông coi về ANQP
- Tư không: đảm trách những công việc còn lại ở trung ương.
Về phía cơ quan thì nhà Trần đặt tên một loạt cơ quan chuyên trách mới đó là các quán - cục - viện - sảnh - đài:
- Ngự sử đài là cơ quan chuyên trông coi, giám sát, kiểm tra các công việc ở trong triều.
- Hàn lâm viện: đây là cơ quan chuyên trách soạn thảo các loại văn bản cho nhà vua nhưng nhà Trần đặc biệt chú ý tới các quan mang tính tư pháp.
Đời Trần hệ thống cơ quan tư pháp được hình thành và phát triển bao gồm: thẩm hình viện, tam ty viện, bình bạc ty.
- Thẩm hình viện: là cơ quan xét xử cao nhất chuyên xét xử các trọng án, xử phúc thẩm và xét xử lại những bản án do tam ty viện đã xét xử.
- Tam ty viện: Có chức năng xem xét các vụ kiện tụng ở trong nước, giám sát việc thi hành pháp luật của quan lại và người giữ nước; xem xét và đề nghị vua sửa đổi luật.
- Bình bạc ty: Cơ quan chuyên xem xét các vụ kiện tụng.
Tóm lại bộ máy nhà nước ở trung ương thời Trần so với đời Lý cao hơn, hệ thống cơ quan chuyên môn được chú ý và xác lập, bước đầu đã hình thành nên hệ thống cơ quan tư pháp.
Ở địa phương: Nhà Trần đã đổi các đơn vị hành chính của đời Lý từ 24 lộ thành 12 lộ. Mỗi lộ nhà Trần đặt ra 2 viên quan: 1 trông coi về tư pháp, 1 trông coi về hành chính. Bên cạnh 2 viên quan cơ bản này nhà Trần còn đặt thêm 1 viên quan trông coi về quân đội.
* Điểm giống nhau của bộ máy nhà nước thời Lý và thời Trần: Cả hai bộ máy đều là chính thể quân chủ trung ương tập quyền mang tính quý tộc. Các chức vụ chủ chốt do những người trong dòng tộc nắm giữ. Trong triều đình, Tể tướng là người đứng đầu đội ngũ quan lại.
* Điểm khác nhau: Thời Trần duy trì chế độ chính trị lưỡng đầu. Vua nhường ngôi cho con để lên làm Thái thượng hoàng nhiếp chính hướng dẫn vua trẻ các công việc triều chính. Lưỡng đầu có Thái thượng hoàng kiểm soát và chia sẻ quyền lực với vua.
Việc tồn tại chế độ chính trị lưỡng đầu thời Trần do chính thể tập quyền mang tính quý tộc, cần chế độ lưỡng đầu để tập trung quyền lực tập thể dòng họ. Do quân quyền Nho giáo một vua có quyền lực tuyệt đối chưa đỉnh điểm nên lưỡng đầu là phương pháp tối ưu để tạo quyền lực nhà nước được quản lý bởi những người trong họ tộc. Còn thời nhà nhà Lý, Thái Thượng Hoàng chỉ xuất hiện rất ít trong những trường hợp đặc biệt như bị ép buộc để tước đoạt quyền lực vua và không có quyền lực. Hay nói cách khác, có thái thượng hoàng nhưng không phải lưỡng đầu.
* Điểm giống và khác nhau về bộ máy nhà nước Lý - Trần và Lê sơ:
* Điểm giống:
- Bộ máy nhà nước được thành lập từ trung ương đến địa phương.
- Quyền lực tập trung vào tay triều đình.
* Điểm khác:
- Đời Lý - Trần có chức Tể tướng nắm quyền hành thay vua nhưng đối với thời Lê sơ đã nhận ra khuyết điểm khi có chức Tể tướng cho nên đã bỏ chức tể tướng nhằm thâu tóm quyền lực vào tay vua.
- Ở địa phương: Thời Lý - Trần có chức xã quan nhưng nhà Lê sơ nhận thấy được hạn chế của xã quan cho nên mới bỏ chức xã quan thay vào đó là chế định do nhân dân bầu để làm xã trưởng.
