Thứ Ba, 4 tháng 6, 2013

ĐÁP ÁN - MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN (Phần 2)

BÀI LÀM MANG TÍNH CHẤT THAM KHẢO

 Câu 1 . Sản xuất hàng hóa là gì? Điều kiện ra đời tồn tại và đặc trưng cơ bản của sản xuất hàng hóa? Ưu thế của kinh tế hàng hóa?
          Bài làm:
1.      Khái niệm sản xuất hàng hoá:
Sản xuất hàng hoá là sản xuất ra sản phẩm để bán.
Hay: Sản xuất hàng hoá là kiếu tổ chức sản xuất mà trong đó sản phẩm làm ra không phải để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người sản xuất ra mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi mua bản.

2. Điều kiện ra đời, tồn tại của sản xuất hàng hoá.
Sản xuất hàng hoá ra đời và tồn tại dựa trên hai điều kiện:
- Thứ nhất: Có sự phân công lao động xã hội :
• Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá sản xuất, phân chia lao động xã hội thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau.
• Phân công lao động xã hội làm cho việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu: bởi vì mỗi ngành mỗi người chỉ sản xuất một vài thứ, trong khi đó nhu cầu cuộc sống lại đòi hỏi có nhiều loại khác nhau. Vì vậy họ cần trao đổi với nhau
Như vậy: phân công lao động là tiền đề là cơ sở của sản xuất hàng hoá. Nhưng để SXHH ra đời chỉ có phân công lao động xã hội thôi thì chưa đủ mà cần phải có điều kiện nữa(điều kiện đủ) cần có điều kiện thứ hai:
- Thứ hai: Có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất có nghĩa là những người sản xuất trở thành chủ thể sản xuất, độc lập nhất định sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ. Vì vậy, người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác phải thông qua trao đổi mua bán hàng hoá.
Sự tách biệt này là do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định. Vì chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất làm cho tư liệu sản xuất thuộc sở hữu cá nhân, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ. Vậy người này muốn tiêudùng sản phẩm lao động của người khác cần phải thông qua trao đổi mua bản hàng hóa.
Trong điều kiện của nền sản xuất hiện đại, sự tách biệt này còn do các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tư liệu sản xuất quy định.
Vậy điều kiện thứ hai cùng có thể hiểu là: Có chế độ tư hữu và sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất.
Đó là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hoá. Thiếu một trong hai điều kiện đó thì sản xuất hàng hoá không thể ra đời và cũng không thể tồn tại.
2.      Đặc trưng cơ bản của sản xuất hàng hoá.
Thứ nhất: Sản xuất hàng hoá là sản xuất cho thị trường trên cơ sở khai thác  những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở sản xuất, từ đó tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Tức sự gia tăng không hạn chế nhu cầu của thị trường là một động lực thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ hai: Cạnh tranh đòi hỏi phải cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tiêu thụ được hàng hóa để nâng cao lợi nhuận. Nghĩa là cạnh tranh đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.
Thứ ba: Sản xuất hàng hóa phát triển theo tính chất “mở”- giao lưu trong nước và quốc tế ngày càng phát triển. Tức sản xuất hàng hóa là nhằm tạo điều kiện ngày càng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, sản xuất hàng hoá cũng có những mặt trái của nó như phân hoá giàu - nghèo giữa những người sản xuất hàng hoá, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng, phá hoại môi trường sinh thái, vv…
Ưu thế của kinh tế hàng hoá
+ Sản xuất hàng hoá ra đời dựa trên sự phân công lao động xã hội, sự chuyên môn hoá sản xuất. Do đó nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở....Đồng thời khi sản xuất hàng hóa phát triển lại tác động trở lại làm cho phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa lao động, sản xuất ngày càng phát triển.....Nó phá vỡ tính tự cung tự cấp, bảo thủ lạc hậu của mỗi ngành, mỗi địa phương làm cho năng suất lao động xã hội ngày một tăng lên nhanh chóng, nhu cầu xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn...
+ Trong nền sản xuất hàng hoá thì quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi nhu cầu và nguồn lực mang tính chất hạn hẹp, khép kín của từng gia đình, cơ sở, địa phương.... mà nó được mở rộng dừa trên nhu cầu và nguồn lực của xã hội , quốc gia, quốc tế. Điều đó lại tạo điều kiện cho việc ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ và quá trình sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển.
+ Trong nền sản xuất hàng hoá, sự tác động của những quy luật vốn có của sản xuất và trao đổi hàng hoá như quy luật giá trị, cung cầu, quy luật cạnh tranh..... buộc người sản xuất hàng hoá phải luôn năng động, nhạy bén, biết tính toán, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiều quả kinh tế.... làm cho chi phí sản xuất thấp, đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng.
+ Trong nền sản xuất hàng hoá, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước... không chỉ làm cho đời sống vật chất và đời sống tinh thần ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên bên cạnh mặt tích cực sản xuất hàng hóa còn có những mặt tiêu cực: Sự phân hóa giầu nghèo, tiềm ẩn những khả năng khuỷng hoẳng, phái hoại môi trường sinh thái xã hội....

CÂU 2: phân tích Tính chất hai mặt của lao dộng sản xuất hàng hóa.? Ý nghĩa của việc phát hiện tính chất 2 mặt đối với việc làm rõ thực chất của giá trị hàng hóa.
Bài làm:
Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính gia trị sử dụng và giá trị do tính chất 2 mặt của LĐ SX hàng hóa quyết định tính chất 2 mặt đó là tính chất cụ thể( lao động cụ thể) và tính chất trừu tượng(LĐ trừu tượng) C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt đó.
a) Lao động cụ thể
+Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
+Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau. Chẳng hạn, lao động của người thợ may và lao động của người thợ mộc là hai loại lao động cụ thể khác nhau. Lao động của người thợ may có mục đích là làm ra quần áo chứ không phải là bàn ghế; còn phương pháp là may chứ không phải là bào, cưa; có công cụ lao động là kim, chỉ, máy may chứ không phải là cái cưa, cái bào...; và lao động của người thợ may thì tạo ra quần áo để mặc, còn lao động của người thợ mộc thì tạo ra ghế để ngồi...
+Điều đó có nghĩa là: lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
+Trong xã hội có nhiều loại hàng hóa với những giá trị sử dụng khác nhau là do có nhiều loại lao động cụ thể khác nhau. Nếu phân công lao động xã hội càng phát triển thì càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau để đáp ứng nhu cầu của xã hội.
b) Lao động trừu tượng:
+Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó, hay nói cách khác, đó chính là sự tiêu hao sức lao động (tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng hóa nói chung. Như vậy, có thể nói, giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.
+ Chính lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa mới tạo ra giá trị của hàng hóa. Lao động trừu tượng là 1 phạm trù lịch sử riêng có của sản xuất hàng hóa.
+ Ở đây ko phải có 2 thứ lao động khác nhau mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hóa nhưng lao động đó mang tính 2 mặt: vừa lao động cụ thể vừa lao động trừu tượng.
+ Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ảnh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động của người sản xuất hàng hóa.
+ Như trên đã chỉ ra, mỗi người sản xuất hàng hoá sản xuất cái gì, sản xuất nhưthế nào là việc riêng của họ. Vì vậy, lao động đó mang tính chất tư nhân, và lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân.
+ Đồng thời, lao động của người sản xuất hàng hóa là lao động xã hội vì nó là một bộ phận của toàn bộ lao động xã hội trong hệ thống phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hóa.. Do đó, lao động trừu tượnglà biểu hiện của lao động xã hội.
+ Giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn với nhau. Mâu thuẫn đó được biểu hiện cụ thể trong hai trường hợp sau:
- Sản phẩm do những người sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra có thể không ăn khớp với nhu cầu của xã hội. (hoặc không đủ cung cấp cho xã hội hoặc vượt quá nhu cầu của xã hội...). Khi sản xuất vượt quá nhu cầu của xã hội, sẽ có một số hàng hóa không bán được, tức không thực hiện được giá trị.
- Mức tiêu hao lao động cá biệt của người sản xuất hàng hóa cao hơn so với mức tiêu hao mà xã hội có thể chấp nhận, khi đó hàng hóa cũng không bán được hoặc bán được nhưng không thu hồi đủ chi phí lao động bỏ ra.
+Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong nền sản xuất hàng hoá. Chính vì những mâu thuẫn đó mà sản xuất hàng hoá vừa vận động phát triển, vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng.
Vậy: Xét lao động cụ thể là xem lao động đó tiến hành như thế nào, sản xuất ra cái gì. Lao động trừu tượng là tốn bao nhiêu sức lực, hao phí bao nhiêu thời gian lao động. Cần thấy rằng không phải có hai thứ lao động được kết tinh trong một hàng hoá mà chí có lao động của ngươì sản xuất hàng hoá. Nhưng lao động đó có tính 2 mặt: 1 mặt là lao động cụ thể và một mặt là lao động trừu tượng.
ý nghĩa: Việc phát hiện ra tính chất hai mặt của Lđ SX hàng hóa của Cmác có ý nghĩa rất to lớn.
            - Đem lại học thuyết gia giá trị lđmột cơ sở khoa học thực sự . Các nhà KT học trước Mác cho rằng LĐ tạo ra giá trị nhưng khong biết mặt nào tạo ra giá trị , Các mác phát hiện ra mặt LĐ người của SX hh tạo ra giá trị hàng hóa
            - Nhờ phát hiện ra tính chất 2 mặt của lđ sx hh. Cac mác đã giải thích được gồm gốc thực sự của GT thặng dư , phân tích được bản chất cơ bản bất biến và tư bản khả biến do đó đem lại cơ sở vững chắc cho học thuyết gia trị thặng dư , học thuyết tích lũy , hoc thuyết tái SX