*
--------------------*     ---------     *--------------------

Câu 8: Phương thức tuyển mộ quan lại của các thi kỳ. Nhận xét về ưu khuyết của từng phương thức.
Trả lời
* Phương thức tuyển mộ quan lại đời Lý:
 - Nhiệm tử: Nhà nước phong kiến cần có một đội ngũ quan lại đông đão và có năng lực, nên chế độ tuyển bổ quan lại trong số con cháu của quý tộc quan liêu thịnh hành dưới các triều đại Đinh, Lê và đầu Lý gọi là chế độ nhiệm tử.
- Thủ sĩ: Nhìn thấy được điểm yếu của hình thức thủ sĩ cho nên đã dần dần kết hợp với chế độ tuyển dụng thông qua thi cử gọi là thủ sĩ.
* Phương thức tuyển mộ quan lại thời kỳ Trần:
Nhà Trần cũng sử dụng các phương thức tuyển bổ như thời Lý nhưng đặc biệt coi trọng hình thức thủ sĩ. Chính vì vậy những người được tuyển dụng theo hình thức này sẽ đảm nhận những trọng trách quan trọng và cũng chính điều đó mà chế độ thi cử đời Trần phát triển rất mạnh và nó được tổ chức thành lệ hàng năm mà nội dung thi là nho giáo.
* Phương thức tuyển mộ quan lại thời kỳ Lê sơ: Thời kỳ Lê sơ  có 4 hình thức tuyển mộ quan lại:
1) Khoa cử: Là qui trình hai bước học và thi với các tiêu chuẩn sau
Một là, có trình độ học vấn thể hiện trước và trong khi thi;
Hai là, có đạo đức tư cách trong suốt quá trình học tập, lúc đi thi (những người đi thi đều phải trải qua thể lệ bảo kết và thi khảo hạch tức là phải đủ tư cách) và khi làm quan;
Ba là, có năng lực làm việc trong thời gian tập sự cũng như suốt quá trình làm quan.
Khoa cử thời Lê Thánh Tông thực sự phát triển, trở thành hình mẫu tiêu biểu cho các triều đại sau này. Khoa cử trở thành phương thức chủ yếu để tuyển lựa quan lại của nhà nước từ triều đình đến địa phương. Những chức vụ thấp hơn, kể cả các thuộc lại ở bộ, ty, viện đều phải qua thi cử. Việc tuyển chọn quan lại bằng con đường khoa cử có ba ưu điểm lớn.
Thứ nhất, tiêu chuẩn xét tuyển thống nhất trong phạm vi cả nước và khách quan, công bằng, khuyến khích học tập.
Thứ hai, những người tham gia thi bình đẳng về cơ hội, không phân biệt thành phần, giàu nghèo, sang hèn hoặc tuổi tác.
Thứ ba, tạo sự kết hợp giữa học tập, thi cử và tham chính, thúc đẩy xã hội coi trọng giáo dục, văn hóa và tài năng cá nhân.
2) Tiến cử: Là chọn người tài, đức hơn hẳn từ trong nhân dân mà không căn cứ thân phận. Chế độ này cho phép một vị quan được đề nghị đưa một người có tài nhưng vì nhiều nguyên nhân mà chưa có điều kiện đi thi (hoặc thi không đỗ) được giữ một chức quan nào đó. Vào đầu triều Lê Sơ, việc tiến cử và tự tiến cử rất được đề cao. Tiến cử người hiền tài trở thành nhiệm vụ mà các quan từ tam phẩm trở lên phải thực hiện. Khi quan tiến cử được người tài sẽ được thưởng theo mức độ tài, đức của người được tiến cử. Người tiến cử phải lấy tước vị, phẩm hàm của mình để đảm bảo rằng người được tiến cử là có tài, xứng đáng với chức vị được giao.