Câu 3: Phân tích lượng giá trị hàng hoá và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị?.
Bài làm:
1. Lượng giá trị hàng hóa 
Giá trị hàng hóa bao gồm cả chất và lượng: Chất giá trị hàng hóa là do lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.   Lượng giá trị của hàng hóa là do lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định.  
a. Thước đo lượng giá trị hàng hóa:
Mỗi chủ thể kinh doanh có 1 lượng hao phí lao động thực tế nhất định trong quá trình sản xuất hàng hóa, đó là thời gian lao động cá biệt. Thời gian này xác định giá trị cá biệt của hàng hóa. Trên thị trường không thể dựa vào giá trị cá biệt của hàng hóa để trao đổi, mà phải dựa vào giá trị xã hội của hàng hóa. Giá trị xã hội của hàng hóa được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hóa. => Thước đo lượng giá trị của hàng hóa được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa trong điều kiện bình thường của xã hội (với một trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định).
Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết được xác định theo thời gian lao động cá biệt của những người sản xuất và cung ứng tuyệt đại bộ phận loại hàng hóa đó trên thị trường.
    2. Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa  
-  Thứ nhất là năng suất lao động:
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Có hai loại năng suất lao động: Năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động xã hội. Trên thị trường hàng hóa được trao đổi không phải theo giá trị cá biệt mà là giá trị xã hội => Năng suất lao động xã hội có ảnh hưởng đến giá trị xã hội của hàng hóa.
 Khi năng suất lao động xã hội tăng lên thì thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra 1 đơn vị hàng hóa giảm xuống, do đó lượng giá trị của 1 đơn vị hàng hóa giảm xuống (và ngược lại). Lượng giá trị của hàng hóa tỷ lệ thuận với số lượng lao động xã hội cần thiết kết tinh troang hàng hóa và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội => Muốn giảm giá trị của hàng hóa thì phải tăng năng suất lao động xã hội.
Năng suất lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Trình độ khéo léo của người lao động; Sự phát triển của KHKT-CN và trình độ ứng dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất; Sự kết hợp xã hội của sản xuất; Hiệu quả của TLSX và các điều kiện tự nhiên.
  Cường độ lao động là khái niệm nói lên mức độ khẩn trương, là sự căng thẳng mệt nhọc của người lao động. Khi cường độ lao động tăng thì lượng hao phí trong cùng một đơn vị thời gian tăng, lượng sản phẩm được tạo ra tăng nhưng lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm thì không đổi. Về bản chất tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động.  
   Thứ hai, mức độ phức tạp của lao động:  Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị của hàng hóa.
+ Lao động giản đơn là sự hao phí lao động một cách giản đơn mà bất kỳ một người bình thường nào có khả năng lao động cũng thực hiện được.
+ Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động lành nghề.
Trong cùng 1 thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá  trị hơn lao động giản đơn. Tuy nhiên, để tiến  hành trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp được quy thành lao động giản đơn trung bình trên cơ sở lao động phức tạp bằng bội số của lao động giản đơn hay bằng lao động giản đơn nhân bội lên.
Lượng giá trị của hàng hóa vì thế được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.
Cấu thành lượng giá trị của hàng hóa là W = c + v + m. Trong đó c là giá trị cũ (lao động cụ thể của người sản xuất bảo tồn và di chuyển giá trị của tư liệu sản xuất vào sản phẩm); v + m là giá trị mới trong sản phẩm (lao động trừu tượng – hao phí lao động sống trong quá trình sản xuất ra sản phẩm – làm tăng thêm giá trị cho sản phẩm).
Câu 4. Tư bản là gì?  Tại sao nói công thức chung của tư bản có mâu thuẫn? vì sao phân tích hàng hóa sức lao động là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn đó?
Bài làm:
1. Công thức chung của tư bản:
Trong lưu thông hàng hóa giản đơn H-T-H, T không phải là tư bản. Ở đây T chỉ là phương tiện để đạt tới một mục đích bên ngoài lưu thông.
Chỉ trong lưu thông T-H-T thì T mới là tư bản. Ở đây T vừa là điểm khởi vừa là điểm kết thúc của quá trình lưu thông, H chỉ là khâu trung gian. Tiền ở đây không chi ra dứt khoát mà chỉ ứng ra rồi thu về nhiều hơn.
Mục đích của lưu thông tư bản T-H-T không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Chính vì thế công thức chung của tư bản là T-H-T’, trong đó T’=T+∆T. ∆T là số tiền trội hơn so với số tiền đã ứng ra (giá trị thặng dư). T-H-T’ đúng cho vận động của tư bản: Với tư bản công nghiệp là những giai đoạn T-H và H-T’, còn tư bản cho vay lấy lãi là từ công thức chung được rút gọn thành T-T’.
Như vậy: “Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư (GTTD)”.
Sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư trong CNTB, có thể định nghĩa đầy đủ: “Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không công của công nhân làm thuê”.
2. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản:
- Công thức chung của tư bản:  T-H-T'  (T’ = T + ∆T). Vậy ∆T xuất hiện từ đâu?
+ Trong lưu thông:
Trong lưu thông, dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì cũng không tạo ra  ∆T
* Trường hợp trao dổi ngang giá: Chỉ là sự thay đổi của hình thái giá trị từ T-H và từ H-T nhưng tổng giá trị và phần giá trị của mỗi bên tham gia trao đổi trước và sau đều không thay đổi. Tuy nhiên, về giá trị sử dụng thì đôi bên đều có lợi.
* Trường hợp trao đổi không ngang giá, có thể có ba trường hợp xảy ra:
Thứ 1, Trong trường hợp nhà tư bản bán hàng hóa cao hơn giá trị, nhưng đến lượt anh ta lại là người đi mua (vì không có ai chỉ bán mà không mua) thì phải mua hàng hóa cao hơn giá trị ấy. Hành vi bán hàng hóa cao hơn giá trị không mạng lại bất cứ chút thặng dư (∆T) nào.
Thứ 2, Trường hợp nhà tư bản cố mua hàng hóa thấp hơn giá trị cũng không mang lại chút thặng dư (∆T) nào. Vì đến khi anh ta bán cũng buộc phải bán hàng hóa thấp hơn giá trị.
Thứ 3, nếu xã hội có một số kẻ lường gạt chuyên mua rẻ, bán đắt thì cái ∆T hắn có là do chiếm đoạt của người khác mà có. Cái hắn được là cái người khác mất đi, nhưng trong toàn xã hội thì tổng giá trị của hàng hóa là không thay đổi.
  Như vậy, trong lưu thông dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá đều không tạo ra giá trị thặng dư cho các nhà tư bản.
 + Ngoài lưu thông:
Nếu người trao đổi vẫn đứng 1 mình với hàng hóa của anh ta, thì giá trị của hàng hóa ấy không hề tăng lên.
Nếu người sản xuất muốn sáng tạo thêm thặng dư thì phải bằng lao động của chính mình. Chẳng hạn da thuộc phải trở thành giày da, ở đó giày da có giá trị lớn hơn da thuộc vì nó đã thu hút nhiều lao động vào trong giày da. Còn giá trị của da thuộc vẫn không đổi.
Vậy là "Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải  xuất hiện trong lưu thông, đồng thời không phải trong lưu thông"[1].
Đó chính là mâu thuẩn trong công thức chung của tư bản. Để giải quyết mâu thuẩn đó, C.Mác đã chỉ rõ: "Phải lấy những quy luật nội tại của lưu thông hàng hoá làm cơ sở".
3. Hàng hoá sức lao động là chìa khoá để giải quyết mâu thuẩn trong công thức chung của tư bản: 
a) Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:  “Sức lao động, đó là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong cơ thể một con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích”[2].
Không phải sức lao động nào cũng trở thành hàng hóa. Trong xã hội nô lệ thì sức lao động của nô lệ không phải là hàng hóa vì bản thân anh ta đã thuộc sở hữu của chủ nô, anh ta không có quyền bán sức lao động. Người thợ thủ công tự do tuy được tùy ý sử dụng sức lao động của mình nhưng sức lao động của anh ta cũng không phải là hàng hóa vì anh ta chỉ sản xuất tự cung tự cấp nuôi sống mình, chứ chưa buộc phải bán sức lao động để kiếm sống.
Sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi đồng thời thỏa mãn hai điều kiện sau: Người lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao động của mình và có quyền bán sức sức lao động của mình như một hàng hóa.; Người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt trở thành “vô sản”, để tồn tại anh ta buộc phải bán sức lao động của mình để kiếm sống.
Sức lao động biến thành hàng hóa là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản. Nhưng trước CNTB thì hàng hóa sức lao động chưa xuất hiện. Chỉ dưới CNTB thì hàng hóa sức lao động mới xuất hiện và trở thành phố biến.
b) Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động: Giá trị hàng hóa sức lao động cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định. Muốn sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động người công nhân phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt cần thiết về ăn, ở, mặc, học nghề... Ngoài ra họ còn phải thỏa mãn những nhu cầu của gia đình và con cái.
Giá trị của hàng hóa sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động. Giá trị ấy được hợp thành bởi: Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao dộng, duy trì đời sống của bản thân người công nhân; Phí tổn đào tạo người công nhân; Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái người công nhân. Sự biến đổi giá trị hàng hóa sức lao động một mặt tăng lên do sự tăng lên của nhu cầu trung bình của xã hội về hàng hóa, dịch vụ, học tập, học nghề... mặt khác lại bị giảm xuống do sự tăng năng suất lao động xã hội.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động. Nhưng khác với hàng hóa thông thường, quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động lại là quá trình tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hóa sức lao động.
Nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường một loại hàng hoá đặc biệt, đó là hàng hoá sức lao động, mà giá trị sử dụng của nó có tính chất đặc biệt là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt. Chính đặc tính này đã làm cho hàng hoá sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển thành tư bản. Do đó việc tìm ra và lý giải phạm trù hàng hoá sức lao động được coi là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản. Nếu "T" của tư bản  không dùng để bóc lột sức lao động của công nhân thì không thể có "T'=T+∆T”.

Câu 5.  Sự giống và khác nhau giữa các  phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối, tuyệt đối và siêu ngạch? Ý nghĩa của việc nghiên cứu này?
Bài làm :
+ Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Là phương pháp sản xuát giá trị thặng dư bằng cách kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu; trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
· Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là cơ sở chung của chế độ tư bản chủ nghĩa. Phương pháp này được áp dụng phổ biến ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, khi lao động còn thấp.
· Với lòng tham không đáy, nhà tư bản mọi cách kéo dài ngày lao động để nâng cao trình độ bóc lột. Nhưng do giới hạn về ngày tự nhiên, về sức lực con người nên không thể kéo dài vô hạn. Mặt khác, còn do đấu tranh quyết liệt những giai cấp công nhân đòi rút ngắn thời gian lao động cũng không thể rút ngắn chỉ bằng thời gian lao động tất yếu. Một hình thức khác của sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là tăng cường lao động vì tăng cường lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động trong ngày trong khi thời gian lao động càn thiết không thay đổi.
+ Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối: Là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian loa động thặng dư lên trong điều kiện độ dài ngày lao động, cường độ lao động cũng như cũ.
Để hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm bớt giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người công nhân. Muốn vậy, phải tăng năng suất lao động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất ra các tuw liệu sản xuất tiêu dùng.
- Giữa hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối có điểm giống nhau đều làm tăng thời gian lao động thặng dư của người công nhân không chỉ đủ nuôi sông mình, mà còn tạo ra phần thặng dư. Song, hai phương pháp này có sự khác nhau về cách thức làm tăng thời gian lao động thặng dư.
+ Giá trị thặng dư siêu ngạch: Là giá trị thặng dư thu được do người áp dụng công nghẹ mới sớm hơn các xí nghiệp khác, làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị thị trường của nó. Khi đa số các xí nghiệp đều đổi mới kỹ thuật và công nghệ thì giá trị thặng dư sieu ngạch của doanh nghiệp đó không còn nữa.
Xét từng đơn vị sản xuất tư bản chủ nghĩa, giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, cục bộ. Nhưng xét về toàn bộ tư bản, giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng thường xuyên. Vì vậy, giá trị thặng dư siêu ngạch là một động lực thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động.
Giá trị thăng dư siêu ngạch là giá trị thặng dư tương đối giống nhau ở chỗ đều là tăng năng suất lao động. Vì vậy giá trị thặng dư siêu ngạch là biến tướng của giá trị thặng dư tương đối. Nhưng giữa chúng có sự khác nhau: giá trị thặng dư siêu ngạch dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động cá biệt; còn giá trị thặng dư tương đối thì dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động.
*NÊU Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU CÁC VẤN ĐỀ NÀY.
Mục đích của các nhà TB là sx ra giá trị thặng dư tối đa, vì vậy các nhà TB dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và GTTD. Khái quát có 2 phương pháp để đạt được múc đích đó là Sx GTTD tuyệt đối & sx GTTD tương đối. 2 phương pháp này được các nhà TB sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trinh phát triển của CNTB. Ta thấy ngay được rằng, giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất thúc đẩy các nhà TB cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sx, hoàn thiện tổ chức lao động & tổ chức sx để tăng năng suất lao động và giảm giá trị của Hàng Hóa

Câu 6: Chứng minh rằng  sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế  cơ bản của chủ nghĩa tư bản? Nội dung,  vai trò và biểu hiện của quy luật này?
Bài làm:
Quy luật kinh tế cơ bản là quy luật phản ánh bản chất và mục đích của 1 fương thức sản xuất. Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế cơ bản. Bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất, công nhân buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản.
          Lao động ko công của công nhân làm thuê là nguồn gốc của giá trị thặng dư, nguồn gốc làm giàu của nhà tư bản. Sản xuất giá trị thặng dư là mục đích duy nhất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì mục đích đó các nhà tư bản sản xuất bất cứ loại hàng hoá nào kể cả vũ khí giết người miễn là thu đc nhiều giá trị thặng dư. Phương tiện để đạt đc mục đích là tăng cường bóc lột công nhân làm thuê trên cơ sở phát triển kỹ thuật tăng cường lao động, kéo dài ngày lao động, tăng năng suất lao động....
         Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
          Nội dung của Quy luật:
          Là tạo ra càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản bằng cách tăng cường các phương tiện kỹ thuật và quản lí để bóc lột ngày càng nhiều lao động làm thuê. Quy luật giá trị thặng dư có tác dụng manh mẽ trong nhiều mặt của đời sống xã hội. Một mặt nó thúc đẩy kỹ thuật và fân công lao động fát triển, làm cho lực lượng sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa fát triển với tốc độ nhanh và nâng cao năng suất lao động. Mặc khác, nó làm cho các mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản trc hết là mâu thuẫn cơ bản của nó, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất vs sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ngày càng gay gắt.
Sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa ko chỉ phản ánh mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa mà còn vạch rõ fương tiện, thủ đoạn mà các nhà tư bản sử dụg để đạt đc mục đích như tăng cường bóc lột công nhân làm thuê bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động, tăng năng suât lao động và mở rộng sản xuất.
Biểu hiện của quy luật:
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh quy luật giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân. Bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, các tổ chức độc quyền thao túng kinh tế bằng giá cả độc quyền và thu được lợi nhuận độc quyền cao. Do đó quy luật lợi nhuận độc quyền cao chỉ là hình thức biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa
         - Nguồn gốc lợi nhuận độc quyền cao
         + Là lao động không công của công nhân ở các xí nghiệp độc quyền
         + Một phần lao động không công của công nhân ở các xí nghiệp không độc quyền
         + Một phần giá trị thặng dư của các nàh tư bản vừa và nhỏ bị mất đi do thua thiệt về cạnh tranh
         + Lao động tất yếu của những người sản xuất nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản và các nước thuộc địa phụ thuộc 

 Như vậy, sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng vs sự ra đời và tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Nó quyết định các mặt chủ yếu, các quá trình kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa tư bản. Nó là động lực vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời cũng làm cho mọi mâu thuẫn của CNTB, đặc biệt là mâu thuẫn cơ bản của CNTB ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu CNTB bằng 1 XH cao hơn.