 3) Bảo cử: Là  chọn những quan lại có quá trình làm quan tốt, tài năng và có kinh nghiệm thực tiễn quan trường để bổ sung vào những chức vị quan trọng đang khuyết ở Triều đình và địa phương. Các trường hợp bảo cử cần phải tuân theo những thủ tục sau: Các quan đứng đầu nha môn, có chức khuyết, giới thiệu người mình thấy xứng đáng với chức đó lên Bộ Lại. Các quan ở Lại Khoa và Ngự sử đài phải ghi chép bản đề nghị đó rõ ràng để sau này người được giới thiệu không xứng đáng thì sẽ trị tội người giới thiệu. Sau đó, Bộ Lại sẽ xem xét và nếu chấp thuận thì tâu lên vua, đợi chiếu chỉ của vua ban xuống, sẽ chuyển qua các quan chính đường tra xét lại. Lại Khoa xét lần cuối cùng. Bộ Lại làm sắc mệnh cho viên quan được đề cử ra làm việc. Cách thức này được áp dụng thường xuyên, trở thành nền nếp thời Lê Thánh Tông và được kế tục ở các đời sau.
4) Nhiệm tử (tập ấm): Là định lệ của Triều đình dựa vào ân trạch của cha ông mà được bổ vào một chức quan nào đó. Theo tinh thần “trọng thị công thần”, khi một nhân thân, nhờ tiêu chí “thân huân” được tuyển dụng vào cương vị quan chức cao, thì con cháu người đó, nhờ được tín nhiệm về mặt lý lịch, cũng được “tập ấm”, được phong “ấm tước” mà trở thành quan chức. Trường hợp viên quan nào có quyền tập ấm mà lại không có con trai thì được phép nuôi một người con của họ hàng thân thích trong họ làm thừa kế để hưởng tập ấm. Lê Thánh Tông thực hiện rất ít chế độ tập ấm, chủ yếu vào những năm mới lên ngôi.
*
--------------------*     ---------     *--------------------

Câu 9: Tại sao nói bộ máy nhà nước thời kỳ Lê sơ đã phát triển tới mức hoàn thiện nhất.
Trả lời
Bởi vì dưới thời vua Lê Thánh Tông, bộ máy nhà nước đã được xây dựng một cách chặt chẽ từ trung ương đến địa phương, nhà Hậu Lê đã quy định rõ chức tước, phẩm hạng; nhiệm vụ của các cơ quan và các chức quan. Nhà Lê cho ra đời cuốn “Đạo dụ”, cuốn sách này được xuất bản năm 1471, ở đây nhà Lê đã quy định phẩm hạng của quan lại được chia làm 24 bậc, trong 24 bậc đó có các tước phẩm cụ thể.
1/ Bộ máy nhà nước ở Trung ương:
- Vua nắm cả 3 quyền nhưng nó khác với Lý - Trần là nhà Hậu Lê đã xóa đi chức tể tướng, để nhà vua là người điều hành trực tiếp nhằm thu hút tất cả quyền lực vào tay vua. Dưới vua còn có các quan văn, quan võ và các cơ quan chuyên môn.
- Quan văn: gồm có 6 bộ, 6 khoa và 6 tự:
6 bộ:
+ Bộ binh: là bộ trông coi về quân đội.
+ Bộ hình: trông coi về xét xử
+ Bộ lại: trông coi về mặt giấy tờ, văn bản.
+ Bộ lễ: trông coi về mặt phép tắt, xã giao.
+ Bộ hộ: Trông coi về mặt dân sự.
+ Bộ công: trông coi về mặt đất đai.
6 khoa đi kèm với 6 bộ để kiểm tra, giám sát các hoạt động của 6 bộ.
6 tự bao gồm: Đại Lý tự, thái thượng tự, Thái bộ tự, khoan lộ tự, hồng lân tự, thượng bảo tự. Nhiệm vụ của 6 tự là làm những việc mà 6 khoa và 6 bộ chưa làm.
- Quan võ: Gồm tả đô đốc và hữu đô đốc để điều khiển toàn bộ các hoạt động khi đất nước có chiến tranh.
- Các cơ quan chuyên môn:
+ Ngự sử đài: Đây là cơ quan chuyên để vua quan bàn bạc về những vấn đề chính sự đương thời. Ngự sử đài còn là nơi xét duyệt các bản án, những đơn thư khiếu nại tồn đọng và cũng là nơi khiển trách, nhắc nhỡ các quan đầu triều.
+ Hàn lâm viện: là nơi lưu giữ, soạn thảo những chiếu, biểu, chứng chỉ của nhà vua.