Câu 7: Đảng Cộng sản có vai trò như thế nào trong việc hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp  công nhân?

Bài làm:
a. Tính tất yếu, quy luật hình thành và phát triển Đảng của giai cấp công nhân :
- Giai cấp công nhân do bị các chủ tư bản áp bức, bóc lột nên đã vùng lên, tự đấu tranh đòi hỏi đáp ứng những lợi ích kinh tế của giai cấp mình; bắt đầu từ các cuộc đấu tranh tự phát, xuất phát từ các cuộc đình công đòi tăng lương, giảm giờ làm … và vì vậy sức mạnh và hiệu quả đạt được từ các phong trào này thường hạn chế, các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân giai đọan này đa số diễn ra ở qui mô nhỏ, mang tính đơn độc và cũng chưa thể trở thành giai cấp lãnh đaọ quần chúng lao động bị áp bức bóc lột, lật đổ giai cấp tư sản cải tạo xã hội.
- Dần dần từ các cuộc đấu tranh nhỏ lẻ ấy đã hình thành nên yêu cầu phải có sự liên kết, tổ chức chặt chẽ hơn của các phong trào nhằm tạo nên sức mạnh đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Trước phong trào ngày càng lớn mạnh của giai cấp công nhân, nhu cầu cần có lý luận riêng để làm cơ sở cho cuộc đáu tranh được đặt ra một cách cấp thiết. Bằng việc tiếp thu lý luận khoa học và từ khi học thuyết của Mác – Anghen ra đời, các nhà lãnh dạo của giai cấp công nhân đã đưa những lý luận đó vào thực tiễn, biến nó thành một vũ khí lý luận sắc bén, làm cho phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân đã chuyển từ tự phát sang tự giác và thật sự trở thành phong trào chính trị rộng lớn của giai cấp công nhân trên tòan thế giới.
- Sau khi học thuyết cách mạng của Mác-Anghen được Lênin đưa vào ứng dụng thực tế và làm nên cuộc Cách mạng tháng 10 Nga thành công thì học thuyết cách mạng của Mác đã trở thành Chủ nghĩa Mác, kết hợp với những cơ sở lý luận mới được Lê nin bổ sung thì Chủ nghĩa Mác lúc này đã trở thành một học thuyết cách mạng tiến tiến với tên gọi là Chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Thông qua học thuyết Mác Lênin giai cấp công nhân nhận thức được vị trí, vai trò của mình trong xã hội, biết được nguồn gốc tạo nên sức mạnh và biết tạo nên sức mạnh đó bằng sự đoàn kết; nhận rõ mục tiêu, con đường và những biện pháp giải phóng giai cấp mình, giải phóng cả xã hội và giải phóng nhân loại.
- Giai cấp công nhân đã ý thức được rằng để đấu tranh giành chính quyền và xây dựng xã hội mới, họ không có vũ khí nào quan trọng hơn là tự mình tổ chức một chính Đảng độc lập của mình để lãnh đạo giai cấp chống lại quyền lực liên hiệp của giai cấp tư sản và chỉ khi có chính đảng của mình, giai cấp công nhân mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp được. Hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân chính là Đảng Cộng sản.
- Lênin đã chỉ ra rằng Đảng cộng sản hình thành trên cơ sở kết hợp giữa lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân. Ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, sự hình thành Đảng Cộng sản còn là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước, phong trào giải phóng dân tộc.
- Thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân các nước cho thấy rằng từ sau khi có Đảng Cộng Sản lãnh đạo, giai cấp công nhân và phong trào công nhân đã chuyển từ hình thức đấu tranh tự phát sang tự giác trong mỗi hành động với tư cách một giai cấp tiên tiến và thực sự cách mạng. Chỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, được trang bị lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, gắn với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thì cuộc cách mạng của giai cấp công nhân có thể đi đến thành công cuối cùng là giành lấy chính quyền từ tay giai cấp tư sản.
Thực tiễn sự thất bại của cách mạng Pháp 1848-1850 và công xã PARIS 1871 đã chứng minh nếu như không có sự soi sáng của học thuyết cách mạng và khoa học của Chủ nghĩa Mác Lênin và sự dẫn dắt của một chính Đảng thật sự cách mạng thì mọi cuộc đấu tranh lật đổ chính quyền để xây dựng một xã hội mới đều không vươn tới những thắng lợi cuối cùng. Chỉ đến cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, một Đảng theo học thuyết cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân mới giành được thắng lợi;  từ đó cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.

b. Mối quan hệ giữa Đảng với giai cấp công nhân :
- Đảng cộng sản không những là tổ chức chính trị cao nhất, đại biểu tập trung cho trí tuệ và lợi ích của toàn thể giai cấp công nhân mà còn đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động và dân tộc. Chỉ khi nào có một đảng chính trị vững vàng, kiên định và sáng suốt, có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, thể hiện lợi ích của toàn bộ giai cấp và toàn bộ phong trào thì giai cấp công nhân mới có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Như vậy, Đảng là nhân tố có vai trò quyết định trong việc thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
- Vai trò đó thể hiện ở các mặt như: Đảng giác ngộ giai cấp công nhân và nhân dân lao động bằng lý luận tiên phong của chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng lý luận ấy vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước;  Đảng đề ra cương lĩnh chính trị, vạch ra cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động con đường đấu tranh cách mạng đúng đắn, tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao và giành chính quyền; khi giành được chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền và toàn xã hội thực hiện đường lối của Đảng đề ra để xây dựng xã hội mới.
- Giữa Đảng và giai cấp công nhân có mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội – giai cấp của Đảng, là nguồn bổ sung lực lượng của Đảng. Ngược lại, Đảng là chính đảng của giai cấp công nhân,  hình thành trên quan điểm lập trường giai cấp công nhân, là đội tiên phong chiến đấu, là bộ tham mưu của giai cấp. Những đảng viên của Đảng Cộng sản có thể không phải là công nhân nhưng phải là người giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và đứng trên lập trường của giai cấp này.
Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô cho thấy bài học kinh nghiệm sâu sắc rằng một khi Đảng Cộng sản xa rời lập trường giai cấp công nhân, không tự đổi mới về trình độ lý luận chính trị, đội ngũ Đảng viên để lọt những phần tử cơ hội vào trong hàng ngũ của Đảng gây lũng đoạn làm cho bộ máy Đảng biến chất thì sớm muộn Đảng ấy cũng sẽ để mất vai trò lãnh đạo cách mạng. Để giành lấy chính quyền từ tay gai cấp tư sản đã khó, nhưng việc giữa vững chính quyền và xây dựng xã hội mới XHCN lại càng khó hơn. Sự thất bại của các nước Đông âu và Liên xô là một bài học đau đớn cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên tòan thế giới. Sự thất bại đó là do tầng lớp lãnh đạo không thường xuyên tổng kết thực tiền, nâng cao trình độ lý luận của Đảng, việc chăm lo xây dựng Đảng chưa chặt chẽ đã làm mất vai trò và tính tiên phong của Đảng, đội ngũ Đảng viên bị phân hoá, mơ hồ về quan điểm, lập trường giai cấp, dễ dàng sa ngã theo chủ nghĩa cơ hội, một số khác biến dạng hình thành một đẳng cấp có đặc quyền, đặc lợi, xa rời quần chúng. Sự thiếu kiên quyết trong việc giải quyết các vấn đề mang tính nguyên tắc trong Đảng: vấn đề tổ chức hệ thống chính trị, chính sách kinh tế, chính sách đối ngọai, chính sádch xã hội,… đã làm cho Đảng mất tín nhiệm giai cấp, đi đến chia rẽ, tan rã. Sự chủ quan duy ý chí và thiếu cảnh giác trước những âm mưu của CNTB và những thế lực thù địch đã tạo điều kiện cho những phần tử cơ hội trong Đảng trỗi dậy, họ sẵn sàng hợp tác với thế lực đế quốc phá hoại Đảng, phá hoại thành quả của CNXH, bắt đầu từ sự phản bội của người lãnh đạo chủ chốt.
Tuy nhiên, sự đổ vỡ của Liên Xô và các nước Đông âu không có nghĩa là sự sụp đổ của học thuyết về chủ nghĩa xã hội, không phải là sự sụp đổ của phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới mà nguyên nhân trực tiếp là Đảng Cộng sản phạm những sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức, xa rời giai cấp, thiếu tỉnh táo thanh lọc những  phần tử cơ hội, nhất là những  phần tử cơ hội về chính trị.
Từ những bài học trên cho thấy, để thể hiện và giữ vững vai trò lãnh đạo của mình trong việc tổ chức cho giai cấp công nhân thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử, Đảng Cộng sản phải luôn luôn giữ vững lập trường giai cấp đồng thời phải thường xuyên tự đổi mới để vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện nâng cao ý chí cách mạng, lập trường giai cấp, nâng cao toàn diện trình độ kiến thức, trình độ lý luận; kịp thời tổng kết kinh nghiệm đề ra thực tiễn sâu sắc nhằm đề ra đường lối chiến lược sách lược đúng đắn, đồng thời phải xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao hiệu quả và sức chiến đấu của Đảng.

Câu 8: Cách mạng xã hội chủ nghĩa là gì? Vì sao cách mạng xã hội chủ nghĩa lại ra đời? Cách mạng xã hội chủ nghĩa có mục tiêu động lực và nội dung nào?

Bài làm:

  • C/m XHCN là cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ TBCN lỗi thời bằng chế độ XHCN. Trong cuộc cm đó, GCCN là giai cấp lãnh đạo và cũng với quần chúng nhd lđ xây dựng 1 xh công bằng, dân chủ, văn minh. là một cuộc cách mạng chính trị, được kết thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động giành được chính quyền, thiết lập được nhà nước chuyên chính vô sản - nhà nước của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.
  • C/m XHCN ra đời bởi nguyên nhân sâu xa là do mâu thuẫn giữa LLSX có tính xh hóa cao với tính chất tư nhân TB CN về tư liệu sx dưới CNTB. Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế là tính tổ chức, tính kế hoạch cao trong từng doanh nghiệp ngày càng tăng với tính vô tổ chức của sx toàn xh do tính cạnh tranh của nền SXHH TBCN tạo ra. Vì vậy, để phù hợp với tính chất ngày càng xh hóa cao của LLSX chỉ có thể là sự thay thế quan hệ sx TBCN bằng quan hệ sx XHCN thông qua cuộc cm XHCN.
 CÁNG MẠNG XHCN CÓ MỤC TIÊU, ĐỘNG LỰC & NỘI DUNG NÀO?
  • Mục tiêu cao cả nhất của cm XHCN đó là phải hiện thực hóa qua từng chặng đường, từng bước đi, thông qua quá trình lđ đầy nhiệt huyết và sáng tạo của quần chúng nhd lđ bằng công tác tổ chức xh 1 cách khoa học trên tất cả các lĩnh vực của nhà nước XHCN, dưới sự lãnh đạo của Đ CS.
  • Cách mạng dân chủ tư sản với khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái đã tập hợp quần chúng nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh lật đổ giai cấp quí tộc, phong kiến. Nhưng khi giai cấp tư sản giành được chính quyền, thì mọi quyền tự do, dân chủ của quần chúng nhân dân lao động không được tôn trọng. Tự do trong chế độ tư bản chủ nghĩa là tự do bóc lột của giai cấp tư sản, tự do bán sức lao động của người công nhân; tự do bóc lột của nước giàu với nước nghèo, tự do thống trị của nước lớn với nước nhỏ, v.v.. 
  • Giải phóng con người, giải phóng xã hội là mục tiêu của giai cấp công nhân, của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cho nên có thể nói chủ nghĩa xã hội mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ dừng lại ở ý thức, ở khẩu hiệu giải phóng con người, mà từng bước thực hiện việc giải phóng con người "trên thực tế, biến con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc tự do", tạo nên một thể liên hiệp "trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" . 
  • Khi chúng ta nói mục tiêu là cái đích cần đạt tới, do vậy, những mục tiêu khả thi nêu trên từng bước biến thành hiện thực thông qua quá trình lao động nhiệt tình của quần chúng nhân dân lao động, thông qua những biện pháp tổ chức xã hội một cách khoa học trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. 
  •  Mục tiêu giai đoạn thứ nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giành lấy chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động.  Mục tiêu giai đoạn thứ hai của cách mạng xã hội chủ nghĩa là "xoá bỏ mọi chế độ người bóc lột người... nhằm đưa lại đời sống ấm no cho toàn dân" . Khi mà "xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ" 
+ Trong giai đoạn thứ nhất, GCCN phải đoàn kết với những người lđ khác để thực hiện lật đổ chính quyền của giai cấp thống trị, giai cấp bóc lột.
      + Trong giai đoạn thứ 2, GCCN phải tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động vào công cuộc tổ chức 1 xh mới về mọi mặt, thực hiện xóa bỏ tình trạng “ người bóc lột người” để không còn tình trạng dân tộc này áp bức –bóc lột dân tộc khác.
Đến giai đoạn cao nhất là giai đoạn Chủ Nghĩa Cộng Sản, khi đó không còn giai cấp, không còn nhà nước giai cấp vô sản vượt lên thành giai cấp thống trị.
*Động lực của cuộc C/m XHCN là:
- C/m XHCN với mục đích giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động ra khỏi tình trạng bị áp bức, bóc lột, đưa lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhd lđ, do vậy đã thu hút được sự tham gia của quần chúng nhd lđ trong suốt quá trình cách mạng.
- GCCN là lực lượng hành đầu đảm bảo cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng XHCN, đây vừa là giai cấp lãnh đạo, vừa là động lực chủ yếu trong cm XHCN. và ở đâu phong trào công nhân vững mạnh, sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công nhân sáng suốt thì cách mạng xã hội chủ nghĩa giành được thắng lợi, những lực lượng phản động quốc tế bị đẩy lùi.Và ngược lại.
- GCND có nhiều lợi ích cơ bản, thống nhất với lợi ích của GCCN. Dó đó giai cấp này trở thành động lực to lớn trong cách mạng XHCN. cuộc đấu tranh giành chính quyền, giai cấp công nhân chhỉ giành được thắng lợi khi lôi kéo được giai cấp nông dân đi theo mình.Sự tham gia đồng đảo của GCND là đk đảm bảo sự lãnh đạo của Đ CS, là cơ sở xây dựng chính quyền – nhà nước vững mạnh, là yếu tố đảm bảo để mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc. “ Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính vô sản là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và giai cấp nông dân”
- Trong quá trình xây dựng CNXH, vai trò của đội ngũ trí thức là động lực quan trọng trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa , là lực lượng truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào giác ngộ quần chúng nhân dân lao động. Trí thức là những người góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước, là những người chăm lo sức khỏe cho nhân dân. Họ tham gia xậy dựng đường lối của Đ’, chính sách pháp luật của nhà nước & phổ biến , truyền bá chúng đến với nhân dân. Trí thức là những người sáng tạo ra giá trị khoa học kỹ thuật, tiếp thu những thành tựu khoa học trên thế giới, áp dụng vào trong cuộc sống, truyền bá vào trong nhân dân.
*Nội dung của cách mạng XHCN là:
            Cách mạng xã hội chủ nghĩa được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. 
- Trên lĩnh vực chính trị:
            Trước tiên là phải đập tan nhà nước của giai cấp bóc lột, giành chính quyền về tay GCCN, nhân dân lao động; đưa những người lđ từ địa vị nô lệ làm thuê lên địa vị làm chủ xh.Tiếp theo, cần phải tạo đk làm sâu rộng thêm nền dân chủ XHCN.
Trên lĩnh vực chính trị: đưa quần chúng nhân dân lao động từ địa vị nô lệ, làm thuê, bị áp bức, bóc lột trở thành người làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, bằng lao động sản xuất, bằng cuộc đấu tranh xoá bỏ những cái xấu của xã hội cũ, xây dựng xã hội mới về mọi mặt làm cho xã hội ngày càng phát triển, mức sống của nhân dân ngày càng nâng lên.
            Muốn thực hiện được những nội dung nêu trên, giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, dùng bạo lực cách mạng đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản, "giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc" .
            Bước tiếp theo, giai cấp công nhân phải không ngừng nâng cao trình độ tri thức về mọi mặt cho quần chúng nhân dân lao động, tạo ra những điều kiện cần thiết để ngày càng mở rộng dân chủ cho nhân dân, thu hút quần chúng nhân dân lao động tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, làm cho nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân.
            Quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quá trình nhân dân thực hiện quyền làm chủ về chính trị cũng là quá trình đấu tranh gay go quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, giữa cá nhân và tập thể, giữa chủ nghĩa cách mạng và phản cách mạng, v.v.. 
- Trên lĩnh vực kinh tế: Cách mạng xã hội chủ nghĩa, về thực chất là có tính chất kinh tế. Nen trước hết phải thay đổi vị trí, vai trò của người lđ đối với tư liệu sx, thay thế chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sx bằng chế độ sở hữu XHCN với những hình thức thích hợp. Thực hiện những biện pháp cần thiết gắn người lđ với tư liệu sx.
            + những cuộc cách mạng trước đây về thực chất là cách mạng chính trị. Chúng kết thúc bằng việc lật đổ ách thống trị của giai cấp này, thay thế bằng sự thống trị của giai cấp khác. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực chất, là có tính chất kinh tế. Việc giành được chính quyền về tay giai cấp công nhân, nhân dân lao động mới là bước đầu. Nhiệm vụ trọng tâm, có ý nghĩa quyết định cho sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa là phải phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao năng suất lao động, cải 
thiện đời sống nhân dân. 
Cách mạng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế, trước hết, phải thay đổi vị trí, vai trò của người lao động đối với tư liệu sản xuất, thay chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa dưới những hình thức thích hợp; thực hiện những biện pháp cần thiết gắn người lao động với tư liệu sản xuất. 
Trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động ngày càng tăng cao, từng bước cải thiện đời sống nhân dân lao động, nâng cao chất lượng sức khoẻ, năng lực của người lao động. Mặt khác, dưới chủ nghĩa xã hội, tìm mọi cách phát huy tính tích cực xã hội, khả năng sáng tạo của người lao động để ngày càng nâng cao năng suất lao động, hiệu quả công tác làm cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển góp phần chiến thắng chủ nghĩa tư bản. 