+ Quốc tử giám: Đây là cơ quan đào tạo ra các sĩ tử, nhân tài cho đất nước, có thể nói rằng đây là trường đại học đầu tiên của Việt Nam.
+ Quốc sử việt: Đây là cơ quan viết sử.
Tóm lại bộ máy nhà nước trung ương thời Hậu Lê đã thực thi một chế độ quân chủ tuyệt đối với bộ máy hoàn thiện và các cơ quan phát triển.
2/ Bộ máy nhà nước ở địa phương:
Từ năm 1471 Lê Thánh Tông đã chia đất nước thành 13 đạo, dưới đạo là phủ, dưới phủ là huyện, dưới huyện là châu, dưới châu là xã.
- Đạo: Nhà Hậu Lê đã học tập nhà Minh triệt để thực hiện việc phân chia quyền lực nhà nước ở địa phương. Ở cấp đạo hình thành nên 3 cơ quan quyền lực:
+ Đô ty: là cơ quan chỉ huy về quân sự.
+ Thừa ty: cơ quan quản lý về hành chính.
+ Hiến ty: Cơ quan phụ trách xét xử, kiện tụng, kiểm tra, giám sát tất cả các hoạt động trong đạo để báo cáo với triều đình trung ương.
Trong 3 cơ quan trên nhà Hậu Lê đặc biệc chú ý tới vai trò của Hiến ty. Vì vậy muốn bổ nhiệm quan lại cho Hiến ty thì người đó phải là tiến sĩ và phải là người mang đức thanh liêm.
Ở cấp đạo quyền lực nhà nước được phân định rõ ràng, nó có 3 cơ quan riêng biệt được phát triển và hoàn thiện hơn so với thời kỳ Lý - Trần.
- Xã: là cấp hành chính nhỏ nhất nhưng lại rất quan trọng vì tất cả các chính sách của nhà nước đều hoạt động thông qua cấp xã, sự cải cách được thể hiện ở chổ:
+ Xóa bỏ chế độ xã quan do bổ nhiệm mà thay vào đó là chế độ xã trưởng do dân bầu.
+ Nhà Hậu Lê đã định ra một số tiêu chuẩn cụ thể cho xã trưởng. Nếu muốn làm xã trưởng thì phải có điều kiện như sau: 30 tuổi trở lên, phải là người gốc Đại Việt và phải biết chữ.
+ Nhà Hậu Lê đã phân đơn vị hành chính cấp xã thành 3 loại như sau:
. Tiểu xã: là những xã có 100 hộ trở lên, nếu là xã ở vùng núi, hải đảo là 60 hộ trở lên.
. Trung xã: là những xã có từ 300 hộ trở lên.
. Đại xã: Có 500 hộ trở lên.
Nhà Hậu Lê cũng ban hành thể lệ, điều kiện để tách xã cũ lập thêm xã mới đó là nếu tiểu xã phát triển vượt quá quy định thì sẽ được chuyển thành Trung xã, nếu trung xã phát triển thì chuyển thành đại xã. Như vậy có thể nói rằng nhà Hậu Lê đã xây dựng được các đơn vị hành chính cơ sở phù hợp, tránh tình trạng chỉ có một loại như  thời phong kiến trước đó.
Tóm lại, so với thời Lý - Trần - Hồ, thời kỳ này bộ máy nhà nước hoàn bị hơn hẳn. Sự hoàn bị và được đánh giá cao trong tổ chức chính quyền thời kỳ này là bên cạnh việc phân công chức năng, nhiệm vụ tương đối rõ ràng giữa các cơ quan còn có cả những thiết chế giám sát, phản biện như Lục khoa và đặc biệt là cơ quan Ngự sử đài.
Nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao tính chất hoàn bị của mô hình này không chỉ ở chỗ bộ máy thời kỳ này có nhiều chức quan hơn, được chuyên môn hoá hơn so với thời kỳ trước mà chính ở việc đã có sự xuất hiện của những thiết chế và cách thức giám sát quyền lực, mặc dù tính chất, mức độ còn rất sơ khai.
*
--------------------*     ---------     *--------------------

Câu 10: Phân tích địa vị và quyền lực của Nhà vua trong Nhà nước Phong kiến Việt Nam.