Dưới chủ nghĩa xã hội, có điều kiện đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất, góp phần nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều của cải xã hội phục vụ quần chúng nhân dân lao động, vì có sự thống nhất về lợi ích giữa cá nhân, tập thể và xã hội. 
Chủ nghĩa xã hội thực hiện phân phối theo lao động, do vậy, năng suất lao động, hiệu quả công tác là thước đo đánh giá sự đóng góp của mỗi người cho xã hội. Năng suất lao động, hiệu suất công tác là biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước, ý thức giai cấp, ý thức dân tộc của mỗi người ở trong xã hội.
Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá: Trong các xã hội trước đây, giai cấp bóc lột nắm tư liệu sản xuất vật chất, họ cũng nắm luôn công cụ thống trị về mặt tinh thần. Dưới chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động đã là những người làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, do vậy, cũng là những sáng tạo ra những giá trị tinh thần của xã hội. Người lao động là người sáng tạo, làm phong phú thêm những giá trị văn hoá tinh thần của xã hội, đồng thời cũng là những người hưởng thụ những giá trị văn hoá tinh thần đó. 
Trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa: Dưới chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động là những người sáng tạo ra những giá trị văn hóa, tinh thần. Nên phải thực hiện việc giải phóng những người lđ về mặt tinh thần thông qua xd từng bước thế giới quan & nhân sinh quan mới cho người lđ, hình thành những con người mới XHCN, giàu lòng yêu nước thương dân, có bản lĩnh chính trị, nhân văn, nhân đạo; có hiểu biết, có khả năng giải quyết 1 cách đúng đắn mqh cá nhân, gđ & xh.
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và nâng cao các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, tiếp thu các giá trị văn hoá tiên tiến của thời đại, cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hoá thực hiện việc giải phóng những người lao động về mặt tinh thần thông qua việc xây dựng từng bước thế giới quan và nhân sinh quan mới cho người lao động, hình thành những con người mới xã hội chủ nghĩa, giàu lòng yêu nước, thương dân, có bản lĩnh chính trị, nhân văn, nhân đạo, có hiểu biết và biết giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân, gia đình và xã hội..., có năng lực làm chủ xã hội. 
Cách mạng xã hội chủ nghĩa diễn ra đồng thời trên các lĩnh vực và các lĩnh vực đó có quan hệ mật thiết, tác động, thúc đẩy lẫn nhau. 
Nhìn chung, cách mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình cải biến toàn diện xã hội cũ thành xã hội mới, trong đó công cuộc cải tạo kết hợp chặt chẽ với công cuộc xây dựng mà xây dựng là chủ yếu. Cải tạo đóng vai trò như một phương tiện phục vụ cho mục tiêu xây dựng xã hội mới, ngược lại, công cuộc xây dựng xã hội mới tạo ra những điều kiện có ý nghĩa quyết định để triển khai công cuộc cải tạo.
+  Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ cũ, nhất là chế độ tư bản chủ nghĩa, bằng chế độ xã hội chủ nghĩa, trong cuộc cách mạng đó, giai cấp công nhân là người lãnh đạo và cùng với quần chúng nhân dân lao động khác xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
CÂU 9: Vì sao giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức phải liên minh với nhau? Liên minh công – nông – trí thức bao gồm những nội dung và nguyên tắc nào?
            Do những cuộc cm đi trước đã chứng tỏ rằng: các cuộc cm sở dĩ bị thất bại là do GCCN chưa lôi kéo được những người bạn đồng minh là GCND & tầng lớp trí thức. Nổi bật nhất là sự thất bại của công xã Pari. Nhưng sang cm tháng 10 Nga, do trong quá trình lãnh đạo, Lenin thường xuyên chủ trương và thực hiện củng cố khối liên minh công nông, đó cũng là 1 trong những nguyên nhân đưa đến những thắng lợi của cm tháng 10. Ông chỉ rõ: “chuyên chính vô sản lá 1 hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản- đội tiên phong của những người lđ, với đông đảo những tầng lớp không phải vô sản. Ông cho rằng, nếu không thực hiện liên minh chặt chẽ với GCND & trí thức thì GCCN không thể giữ được chính quyền nhà nước.
 Mục tiêu của cm XHCN không phải là duy trì giai cấp, duy trì nhà nước mà là tiến lên xây dựng 1 xh không còn giai cấp, không còn nhà nước. điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở xây dựng khối liên minh công –nông-trí thức vững chắc, vì có như vậy mới lôi kéo được nông dân, đưa nông dân đi theo con đường XHCN.
LIÊN MINH CÔNG - NÔNG - TRÍ THỨC BAO GỒM NHỮNG NỘI DUNG & NGUYÊN TẮC NÀO?
  • Nội dung của liên minh công - nông - trí thức bao gồm:
- Liên minh về chính trị: trở thành cơ sở vững chắc cho nhà nước XHCN, tạo thành nòng cốt trong mặt trận dân tộc thống nhất. Trong đấu tranh, liên minh này nhằm giành lấy chính quyền về tay GCCN cùng với nhân dân lđ. Trong quá trình xây dựng CNXH liên minh này cùng nhau bảo vệ chế độ XHCN và mọi thành quả cm, làm cho nhà nước XHCN ngày càng vững mạnh. .Tuy nhiên, liên minh về chính trị giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân không phải là sự dung hòa lập trường tư tưởng giữa công nhân với nông dân mà phải trên lập trường chính trị của giai cấp công nhân. Có như vậy giai cấp nông dân mới đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa được.
- Liên minh về kinh tế: là nôi dung cơ bản,quyết định nhất vì có liên minh vể kinh tế chặt chẽ mới thực hiện được liên minh trong các lĩnh vực khác.hoạt động kinh tế phải vừa bảo đảm lợi ích của nhà nước, của xh, đồng thời phải thường xuyên quan tâm tới lợi ích của các giai cấp trong xh. Nếu kết hợp đúng đắn các lợi ích kinh tế của các giai cấp trong xh, nó sẽ trở thành 1 động lực to lớn thúc đẩy xh phát triển, ngược lại nó cũng sẽ trở thành lực cản đối với sự phát triển của xh. Muốn thực hiện được sự liên minh về kinh tế giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, Đảng của giai cấp công nhân và nhà nước xã hội chủ nghĩa phải thường xuyên quan tâm tới xây dựng một hệ thống chính sách phù hợp đối với nông dân, nông nghiệp và nông thôn.
- Liên minh về văn hóa –xh: liên minh công - nông-trí thức phải thường xuyên học tập, nâng cao trình độ văn hóa để thích nghi với nền công nghiệp sx hiện đại, xây dựng 1 xh nhân văn, nhân đạo, trong quan hệ hữu nghị và giúp đỡ lẫn nhau giữa con người với con người, giữa dân tộc này với dân tộc khác; phải hiểu biết chính sách- pháp luật để tham gia quản lý kinh tế, quản lý xh, quản lý nhà nước.
  • Liên minh công-nông-trí thức bao gồm những nguyên tắc sau:
- Phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp trong khối liên minh công-nông.: “…chỉ có sự lãnh đạo của giai cấp vô sản mới có thể giải phóng quần chúng tiểu nông thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản và dẫn họ tới chủ nghĩa xã hội”
- Phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện.: thì khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân mới bền vững và lâu dài.
- Phải kết hợp đúng đắn các lợi ích của GCCN - GCND : : Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân có những lợi ích cơ bản là thống nhất: họ đều là những người lao động, đều bị bóc lột dưới chủ nghĩa tư bản. Sự thống nhất lợi ích này tạo điều kiện thực hiện sự liên minh giữa họ
CÂU 10: Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa được hiểu như thế nào? Đặc trưng nội dung và phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa?
Nền văn hóa XHCN là sự phát triển tự nhiên, hợp quy luật khi phương thức sx TBCN đã lỗi thời & phương thức sx mới của XHCN đã hình thành. Nền văn hóa XHCN là nền văn hóa được xd & phát triển trên nền tảng hệ tư tưởng của GCCN, do Đ CS lãnh đạo nhằm thỏa mãn nhu cầu không ngừng tăng lên về đời sống văn hóa tinh thần của nhd, đưa nhd lđ trở thành chủ thể sáng tạo & hưởng thụ văn hóa. Lênin đã khẳng định sự thay thế nền văn hóa tư sản bằng nền văn hóa vô sản là một sự thay đổi lớn về tư tưởng, “lịch sử tư tưởng là lịch sử của quá trình thay thế của tư tưởng, do đó là lịch sử của đấu tranh tư tưởng”
*NÊU ĐẶC TRƯNG, NỘI DUNG & PHƯƠNG THỨC XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA XHCN.
- Đặc trưng của việc xd nền văn hóa XHCN là:
+. Chủ nghĩa Mác - Lênin với tư cách là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, giũ vai trò chủ đạo và là nền tảng tư tưởng, quyết định phương hướng phát triển nội dung của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
+ nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa coa tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. +Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa được hình thành, phát triển một cách tự giác, đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua tổ chức đảng cộng sản, có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa
-Nội dung của việc xd nền văn hóa XHCN là:
+ cần phải nâng cao trình độ dân chí, hình thành đội ngũ trí thức của xh mới: cần hình thành trong các thế hệ thanh niên, đặc biệt là trong các thế hệ sinh viên một hệ thống tri thức hiện đại, một tâm hồn thắm đượm giá trị văn hóa dân tộc.
+ Xd con người mới phát triển toàn diện: con người là sf của lịch sử, nhưng chính hoạt động của con người đã sáng tạo ra lịch sử. Con người mới xã hội chủ nghĩa được xây dựng là con người phát triển toàn diện. Đó là con người có tinh thần và năng lực xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; là con người lao động mới; là con người có tinh thần yêu nước chân chính và tinh thần quốc tế trong sáng; là con người có lối sống tình nghĩa, có tính cộng đồng cao.
chẳng hạn: xd lối sống mới XHCN, xd gia đình văn hóa XHCN.
- Phương thức xd nền văn hóa XHCN là:
+ Giữ vững & tăng cương vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng GCCN trong đời sống tinh thần của xh.
+ Không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đ CS & vai trò quan lý của nhà nước XHCN đối với hoạt động văn hóa.
+ Xd nền văn hóa XHCN phải theo phương thức kết hợp việc kế thừa những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc & tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của văn hóa nhân loại.
+ Tổ chức & lôi cuốn quần chúng nhd vào các hoạt động & sáng tạo văn hóa.
Câu 11: Những nguyên tắc (nội dung) cần quán triệt khi giải quyết vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc theo chủ nghĩa Mác-lênin?
. Vấn đề dân tộc và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc
a. Khái niệm dân tộc
Dân tộc là một hình thức tổ chức cộng đồng người có tính chất ổn định được hình thành trong lịch sử, là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử xã hội. Trước khi dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc.
Khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất :
Thứ nhất, dân tộc là cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững,có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hoá đặc thù;xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa, phát triển cao hơn những nhân tố tộc ngườiở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác tộc người của dân cư cộng đồng đó.
Thứ hai, dân tộc là một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, sử dụng ngôn ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.
b. Hai xu hướng phát triển của dân tộc và vấn đề dân tộc trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, V.I. Lênin đã phát hiện ra hai xu hướng khách quan của sự phát triển các dân tộc như sau:
Xu hướng thứ nhất: Khi mà các tộc người, cộng đồng dân cư có sự trưởng thành về ý thức dân tộc, ý thức về quyền sống của mình, thì các cộng đồng dân cư đó muốn tách ra thành lập các dân tộc độc lập. Trên thực tế, xu hướng này đã biểu hiện thành phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc, thành lập các quốc gia dân tộc độc lập.
Xu hướng thứ hai: Sự liên hiệp lại của các dân tộc trong một quốc gia, các dân tộc của nhiều quốc gia nhằm mở rộng, tăng cường quan hệ kinh tế, phá bỏ ngăn cách về kinh tế giữa các dân tộc.
Hai xu thế này vận động trong một thể thống nhất, mỗi nước vừa có nhu cầu độc lập, tự chủ… nhưng đồng thời vừa phải mở rộng quan hệ với bên ngoài, hòa nhập với cộng đồng quốc tế và ngày càng xích lại gần nhau trên các lĩnh vực. Đây là hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc và ngày nay, nó đang có những biểu hiện rất phong phú và đa dạng. Xét trong phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc: Xu hướng thứ nhất biểu hiện trong sự nỗ lực của từng dân tộc để đi đến sự tự chủ và phồn vinh của bản thân dân tộc mình. Xu hướng thứ hai, tạo nên sự thúc đẩy mạnh mẽ để các dân tộc trong cộng đồng quốc gia xích lại gần nhau hơn, hòa hợp với nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, hai xu hướng phát huy tác động cùng chiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng đồng quốc gia trên cơ sở hợp tác bình đẳng giữa các dân tộc, tôn trọng và hữu nghị.
Trong thời đại ngày nay, các dân tộc có xu hướng xích lại gần nhau thành những liên minh trên cơ sở lợi ích chung nhất định của các dân tộc. Hơn nữa sự liên minh đó còn tạo nên sức hút trên toàn cầu nhằm tập trung giải quyết những vấn đề chung của cả nhân loại như: phòng chống nguy cơ chiến tranh hạt nhân,chống ô nhiễm, bảo vệ môi trường sinh thái, phòng chống dịch bệnh, khủng bố...
c. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc
Vấn đề dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản do đó giải quyếtvấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản, đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, trên cơ sở vì lợi ích cơ bản và lâu dài của dân tộc. Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về dân tộc, từ thực tiễn đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Nga; phân tích sâu sắc hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc gắn liền với quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhất là khi đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,V.I.Lênin đã khái quát lại thành “Cương lĩnh dân tộc” của Đảng Cộng sản.
Nội dung của Cương lĩnh gồm:
Thứ nhất, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.
Thứ ba, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.
Đây là tư tưởng cơ bản trong Cương lĩnh dân tộc của V.I. Lênin, nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Những người cộng sản lấy đoàn kết công nhân tất cả các dân tộc làm mục tiêu phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng nhân loại.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin là một bộ phận trong cương lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; là cơ sở lý luận của đường lối, chính sách dân tộc của các Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa. chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử. Trước dân tộc là các hình thức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã dẫn tới sự ra đời và phát triển của các nhà nước dân tộc tư bản chủ nghĩa. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các đế quốc thực hiện chính sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, nô dịch các nước nhược tiểu, vấn đề dân tộc trở nên gay gắt và từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc và thuộc địa. Sau cách mạng Tháng Mười Nga và sự ra đời hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh, dẫn tới sự tan rã của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc và xuất hiện nhiều quốc gia dân tộc độc lập trẻ tuổi.
Bản chất của chủ nghĩa xã hội là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân
c. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc
Vấn đề dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản do đó giải quyếtvấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản, đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, trên cơ sở vì lợi ích cơ bản và lâu dài của dân tộc. Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về dân tộc, từ thực tiễn đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Nga; phân tích sâu sắc hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc gắn liền với quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhất là khi đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,V.I.Lênin đã khái quát lại thành “Cương lĩnh dân tộc” của Đảng Cộng sản.
CÂU 12: Vì sao trong thời kỳ quá độ lên CNXH tôn giáo vẫn còn tồn tại? Chủ nghĩa Mác-lênin chủ trương giải quyết vấn đề tôn giáo như thế nào?
            Trong thời kỳ quá độ lên CNXH tôn giáo vẫn còn tồn tại, có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại của tín ngưỡng – tôn giáo, trong đó có những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Nguyên nhân nhận thức: là do trước những sức mạnh tự phát của thế giới tự nhiên & xã hội mà con người vẫn chưa thể nhận thức và chế ngự được đã khiến cho 1 bộ phận nhân dân đi tìm sự an ủi, che chở & lý giải chúng từ sức mạnh của thần linh.
Hiện nay nhân loại đã đạt được những thành tựu to lớn về khoa học và công nghệ, với những tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới…đã giúp con người có thêm những khả năng để nhận thức xã hội và làm chủ tự nhiên. Song thế giới khách quan là vô cùng, vô tận, tồn tại đa dạng và phong phú, nhận thức của con người là một quá trình và có giới hạn, thế giới còn nhiều vấn đề mà hiện tại khoa học chưa thể làm rõ. Những sức mạnh tự phát của tự nhiên, xã hội đôi khi rất nghiêm trọng còn tác động và chi phối đời sống con người. Do vậy, tâm lý sợ hãi, trông chờ, nhờ cậy và tin tưởng vào Thần, Thánh, Phật…chưa thể gạt bỏ khỏi ý thức của con người trong xã hội,trong đó có nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa.
- Nguyên nhân kinh tế: là do những yếu tố may rủi, ngẫu nhiên về kinh tế, chính trị, văn hóa, xh vẫn tác động mạnh mẽ đến con người, làm cho con người trở nên thụ động với tư tưởng nhờ cậy, cầu mong vào những lực lương siêu nhiên.
- Nguyên nhân tâm lý: là do trong mối quan hệ giữa sự tồn tại của xã hội & ý thức của xã hội thì ý thức của xh thường có tính bảo thủ hơn so với sự biến đổi của sự tồn tại của xã hội, trong đó ý thức tôn giáo lại thường là yếu tố mang tính chất bền vững nhất trong đời sống tinh thần của mỗi con người, mỗi xã hội.
            Tín ngưỡng, tôn giáo đã in sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu đậm đến nếp nghĩ, lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ đến mức trở thành một kiểu sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của cuộc sống. Cho nên, dù có thể có những biến đổi lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội,…thì tín ngưỡng, tôn giáo cũng không thay đổi ngay theo tiến độ của những biến đổi kinh tế, xã hội mà nó phản ánh.