Trả lời
Trong gần chín thế kỷ (939-1858), đất nước ta đã trải qua các triều đại như: Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu lê, Mạc, Tây Sơn, Nguyễn… với rất nhiều các vị vua nổi tiếng như: Tiền Ngô Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Hồ Quý Ly, Lê Thánh Tông, Gia Long, Minh Mạng… Bên cạnh đó, cũng đã xuất hiện không ít các vị vua hoang tàn, bạo ngược như Lê Uy Mục, Lê Tương Dực…
 1) Địa vị của nhà vua trong nhà nước Phong kiến Việt Nam:
Trong chế độ Phong kiến, đặc biệt là quan điểm của Nho giáo, vua được coi là “Thiên Tử” (con Trời). Về địa vị của nhà vua, thuyết "Mệnh Trời" (Thiên Mệnh) đã chỉ rõ:
- Vua là người đại diện cho Thượng đế (Trời) để cai trị dân, là người “thay Trời hành đạo”, đồng thời cũng là người đại diện cho dân trước Thượng đế: Mọi ý chỉ, mệnh lệnh của vua đều được cho là theo “Mệnh Trời” nên trong các chiếu chỉ thường có “Phụng thiên thừa vận, hoàng đế chiếu viết…” hay như trong Bình Ngô Đại Cáo, câu đầu tiên cũng khẳng định: “Thay Trời hành hoá, Hoàng thượng truyền rằng…”. Cũng chính vì thể theo “Mệnh Trời” nên mệnh lệnh của vua phải tuyệt đối được phục tùng và thực hiện như một điều tất yếu. Bên cạnh đó, các vị vua Phong kiến Việt Nam cũng thường đại diện cho dân trước Thượng đế, thể hiện ở việc lập đàn tế Trời, cầu xin mùa màng tươi tốt, mưa thuận gió hoà để người dân có cuộc sống ấm no, hưng thịnh, thái bình…
- Địa vị và chức năng làm vua là do Trời định sẵn cho người đó (Thiên Mệnh): Đây được coi như một “sự uỷ nhiệm” của Trời. Nếu vị vua đó trở nên hoang tàn, bạo ngược, không thể chăm sóc được cho người dân, thì Trời sẽ bãi bỏ sự uỷ nhiệm của mình và trao địa vị này cho người khác phù hợp hơn thông qua con đường lật đổ vị vua cũ, nếu việc lật đổ thành công thì sự uỷ nhiệm đó đã được trao cho người mới và ngược lại.
- Vua với địa vị của mình chỉ đứng dưới một người là Trời, còn trên muôn người: Trong cả nước, quan lại là bầy tôi của vua, nhân dân là thần dân của nhà vua. Vua là người đứng đầu bách thần trong cả nước. Nước - quốc gia Phong kiến (Sơn hà xã tắc) không phải là của nhân dân mà là của nhà vua.
Như vậy, địa vị của nhà vua đã bao trùm lên toàn bộ đất nước. Và vị vua theo “Thiên Mệnh” sẽ phải chăm sóc, đảm bảo sự thịnh vượng của mọi người dân trong xã hội.
2) Quyền lực của nhà vua:
a) Nhà vua nắm vương quyền: Có thể thấy, với một địa vị là “Thiên Tử”, đứng dưới một người mà trên vạn người, thì nhà vua cũng chính là người nắm trong tay toàn bộ vương quyền của đất nước. Những điều đó được thể hiện ở các điểm sau:
- Về mặt lập pháp: nhà vua chính là người duy nhất có quyền đặt ra pháp luật. Ý chí của nhà vua dưới mọi hình thức đều trở thành pháp luật: Nếu là lời nói thì mệnh lệnh đó sẽ được sứ giả truyền đi khắp nơi và thực thi (“Vua truyền rằng” hay “Vua ban rằng”), nếu là bằng văn bản thì trở thành thánh chỉ, thánh ý…
- Về mặt hành pháp: Nhà vua có toàn quyền bổ nhiệm, thăng giáng, thưởng phạt, thuyên chuyển, quy định quyền hạn, trách nhiệm, lương bổng đối với quan lại trong cả nước (Năm 971, Đinh Tiên Hoàng phong cho Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân; Lê Thánh Tông bãi bỏ chức Đại hành khiển). Như vậy, nhà vua chính là người đứng đầu nền hành chính quốc gia, có quyền lực rất lớn.
- Về mặt tư pháp: Nhà vua chính là người giữ tài phán quyết cao nhất. Thế hiện ở việc vua là người có quyền quyết định cuối cùng đối với bất cứ một vụ án nào. Các bản án vua đã xét xử (dù là sơ thẩm hay phúc thẩm) đều không ai có quyền xét xử lại, không được thụ lý các vụ án mà triều vua trước đã xử… Bên cạnh đó, vua là người duy nhất có quyền đại xá hay đặc xá cho các can phạm.
- Về mặt quân sự: Vua chính là người đứng đầu quân đội, là Tổng tư lệnh quân đội, có quyền bổ nhiệm, bãi miễn các chức trong bộ máy quân sự; ban hành các chính sách quân sự (nhà Lý - chính sách Ngụ binh ư nông)
- Về mặt ngoại giao: Nhà vua là người đại diện hợp pháp duy nhất trong các quan hệ bang giao. Việc đón tiếp hay cử các sứ thần đi bang giao, ký tên các hiệp ước… đều phải do nhà vua trực tiếp hay cử người đi thực hiện, không một cá nhân hay cơ quan nào có quyền hành thay thế được.
- Về mặt kinh tế: Nhà vua là người chủ sở hữu tối cao đối với ruộng đất công của các làng xã trong cả nước, là người duy nhất được phép ban hành các chính sách kinh tế trong nước (nhà Lê Sơ – chính sách Lộc điền, Quân điền)
b) Nhà vua nắm thần quyền: Ngoài vương quyền, với tư cách là con của Trời, nhà vua còn nắm trong tay cả thần quyền, biểu hiện như
- Trong các lễ nghi tôn giáo, nhà vua luôn là chủ tế. Chỉ duy nhất nhà vua mới có quyền tế Trời, còn thần dân chỉ được thờ cúng tổ tiên mình và thần thánh, quỷ thần. Vì quyền tế trời là đặc quyền của nhà vua nên trong lễ tế trời hàng năm người ta thường gọi là tế Nam Giao, ngôi chủ tế lễ bao giờ cũng thuộc về vua.
- Nhà vua chính là người đứng đầu bách thần trong cả nước, có quyền phong chức tước cho thần thánh (bằng các sắc phong thần), điều động thần thánh (quy định nơi thờ cúng thần thánh), khiển trách bằng cách thủ tiêu bằng sắc hoặc phá hủy đền thờ…
c) Nhà vua có những đặc quyền riêng: Với những địa vị và quyền lực lớn về vương quyền và thần quyền như trên, thì nhà vua còn có thêm những đặc quyền, ưu quyền riêng cho mình như:
- Mọi người không được phạm đến tên huý của vua và người thân thích của vua.
- Những gì thuộc về nhà vua đều là cao quý, nên phải dùng những ngôn từ đặc biệt, các mỹ tự như: Thánh ý, Long thể, Ngọc tỷ, Hoàng bào, Long sàn, Châu phê, Ngự bút…
- Màu vàng là màu y phục của vua. Quan lại và thần dân cấm không được mặc quần áo màu vàng, trừ những người được vua ban mặc sắc vàng, làm trái là bị tội khi quân. Từ thời Lý Cao Tông trở đi, chỉ nhà vua mới được mặc áo sắc vàng thêu rồng và trâm cài búi tóc bằng vàng.
- Nhà vua có quyền được thần thánh hoá qua các sử quan, chịu trách nhiệm ghi chép. Như tương truyền khi mới sinh ra, Lý Thái Tổ toả ra một ánh hào quang rực rỡ, ở hai lòng bàn chân có hiện hai chữ “Vương”. Và sự ra đời của triều Lý đã được dự báo từ trước bởi một bài thơ kỳ lạ xuất hiện dưới gốc cây bị sét đánh cũng như rất nhiều các truyền thuyết dân gian khác về các vị vua như Đinh Bộ Lĩnh, Lê Thánh Tông…