- Nguyên nhân chính trị - xã hội: là do những giá trị đạo đức, văn hóa với tinh thần nhân đạo, hướng thiện vẫn luôn đáp ứng được nhu cầu của 1 bộ phận quần chúng nhd, chính vì thế trong 1 chừng mực nhất định, tôn giáo có sức hút mạnh mẽ đối với họ.
            Dưới chủ nghĩa xã hội, tôn giáo cũng có khả năng tự biến đổi để thích nghi theo xu hướng “đồng hành với dân tộc”, sống “tốt đời – đẹp đạo”…Nhà nước không ngừng nâng cao địa vị, tính tích cực xã hội của những người có đạo bằng cách tạo điều kiện để họ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động thực tiển. Trên cơ sở đó, nhà nước XHCN làm cho người có đạo hiểu rằng, niềm tin tôn giáo chân chính không đối lập với chủ nghĩa nhân đạo XHCN, và CNXH đang hiện thực hóa lý tưởng của chủ nghĩa nhân đạo trong cuộc sống của mỗi người dân.
            Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức vô cùng phức tạp. Trong đó các thế lực chính trị vẫn lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho mưu đồ chính trị của mình. Mặt khác, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, bạo loạn,…còn xảy ra ở nhiều nơi. Nỗi lo sợ về chiến tranh, bệnh tật,…cùng với những mối đe dọa khác là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại.
- Nguyên nhân văn hóa: là do trong thực tế sinh hoạt văn hóa xh, sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo đã đáp ứng được phần nào nhu cầu văn hóa tinh thần của cộng đồng xh & trong 1 mức độ nhất định nó có ý nghĩa giáo dục ý thức cộng đồng , phong cách, lối sống của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Vì vậy, tôn giáo vẫn còn tồn tại để đáp ứng 1 bộ phận nhân dân.
* Chủ nghĩa Mác-lênin chủ trương giải quyết vấn đề tôn giáo như sau:
            Cùng với vấn đề dân tộc thì tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề tế nhị, nhạy cảm và đang có những diễn biến phức tạp. Việc giải quyết những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải hết sức thận trọng, vừa đòi hỏi phải giữ vững nguyên tắc, đồng thời phải mềm dẻo, linh hoạt đúng như tinh thần của chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta là: tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
Giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần dựa trên những quan điểm sau:
Một là, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Để khắc phục mặt tiêu cực của tôn giáo, trước hết phải không ngừng phát triển khoa học - công nghệ. Trang bị thế giới quan của chủ nghĩa vô thần khoa học cho nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần cho nhân dân. Phải khắc phục những tiêu cực của tôn giáo bởi vì chủ nghĩa Mác- Lênin và hệ tư tưởng tôn giáo có sự khác nhau cơ bản về thế giới quan, nhân sinh quan và con đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân.
Hai là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Mọi công dân theo tôn giáo hay không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân.
Ba là, thực hiện đoàn kết giữa những người theo tôn giáo và không theo tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp chân chính (tôn giáo hợp pháp và chân chính là những tôn giáo có tổ chức giáo hội được Đảng và nhà nước ta thừa nhận, và nằm trong khối đại đoàn kết dân tộc), đoàn kết dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tôn giáo. Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo.
Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng tôn giáo, khắc phục mặt này là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, gắn liền với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có tín ngưỡng.
Mặt chính trị thể hiện ở chỗ cần phải kiên quyết đấu tranh với những phần tử phản động, đội lốt tôn giáo, lợi dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Năm là, phải có quan diểm lịch sử cụ thể trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội cũng không giống nhau. Quan điểm của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội thường không đồng nhất với nhau. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.




[1] C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1993, tập 23, tr 249.
[2] Xem C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1993, tập 23, tr 254-256.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét