BÀI
LÀM MANG TÍNH CHẤT THAM KHẢO
Câu 1 . Sản xuất hàng hóa là gì? Điều kiện ra
đời tồn tại và đặc trưng cơ bản của sản xuất hàng hóa? Ưu thế của kinh tế hàng
hóa?
Bài làm:
1. Khái niệm sản xuất hàng hoá:
Sản xuất hàng
hoá là sản xuất ra sản phẩm để bán.
Hay: Sản xuất
hàng hoá là kiếu tổ chức sản xuất mà trong đó sản phẩm làm ra không phải để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người sản xuất ra mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của người khác, thông qua việc trao đổi mua bản.
2. Điều kiện ra đời, tồn tại của sản xuất hàng hoá.
Sản xuất hàng
hoá ra đời và tồn tại dựa trên hai điều kiện:
- Thứ nhất: Có
sự phân công lao động xã hội :
• Phân công lao
động xã hội là sự chuyên môn hoá sản xuất, phân chia lao động xã hội thành các
ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau.
• Phân công lao
động xã hội làm cho việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu: bởi vì mỗi ngành
mỗi người chỉ sản xuất một vài thứ, trong khi đó nhu cầu cuộc sống lại đòi hỏi
có nhiều loại khác nhau. Vì vậy họ cần trao đổi với nhau
Như vậy: phân
công lao động là tiền đề là cơ sở của sản xuất hàng hoá. Nhưng để SXHH ra đời
chỉ có phân công lao động xã hội thôi thì chưa đủ mà cần phải có điều kiện
nữa(điều kiện đủ) cần có điều kiện thứ hai:
- Thứ hai: Có
sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất có nghĩa là
những người sản xuất trở thành chủ thể sản xuất, độc lập nhất định sản phẩm làm
ra thuộc quyền sở hữu của họ. Vì vậy, người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao
động của người khác phải thông qua trao đổi mua bán hàng hoá.
Sự tách biệt
này là do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định. Vì chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất làm cho tư liệu sản xuất thuộc sở hữu cá nhân, sản phẩm làm ra
thuộc quyền sở hữu của họ. Vậy người này muốn tiêudùng sản phẩm lao động của
người khác cần phải thông qua trao đổi mua bản hàng hóa.
Trong điều kiện
của nền sản xuất hiện đại, sự tách biệt này còn do các hình thức sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất và sự tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với
tư liệu sản xuất quy định.
Vậy điều kiện
thứ hai cùng có thể hiểu là: Có chế độ tư hữu và sở hữu khác nhau về tư liệu
sản xuất.
Đó là hai điều
kiện cần và đủ của sản xuất hàng hoá. Thiếu một trong hai điều kiện đó thì sản
xuất hàng hoá không thể ra đời và cũng không thể tồn tại.
2. Đặc trưng cơ bản của sản
xuất hàng hoá.
Thứ nhất: Sản xuất hàng hoá là sản
xuất cho thị trường trên cơ sở khai thác
những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở
sản xuất, từ đó tạo ra động lực thúc đẩy
sản xuất phát triển. Tức sự gia tăng không hạn chế nhu cầu của thị trường
là một động lực thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ hai: Cạnh tranh đòi hỏi phải
cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm
tiêu thụ được hàng hóa để nâng cao lợi nhuận. Nghĩa là cạnh tranh đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
mạnh mẽ.
Thứ ba: Sản xuất hàng hóa phát
triển theo tính chất “mở”- giao lưu trong nước và quốc tế ngày càng phát triển.
Tức sản xuất hàng hóa là nhằm tạo điều kiện ngày càng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, sản xuất hàng hoá cũng
có những mặt trái của nó như phân hoá giàu - nghèo giữa những người sản xuất
hàng hoá, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng, phá hoại môi trường sinh thái,
vv…
Ưu thế của kinh
tế hàng hoá
+ Sản xuất hàng hoá ra đời dựa trên
sự phân công lao động xã hội, sự chuyên môn hoá sản xuất. Do đó nó khai thác
được những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ
sở....Đồng thời khi sản xuất hàng hóa phát triển lại tác động trở lại làm cho
phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa lao động, sản xuất ngày càng phát
triển.....Nó phá vỡ tính tự cung tự cấp, bảo thủ lạc hậu của mỗi ngành, mỗi địa
phương làm cho năng suất lao động xã hội ngày một tăng lên nhanh chóng, nhu cầu
xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn...
+ Trong nền sản xuất hàng hoá thì quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi nhu cầu và nguồn lực mang tính chất hạn hẹp, khép kín của từng gia đình, cơ sở, địa phương.... mà nó được mở rộng dừa trên nhu cầu và nguồn lực của xã hội , quốc gia, quốc tế. Điều đó lại tạo điều kiện cho việc ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ và quá trình sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển.
+ Trong nền sản xuất hàng hoá thì quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi nhu cầu và nguồn lực mang tính chất hạn hẹp, khép kín của từng gia đình, cơ sở, địa phương.... mà nó được mở rộng dừa trên nhu cầu và nguồn lực của xã hội , quốc gia, quốc tế. Điều đó lại tạo điều kiện cho việc ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ và quá trình sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển.
+ Trong nền sản xuất hàng hoá, sự
tác động của những quy luật vốn có của sản xuất và trao đổi hàng hoá như quy
luật giá trị, cung cầu, quy luật cạnh tranh..... buộc người sản xuất hàng hoá
phải luôn năng động, nhạy bén, biết tính toán, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao
năng suất lao động, chất lượng và hiều quả kinh tế.... làm cho chi phí sản xuất
thấp, đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng.
+ Trong nền sản xuất hàng hoá, sự
phát triển của sản xuất, sự mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, giữa
các vùng, giữa các nước... không chỉ làm cho đời sống vật chất và đời sống tinh
thần ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên bên cạnh mặt tích cực sản
xuất hàng hóa còn có những mặt tiêu cực: Sự phân hóa giầu nghèo, tiềm ẩn những
khả năng khuỷng hoẳng, phái hoại môi trường sinh thái xã hội....
CÂU 2: phân tích Tính chất hai
mặt của lao dộng sản xuất hàng hóa.? Ý nghĩa của việc phát hiện tính
chất 2 mặt đối với việc làm rõ thực chất của giá trị hàng hóa.
Bài
làm:
Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính gia trị sử
dụng và giá trị do tính chất 2 mặt của LĐ SX hàng hóa quyết định tính chất 2
mặt đó là tính chất cụ thể( lao động cụ thể) và tính chất trừu tượng(LĐ trừu
tượng) C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt đó.
a) Lao động cụ thể
a) Lao động cụ thể
+Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một
hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
+Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương
pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Chính
những cái riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau. Chẳng hạn, lao
động của người thợ may và lao động của người thợ mộc là hai loại lao động cụ
thể khác nhau. Lao động của người thợ may có mục đích là làm ra quần áo chứ
không phải là bàn ghế; còn phương pháp là may chứ không phải là bào, cưa; có
công cụ lao động là kim, chỉ, máy may chứ không phải là cái cưa, cái bào...; và
lao động của người thợ may thì tạo ra quần áo để mặc, còn lao động của người thợ
mộc thì tạo ra ghế để ngồi...
+Điều đó có nghĩa là: lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
+Trong xã hội có nhiều loại hàng hóa với những giá trị sử dụng khác nhau là do có nhiều loại lao động cụ thể khác nhau. Nếu phân công lao động xã hội càng phát triển thì càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau để đáp ứng nhu cầu của xã hội.
+Điều đó có nghĩa là: lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
+Trong xã hội có nhiều loại hàng hóa với những giá trị sử dụng khác nhau là do có nhiều loại lao động cụ thể khác nhau. Nếu phân công lao động xã hội càng phát triển thì càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau để đáp ứng nhu cầu của xã hội.
b) Lao động trừu tượng:
+Lao động trừu tượng là lao động của người sản
xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó, hay nói cách khác,
đó chính là sự tiêu hao sức lao động (tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của
người sản xuất hàng hóa nói chung. Như vậy, có thể nói, giá trị của hàng hóa là
lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó
cũng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.
+ Chính lao động trừu tượng của người sản xuất
hàng hóa mới tạo ra giá trị của hàng hóa. Lao động trừu tượng là 1 phạm trù
lịch sử riêng có của sản xuất hàng hóa.
+ Ở đây ko phải có 2 thứ lao động khác nhau mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hóa nhưng lao động đó mang tính 2 mặt: vừa lao động cụ thể vừa lao động trừu tượng.
+ Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ảnh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động của người sản xuất hàng hóa.
+ Ở đây ko phải có 2 thứ lao động khác nhau mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hóa nhưng lao động đó mang tính 2 mặt: vừa lao động cụ thể vừa lao động trừu tượng.
+ Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ảnh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động của người sản xuất hàng hóa.
+ Như trên đã chỉ ra, mỗi người sản xuất hàng
hoá sản xuất cái gì, sản xuất nhưthế nào là việc riêng của họ. Vì vậy, lao động
đó mang tính chất tư nhân, và lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động
tư nhân.
+ Đồng thời, lao động của người sản xuất hàng
hóa là lao động xã hội vì nó là một bộ phận của toàn bộ lao động xã hội trong
hệ thống phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hóa.. Do đó, lao động trừu
tượnglà biểu hiện của lao động xã hội.
+ Giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có
mâu thuẫn với nhau. Mâu thuẫn đó được biểu hiện cụ thể trong hai trường hợp
sau:
- Sản phẩm do những người sản xuất hàng hóa
riêng biệt tạo ra có thể không ăn khớp với nhu cầu của xã hội. (hoặc không đủ
cung cấp cho xã hội hoặc vượt quá nhu cầu của xã hội...). Khi sản xuất vượt quá
nhu cầu của xã hội, sẽ có một số hàng hóa không bán được, tức không thực hiện
được giá trị.
- Mức tiêu hao lao động cá biệt của người sản
xuất hàng hóa cao hơn so với mức tiêu hao mà xã hội có thể chấp nhận, khi đó
hàng hóa cũng không bán được hoặc bán được nhưng không thu hồi đủ chi phí lao
động bỏ ra.
+Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động
xã hội là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong nền sản xuất hàng hoá. Chính vì
những mâu thuẫn đó mà sản xuất hàng hoá vừa vận động phát triển, vừa tiềm ẩn
khả năng khủng hoảng.
Vậy: Xét lao động cụ thể là xem lao động đó
tiến hành như thế nào, sản xuất ra cái gì. Lao động trừu tượng là tốn bao nhiêu
sức lực, hao phí bao nhiêu thời gian lao động. Cần thấy rằng không phải có hai
thứ lao động được kết tinh trong một hàng hoá mà chí có lao động của ngươì sản
xuất hàng hoá. Nhưng lao động đó có tính 2 mặt: 1 mặt là lao động cụ thể và một
mặt là lao động trừu tượng.
ý
nghĩa: Việc phát hiện ra tính
chất hai mặt của Lđ SX hàng hóa của Cmác có ý nghĩa rất to lớn.
-
Đem lại học thuyết gia giá trị lđmột cơ sở khoa học thực sự . Các nhà KT học
trước Mác cho rằng LĐ tạo ra giá trị nhưng khong biết mặt nào tạo ra giá trị ,
Các mác phát hiện ra mặt LĐ người của SX hh tạo ra giá trị hàng hóa
-
Nhờ phát hiện ra tính chất 2 mặt của lđ sx hh. Cac mác đã giải thích được gồm
gốc thực sự của GT thặng dư , phân tích được bản chất cơ bản bất biến và tư bản
khả biến do đó đem lại cơ sở vững chắc cho học thuyết gia trị thặng dư , học thuyết
tích lũy , hoc thuyết tái SX
Câu 3: Phân tích lượng
giá trị hàng hoá và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị?.
Bài làm:
1. Lượng giá trị hàng hóa
Giá trị hàng hóa bao gồm cả chất
và lượng: Chất giá trị hàng hóa là do lao động trừu tượng của người sản xuất
hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Lượng
giá trị của hàng hóa là do lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó quyết
định.
a. Thước đo lượng giá trị hàng hóa:
Mỗi chủ thể kinh doanh có 1 lượng
hao phí lao động thực tế nhất định trong quá trình sản xuất hàng hóa, đó là
thời gian lao động cá biệt. Thời gian này xác định giá trị cá biệt của hàng
hóa. Trên thị trường không thể dựa vào giá trị cá biệt của hàng hóa để trao
đổi, mà phải dựa vào giá trị xã hội của hàng hóa. Giá trị xã hội của hàng hóa
được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hóa. =>
Thước đo lượng giá trị của hàng hóa được tính bằng thời gian lao động xã hội
cần thiết để sản xuất ra hàng hóa.
Thời
gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng
hóa trong điều kiện bình thường của xã hội (với một trình độ kỹ thuật trung
bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn
cảnh xã hội nhất định).
Thông thường thời gian lao động xã
hội cần thiết được xác định theo thời gian lao động cá biệt của những người sản
xuất và cung ứng tuyệt đại bộ phận loại hàng hóa đó trên thị trường.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị
hàng hóa
-
Thứ nhất
là năng suất lao động:
Năng suất lao động là năng lực sản
xuất của lao động, được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra một đơn vị thời
gian hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Có hai loại năng suất lao động:
Năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động xã hội. Trên thị trường hàng
hóa được trao đổi không phải theo giá trị cá biệt mà là giá trị xã hội =>
Năng suất lao động xã hội có ảnh hưởng đến giá trị xã hội của hàng hóa.
Khi
năng suất lao động xã hội tăng lên thì thời gian lao động cần thiết để sản xuất
ra 1 đơn vị hàng hóa giảm xuống, do đó lượng giá trị của 1 đơn vị hàng hóa giảm
xuống (và ngược lại). Lượng giá trị của hàng hóa tỷ lệ thuận với số lượng lao
động xã hội cần thiết kết tinh troang hàng hóa và tỷ lệ nghịch với năng suất
lao động xã hội => Muốn giảm giá trị của hàng hóa thì phải tăng năng suất
lao động xã hội.
Năng suất lao động phụ thuộc vào
nhiều yếu tố: Trình độ khéo léo của người lao động; Sự phát triển của KHKT-CN
và trình độ ứng dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất; Sự kết hợp xã hội của sản xuất;
Hiệu quả của TLSX và các điều kiện tự nhiên.
Cường độ lao động là khái niệm nói lên mức độ
khẩn trương, là sự căng thẳng mệt nhọc của người lao động. Khi cường độ lao
động tăng thì lượng hao phí trong cùng một đơn vị thời gian tăng, lượng sản
phẩm được tạo ra tăng nhưng lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm thì không
đổi. Về bản chất tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao
động.
Thứ hai, mức độ phức tạp của lao động: Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá
trị của hàng hóa.
+ Lao động giản đơn là sự hao phí
lao động một cách giản đơn mà bất kỳ một người bình thường nào có khả năng lao
động cũng thực hiện được.
+ Lao động phức tạp là lao động
đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động lành nghề.
Trong cùng 1 thời gian, lao động
phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao
động giản đơn. Tuy nhiên, để tiến hành
trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp được quy thành lao động giản đơn trung
bình trên cơ sở lao động phức tạp bằng bội số của lao động giản đơn hay bằng
lao động giản đơn nhân bội lên.
Lượng giá trị của hàng hóa vì thế
được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.
Cấu thành lượng giá trị của hàng
hóa là W = c + v + m. Trong đó c là giá trị cũ (lao động cụ thể của người sản
xuất bảo tồn và di chuyển giá trị của tư liệu sản xuất vào sản phẩm); v
+ m là giá trị mới trong sản phẩm (lao động trừu tượng – hao phí lao động sống
trong quá trình sản xuất ra sản phẩm – làm tăng thêm giá trị cho sản phẩm).
Câu 4. Tư bản là gì? Tại sao nói công thức chung của tư bản có mâu
thuẫn? vì sao phân tích hàng hóa sức lao động là chìa khóa để giải quyết mâu
thuẫn đó?
Bài làm:
1. Công thức
chung của tư bản:
Trong lưu thông
hàng hóa giản đơn H-T-H, T không phải là tư bản. Ở đây T chỉ là phương tiện để
đạt tới một mục đích bên ngoài lưu thông.
Chỉ trong lưu
thông T-H-T thì T mới là tư bản. Ở đây T vừa là điểm khởi vừa là điểm kết thúc
của quá trình lưu thông, H chỉ là khâu trung gian. Tiền ở đây không chi ra dứt
khoát mà chỉ ứng ra rồi thu về nhiều hơn.
Mục đích của lưu
thông tư bản T-H-T không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn nữa là giá
trị tăng thêm. Chính vì thế công thức chung của tư bản là T-H-T’, trong đó
T’=T+∆T. ∆T là số tiền trội hơn so với số tiền đã ứng ra (giá trị thặng dư).
T-H-T’ đúng cho vận động của tư bản: Với tư bản công nghiệp là những giai đoạn
T-H và H-T’, còn tư bản cho vay lấy lãi là từ công thức chung được rút gọn
thành T-T’.
Như vậy: “Tư bản
là giá trị mang lại giá trị thặng dư (GTTD)”.
Sau khi nghiên
cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư trong CNTB, có thể định nghĩa đầy đủ:
“Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không
công của công nhân làm thuê”.
2. Mâu thuẫn
của công thức chung của tư bản:
- Công thức
chung của tư bản: T-H-T' (T’ = T + ∆T). Vậy ∆T xuất hiện từ đâu?
+ Trong lưu thông:
Trong lưu thông, dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì cũng không
tạo ra ∆T
* Trường hợp
trao dổi ngang giá: Chỉ là sự thay đổi của hình thái giá trị từ T-H và từ H-T
nhưng tổng giá trị và phần giá trị của mỗi bên tham gia trao đổi trước và sau
đều không thay đổi. Tuy nhiên, về giá trị sử dụng thì đôi bên đều có lợi.
* Trường hợp
trao đổi không ngang giá, có thể có ba trường hợp xảy ra:
Thứ 1, Trong
trường hợp nhà tư bản bán hàng hóa cao hơn giá trị, nhưng đến lượt anh ta lại
là người đi mua (vì không có ai chỉ bán mà không mua) thì phải mua hàng hóa cao
hơn giá trị ấy. Hành vi bán hàng hóa cao hơn giá trị không mạng lại bất cứ chút
thặng dư (∆T) nào.
Thứ 2, Trường
hợp nhà tư bản cố mua hàng hóa thấp hơn giá trị cũng không mang lại chút thặng
dư (∆T) nào. Vì đến khi anh ta bán cũng buộc phải bán hàng hóa thấp hơn giá
trị.
Thứ 3, nếu xã
hội có một số kẻ lường gạt chuyên mua rẻ, bán đắt thì cái ∆T hắn có là do chiếm
đoạt của người khác mà có. Cái hắn được là cái người khác mất đi, nhưng trong
toàn xã hội thì tổng giá trị của hàng hóa là không thay đổi.
Như vậy, trong lưu thông dù trao đổi ngang
giá hay không ngang giá đều không tạo ra giá trị thặng dư cho các nhà tư bản.
+ Ngoài
lưu thông:
Nếu người trao
đổi vẫn đứng 1 mình với hàng hóa của anh ta, thì giá trị của hàng hóa ấy không
hề tăng lên.
Nếu người sản
xuất muốn sáng tạo thêm thặng dư thì phải bằng lao động của chính mình. Chẳng
hạn da thuộc phải trở thành giày da, ở đó giày da có giá trị lớn hơn da thuộc
vì nó đã thu hút nhiều lao động vào trong giày da. Còn giá trị của da thuộc vẫn
không đổi.
Vậy là "Tư
bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài
lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu
thông, đồng thời không phải trong lưu thông"[1].
Đó chính là mâu
thuẩn trong công thức chung của tư bản. Để giải quyết mâu thuẩn đó, C.Mác đã
chỉ rõ: "Phải lấy những quy luật nội tại của lưu thông hàng hoá làm cơ
sở".
3. Hàng hoá
sức lao động là chìa khoá để giải quyết mâu thuẩn trong công thức chung của tư
bản:
a) Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành
hàng hóa: “Sức lao động, đó là toàn bộ các thể lực và
trí lực ở trong cơ thể một con người, trong nhân cách sinh động của con người,
thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật
có ích”[2].
Không phải sức
lao động nào cũng trở thành hàng hóa. Trong xã hội nô lệ thì sức lao động của
nô lệ không phải là hàng hóa vì bản thân anh ta đã thuộc sở hữu của chủ nô, anh
ta không có quyền bán sức lao động. Người thợ thủ công tự do tuy được tùy ý sử
dụng sức lao động của mình nhưng sức lao động của anh ta cũng không phải là
hàng hóa vì anh ta chỉ sản xuất tự cung tự cấp nuôi sống mình, chứ chưa buộc
phải bán sức lao động để kiếm sống.
Sức lao động chỉ
trở thành hàng hóa khi đồng thời thỏa mãn hai điều kiện sau: Người lao động
phải được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao động của mình và có quyền bán
sức sức lao động của mình như một hàng hóa.; Người có sức lao động phải bị tước
đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt trở thành “vô sản”, để tồn
tại anh ta buộc phải bán sức lao động của mình để kiếm sống.
Sức lao động
biến thành hàng hóa là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản. Nhưng
trước CNTB thì hàng hóa sức lao động chưa xuất hiện. Chỉ dưới CNTB thì hàng hóa
sức lao động mới xuất hiện và trở thành phố biến.
b) Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động: Giá trị hàng hóa sức lao
động cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất
sức lao động quyết định. Muốn sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động người
công nhân phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt cần thiết về ăn, ở, mặc,
học nghề... Ngoài ra họ còn phải thỏa mãn những nhu cầu của gia đình và con
cái.
Giá trị của hàng
hóa sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần
thiết để tái sản xuất ra sức lao động. Giá trị ấy được hợp thành bởi: Giá trị
những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức
lao dộng, duy trì đời sống của bản thân người công nhân; Phí tổn đào tạo người
công nhân; Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết
cho con cái người công nhân. Sự biến đổi giá trị hàng hóa sức lao động một mặt tăng lên do sự tăng lên của nhu
cầu trung bình của xã hội về hàng hóa, dịch vụ, học tập, học nghề... mặt khác lại bị giảm xuống do sự tăng
năng suất lao động xã hội.
Giá trị sử dụng
của hàng hóa sức lao động cũng chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức
lao động. Nhưng khác với hàng hóa thông thường, quá trình tiêu dùng hàng hóa
sức lao động lại là quá trình tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của bản
thân hàng hóa sức lao động.
Nhà tư bản đã
tìm thấy trên thị trường một loại hàng hoá đặc biệt, đó là hàng hoá sức lao
động, mà giá trị sử dụng của nó có tính chất đặc biệt là nguồn gốc sinh ra giá
trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Phần
lớn hơn đó là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt. Chính đặc tính này
đã làm cho hàng hoá sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển thành tư
bản. Do đó việc tìm ra và lý giải phạm trù hàng hoá sức lao động được coi là
chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản. Nếu
"T" của tư bản không dùng để
bóc lột sức lao động của công nhân thì không thể có "T'=T+∆T”.
Câu 5. Sự giống và khác
nhau giữa các phương pháp sản xuất giá
trị thặng dư tương đối, tuyệt đối và siêu ngạch? Ý nghĩa của việc nghiên cứu
này?
Bài làm :
+ Phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Là phương pháp sản xuát giá trị thặng dư bằng
cách kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu; trong khi
năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không
thay đổi.
· Sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối là cơ sở chung của chế độ tư bản chủ nghĩa. Phương pháp này
được áp dụng phổ biến ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, khi lao động còn
thấp.
· Với lòng tham không đáy, nhà tư bản mọi cách kéo dài ngày lao động để nâng cao trình độ bóc lột. Nhưng do giới hạn về ngày tự nhiên, về sức lực con người nên không thể kéo dài vô hạn. Mặt khác, còn do đấu tranh quyết liệt những giai cấp công nhân đòi rút ngắn thời gian lao động cũng không thể rút ngắn chỉ bằng thời gian lao động tất yếu. Một hình thức khác của sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là tăng cường lao động vì tăng cường lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động trong ngày trong khi thời gian lao động càn thiết không thay đổi.
· Với lòng tham không đáy, nhà tư bản mọi cách kéo dài ngày lao động để nâng cao trình độ bóc lột. Nhưng do giới hạn về ngày tự nhiên, về sức lực con người nên không thể kéo dài vô hạn. Mặt khác, còn do đấu tranh quyết liệt những giai cấp công nhân đòi rút ngắn thời gian lao động cũng không thể rút ngắn chỉ bằng thời gian lao động tất yếu. Một hình thức khác của sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là tăng cường lao động vì tăng cường lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động trong ngày trong khi thời gian lao động càn thiết không thay đổi.
+ Phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư tương đối: Là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư do
rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ
đó tăng thời gian loa động thặng dư lên trong điều kiện độ dài ngày lao động,
cường độ lao động cũng như cũ.
Để hạ thấp giá trị sức lao
động thì phải giảm bớt giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho
người công nhân. Muốn vậy, phải tăng năng suất lao động xã hội trong các ngành
sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất
ra các tuw liệu sản xuất tiêu dùng.
- Giữa hai phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư tương đối và sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối có điểm
giống nhau đều làm tăng thời gian lao động thặng dư của người công nhân không
chỉ đủ nuôi sông mình, mà còn tạo ra phần thặng dư. Song, hai phương pháp này
có sự khác nhau về cách thức làm tăng thời gian lao động thặng dư.
+ Giá trị thặng dư siêu
ngạch: Là giá trị thặng dư thu được do người áp dụng công nghẹ mới sớm hơn các
xí nghiệp khác, làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị thị
trường của nó. Khi đa số các xí nghiệp đều đổi mới kỹ thuật và công nghệ thì
giá trị thặng dư sieu ngạch của doanh nghiệp đó không còn nữa.
Xét từng đơn vị sản xuất tư
bản chủ nghĩa, giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, cục bộ.
Nhưng xét về toàn bộ tư bản, giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng thường
xuyên. Vì vậy, giá trị thặng dư siêu ngạch là một động lực thúc đẩy các nhà tư
bản cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động.
Giá trị thăng dư siêu ngạch
là giá trị thặng dư tương đối giống nhau ở chỗ đều là tăng năng suất lao động.
Vì vậy giá trị thặng dư siêu ngạch là biến tướng của giá trị thặng dư tương
đối. Nhưng giữa chúng có sự khác nhau: giá trị thặng dư siêu ngạch dựa trên cơ
sở tăng năng suất lao động cá biệt; còn giá trị thặng dư tương đối thì dựa trên
cơ sở tăng năng suất lao động.
*NÊU Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU CÁC VẤN ĐỀ
NÀY.
Mục đích của các nhà TB là sx ra giá trị
thặng dư tối đa, vì vậy các nhà TB dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và
GTTD. Khái quát có 2 phương pháp để đạt được múc đích đó là Sx GTTD tuyệt đối
& sx GTTD tương đối. 2 phương pháp này được các nhà TB sử dụng kết hợp với
nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trinh phát triển
của CNTB. Ta thấy ngay được rằng, giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực
tiếp, mạnh nhất thúc đẩy các nhà TB cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới
vào sx, hoàn thiện tổ chức lao động & tổ chức sx để tăng năng suất lao động
và giảm giá trị của Hàng Hóa
Câu
6: Chứng minh
rằng sản xuất ra giá trị thặng dư là quy
luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản?
Nội dung, vai trò và biểu hiện của quy
luật này?
Bài làm:
Quy
luật kinh tế cơ bản là quy luật phản ánh bản chất và mục đích của 1 fương thức
sản xuất. Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế cơ bản. Bị tước đoạt
hết tư liệu sản xuất, công nhân buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản.
Lao động ko công của công nhân làm
thuê là nguồn gốc của giá trị thặng dư, nguồn gốc làm giàu của nhà tư bản. Sản
xuất giá trị thặng dư là mục đích duy nhất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Vì mục đích đó các nhà tư bản sản xuất bất cứ loại hàng hoá nào kể cả vũ khí
giết người miễn là thu đc nhiều giá trị thặng dư. Phương tiện để đạt đc mục
đích là tăng cường bóc lột công nhân làm thuê trên cơ sở phát triển kỹ thuật
tăng cường lao động, kéo dài ngày lao động, tăng năng suất lao động....
Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật
kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
Nội
dung của Quy luật:
Là tạo ra càng nhiều giá trị thặng dư
cho nhà tư bản bằng cách tăng cường các phương tiện kỹ thuật và quản lí để bóc
lột ngày càng nhiều lao động làm thuê. Quy luật giá trị thặng dư có tác dụng
manh mẽ trong nhiều mặt của đời sống xã hội. Một mặt nó thúc đẩy kỹ thuật và
fân công lao động fát triển, làm cho lực lượng sản xuất trong xã hội tư bản chủ
nghĩa fát triển với tốc độ nhanh và nâng cao năng suất lao động. Mặc khác, nó
làm cho các mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản trc hết là mâu thuẫn cơ bản
của nó, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất vs sự chiếm hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ngày càng gay gắt.
Sản
xuất ra giá trị thặng dư tối đa ko chỉ phản ánh mục đích của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa mà còn vạch rõ fương tiện, thủ đoạn mà các nhà tư bản sử dụg để
đạt đc mục đích như tăng cường bóc lột công nhân làm thuê bằng cách tăng cường
độ lao động và kéo dài ngày lao động, tăng năng suât lao động và mở rộng sản
xuất.
Biểu hiện của quy luật:
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh quy luật giá trị thặng dư
biểu hiện thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân. Bước sang giai đoạn chủ
nghĩa đế quốc, các tổ chức độc quyền thao túng kinh tế bằng giá cả độc quyền và
thu được lợi nhuận độc quyền cao. Do đó quy luật lợi nhuận độc quyền cao chỉ là
hình thức biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa
- Nguồn gốc lợi nhuận độc quyền cao
+ Là lao động không công của công nhân ở các xí nghiệp độc quyền
+ Một phần lao động không công của công nhân ở các xí nghiệp không độc quyền
+ Một phần giá trị thặng dư của các nàh tư bản vừa và nhỏ bị mất đi do thua
thiệt về cạnh tranh
+ Lao
động tất yếu của những người sản xuất nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản
và các nước thuộc địa phụ thuộc
|
Như vậy, sản xuất ra giá trị thặng dư là quy
luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản, là cơ sở của sự tồn tại và phát
triển của chủ nghĩa tư bản. Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng vs
sự ra đời và tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Nó quyết định các mặt chủ yếu, các
quá trình kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa tư bản. Nó là động lực vận động, phát
triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời cũng làm cho mọi mâu thuẫn của CNTB, đặc
biệt là mâu thuẫn cơ bản của CNTB ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất
yếu CNTB bằng 1 XH cao hơn.
Câu 7: Đảng Cộng sản có vai trò như thế nào trong
việc hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân?
Bài làm:
a. Tính tất yếu, quy luật hình thành và phát
triển Đảng của giai cấp công nhân :
-
Giai cấp công nhân do bị các chủ tư bản áp bức, bóc lột nên đã vùng lên, tự đấu
tranh đòi hỏi đáp ứng những lợi ích kinh tế của giai cấp mình; bắt đầu từ các
cuộc đấu tranh tự phát, xuất phát từ các cuộc đình công đòi tăng lương, giảm
giờ làm … và vì vậy sức mạnh và hiệu quả đạt được từ các phong trào này thường
hạn chế, các cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân giai đọan này đa số diễn ra ở qui mô nhỏ, mang tính đơn độc và cũng chưa
thể trở thành giai cấp lãnh đaọ quần chúng lao động bị áp bức bóc lột,
lật đổ giai cấp tư sản cải tạo xã hội.
-
Dần dần từ các cuộc đấu tranh nhỏ lẻ ấy đã hình thành nên yêu cầu phải có sự
liên kết, tổ chức chặt chẽ hơn của các phong trào nhằm tạo nên sức mạnh đấu
tranh chống lại giai cấp tư sản. Trước phong trào ngày càng lớn mạnh của giai
cấp công nhân, nhu cầu cần có lý luận riêng để làm cơ sở cho cuộc đáu tranh
được đặt ra một cách cấp thiết. Bằng việc tiếp thu lý luận khoa học và từ khi
học thuyết của Mác – Anghen ra đời, các nhà lãnh dạo của giai cấp công nhân đã
đưa những lý luận đó vào thực tiễn, biến nó thành một vũ khí lý luận sắc bén,
làm cho phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân đã chuyển từ tự
phát sang tự giác và thật sự trở thành phong trào chính trị rộng lớn của giai
cấp công nhân trên tòan thế giới.
-
Sau khi học thuyết cách mạng của Mác-Anghen được Lênin đưa vào ứng dụng thực tế
và làm nên cuộc Cách mạng tháng 10 Nga thành công thì học thuyết cách mạng của
Mác đã trở thành Chủ nghĩa Mác, kết hợp với những cơ sở lý luận mới được Lê nin
bổ sung thì Chủ nghĩa Mác lúc này đã trở thành một học thuyết cách mạng tiến
tiến với tên gọi là Chủ nghĩa Mác-Lênin.
-
Thông qua học thuyết Mác Lênin giai cấp công nhân nhận thức được vị trí, vai
trò của mình trong xã hội, biết được nguồn gốc tạo nên sức mạnh và biết tạo nên
sức mạnh đó bằng sự đoàn kết; nhận rõ mục tiêu, con đường và những biện pháp
giải phóng giai cấp mình, giải phóng cả xã hội và giải phóng nhân loại.
-
Giai cấp công nhân đã ý thức được rằng để đấu tranh giành chính quyền và xây
dựng xã hội mới, họ không có vũ khí nào quan trọng hơn là tự mình tổ chức một
chính Đảng độc lập của mình để lãnh đạo giai cấp chống lại quyền lực liên hiệp
của giai cấp tư sản và chỉ khi có chính đảng của mình, giai cấp công nhân mới
có thể hành động với tư cách là một giai cấp được. Hình thức tổ chức cao nhất
của giai cấp công nhân chính là Đảng Cộng sản.
-
Lênin đã chỉ ra rằng Đảng cộng sản hình thành trên cơ sở kết hợp giữa lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân. Ở các nước thuộc địa và phụ
thuộc, sự hình thành Đảng Cộng sản còn là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác Lênin,
phong trào công nhân và phong trào yêu nước, phong trào giải phóng dân tộc.
-
Thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân các nước cho thấy rằng từ sau khi có
Đảng Cộng Sản lãnh đạo, giai cấp công nhân và phong trào công nhân đã chuyển từ
hình thức đấu tranh tự phát sang tự giác trong mỗi hành động với tư cách một
giai cấp tiên tiến và thực sự cách mạng. Chỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản, được trang bị lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, gắn với phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân thì cuộc cách mạng của giai cấp công nhân có
thể đi đến thành công cuối cùng là giành lấy chính quyền từ tay giai cấp tư
sản.
Thực
tiễn sự thất bại của cách mạng Pháp 1848-1850 và công xã PARIS 1871 đã chứng
minh nếu như không có sự soi sáng của học thuyết cách mạng và khoa học của Chủ
nghĩa Mác Lênin và sự dẫn dắt của một chính Đảng thật sự cách mạng thì mọi cuộc
đấu tranh lật đổ chính quyền để xây dựng một xã hội mới đều không vươn tới
những thắng lợi cuối cùng. Chỉ đến cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, một Đảng theo học thuyết cách mạng và khoa học của
chủ nghĩa Mác-Lênin, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân mới giành được thắng
lợi; từ đó cách mạng xã hội chủ nghĩa
Tháng Mười Nga mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
b. Mối quan hệ giữa Đảng với giai cấp công nhân
:
-
Đảng cộng sản không những là tổ chức chính trị cao nhất, đại biểu tập trung cho
trí tuệ và lợi ích của toàn thể giai cấp công nhân mà còn đại biểu cho toàn thể
nhân dân lao động và dân tộc. Chỉ khi nào có một đảng chính trị vững vàng, kiên
định và sáng suốt, có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, thể hiện lợi
ích của toàn bộ giai cấp và toàn bộ phong trào thì giai cấp công nhân mới có
thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Như vậy, Đảng là nhân tố có vai trò
quyết định trong việc thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân.
-
Vai trò đó thể hiện ở các mặt như: Đảng giác ngộ giai cấp công nhân và nhân dân
lao động bằng lý luận tiên phong của chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng lý luận
ấy vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước;
Đảng đề ra cương lĩnh chính trị, vạch ra cho giai cấp công nhân và nhân
dân lao động con đường đấu tranh cách mạng đúng đắn, tổ chức quần chúng đấu tranh
từ thấp đến cao và giành chính quyền; khi giành được chính quyền, Đảng lãnh đạo
chính quyền và toàn xã hội thực hiện đường lối của Đảng đề ra để xây dựng xã
hội mới.
-
Giữa Đảng và giai cấp công nhân có mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Giai
cấp công nhân là cơ sở xã hội – giai cấp của Đảng, là nguồn bổ sung lực lượng
của Đảng. Ngược lại, Đảng là chính đảng của giai cấp công nhân, hình thành trên quan điểm lập trường giai cấp
công nhân, là đội tiên phong chiến đấu, là bộ tham mưu của giai cấp. Những đảng
viên của Đảng Cộng sản có thể không phải là công nhân nhưng phải là người giác
ngộ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và đứng trên lập trường của giai
cấp này.
Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô cho
thấy bài học kinh nghiệm sâu sắc rằng một khi Đảng Cộng sản xa rời lập trường
giai cấp công nhân, không tự đổi mới về trình độ lý luận chính trị, đội ngũ
Đảng viên để lọt những phần tử cơ hội vào trong hàng ngũ của Đảng gây lũng đoạn
làm cho bộ máy Đảng biến chất thì sớm muộn Đảng ấy cũng sẽ để mất vai trò lãnh
đạo cách mạng. Để giành lấy chính quyền từ tay gai cấp tư sản đã khó, nhưng
việc giữa vững chính quyền và xây dựng xã hội mới XHCN lại càng khó hơn. Sự
thất bại của các nước Đông âu và Liên xô là một bài học đau đớn cho giai cấp
công nhân và nhân dân lao động trên tòan thế giới. Sự thất bại đó là do tầng
lớp lãnh đạo không thường xuyên tổng kết thực tiền, nâng cao trình độ lý luận
của Đảng, việc chăm lo xây dựng Đảng chưa chặt chẽ đã làm mất vai trò và tính
tiên phong của Đảng, đội ngũ Đảng viên bị phân hoá, mơ hồ về quan điểm, lập
trường giai cấp, dễ dàng sa ngã theo chủ nghĩa cơ hội, một số khác biến dạng
hình thành một đẳng cấp có đặc quyền, đặc lợi, xa rời quần chúng. Sự thiếu kiên
quyết trong việc giải quyết các vấn đề mang tính nguyên tắc trong Đảng: vấn đề
tổ chức hệ thống chính trị, chính sách kinh tế, chính sách đối ngọai, chính
sádch xã hội,… đã làm cho Đảng mất tín nhiệm giai cấp, đi đến chia rẽ, tan rã.
Sự chủ quan duy ý chí và thiếu cảnh giác trước những âm mưu của CNTB và những
thế lực thù địch đã tạo điều kiện cho những phần tử cơ hội trong Đảng trỗi dậy,
họ sẵn sàng hợp tác với thế lực đế quốc phá hoại Đảng, phá hoại thành quả của
CNXH, bắt đầu từ sự phản bội của người lãnh đạo chủ chốt.
Tuy nhiên, sự đổ vỡ của Liên Xô và các nước Đông âu không có
nghĩa là sự sụp đổ của học thuyết về chủ nghĩa xã hội, không phải là sự sụp đổ
của phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới mà nguyên nhân trực tiếp là Đảng Cộng
sản phạm những sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ
chức, xa rời giai cấp, thiếu tỉnh táo thanh lọc những phần tử cơ hội, nhất là những phần tử cơ hội về chính trị.
Từ những bài
học trên cho thấy, để thể hiện và giữ vững vai trò lãnh đạo của mình trong việc
tổ chức cho giai cấp công nhân thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử, Đảng
Cộng sản phải luôn luôn giữ vững lập trường giai cấp đồng thời phải thường
xuyên tự đổi mới để vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức, không ngừng tu
dưỡng, rèn luyện nâng cao ý chí cách mạng, lập trường giai cấp, nâng cao toàn
diện trình độ kiến thức, trình độ lý luận; kịp thời tổng kết kinh nghiệm đề ra
thực tiễn sâu sắc nhằm đề ra đường lối chiến lược sách lược đúng đắn, đồng thời
phải xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao hiệu quả và sức
chiến đấu của Đảng.
Câu 8: Cách mạng
xã hội chủ nghĩa là gì? Vì sao cách mạng xã hội chủ nghĩa lại ra đời? Cách mạng
xã hội chủ nghĩa có mục tiêu động lực và nội dung nào?
Bài làm:
- C/m
XHCN là cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ TBCN lỗi thời bằng chế độ
XHCN. Trong cuộc cm đó, GCCN là giai cấp lãnh đạo và cũng với quần chúng
nhd lđ xây dựng 1 xh công bằng, dân chủ, văn minh. là một cuộc cách mạng
chính trị, được kết thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân
lao động giành được chính quyền, thiết lập được nhà nước chuyên chính vô
sản - nhà nước của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.
- C/m XHCN ra đời bởi nguyên nhân sâu xa là do mâu thuẫn giữa LLSX có
tính xh hóa cao với tính chất tư nhân TB CN về tư liệu sx dưới CNTB. Mâu
thuẫn trong lĩnh vực kinh tế là tính tổ chức, tính kế hoạch cao trong từng
doanh nghiệp ngày càng tăng với tính vô tổ chức của sx toàn xh do tính
cạnh tranh của nền SXHH TBCN tạo ra. Vì vậy, để phù hợp với tính chất ngày
càng xh hóa cao của LLSX chỉ có thể là sự thay thế quan hệ sx TBCN bằng quan
hệ sx XHCN thông qua cuộc cm XHCN.
CÁNG
MẠNG XHCN CÓ MỤC TIÊU, ĐỘNG LỰC & NỘI DUNG NÀO?
- Mục tiêu cao cả nhất của cm XHCN đó là phải hiện thực hóa qua từng
chặng đường, từng bước đi, thông qua quá trình lđ đầy nhiệt huyết và sáng
tạo của quần chúng nhd lđ bằng công tác tổ chức xh 1 cách khoa học trên
tất cả các lĩnh vực của nhà nước XHCN, dưới sự lãnh đạo của Đ CS.
- Cách mạng dân chủ tư sản với khẩu hiệu tự do,
bình đẳng, bác ái đã tập hợp quần chúng nhân dân lao động trong cuộc đấu
tranh lật đổ giai cấp quí tộc, phong kiến. Nhưng khi giai cấp tư sản giành
được chính quyền, thì mọi quyền tự do, dân chủ của quần chúng nhân dân lao
động không được tôn trọng. Tự do trong chế độ tư bản chủ nghĩa là tự do
bóc lột của giai cấp tư sản, tự do bán sức lao động của người công nhân;
tự do bóc lột của nước giàu với nước nghèo, tự do thống trị của nước lớn
với nước nhỏ, v.v..
- Giải phóng con người, giải phóng xã hội là mục
tiêu của giai cấp công nhân, của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cho nên có
thể nói chủ nghĩa xã hội mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Chủ nghĩa
xã hội không chỉ dừng lại ở ý thức, ở khẩu hiệu giải phóng con người, mà
từng bước thực hiện việc giải phóng con người "trên thực tế, biến con
người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc tự do", tạo nên một
thể liên hiệp "trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều
kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" .
- Khi chúng ta nói mục tiêu là cái đích cần đạt
tới, do vậy, những mục tiêu khả thi nêu trên từng bước biến thành hiện
thực thông qua quá trình lao động nhiệt tình của quần chúng nhân dân lao
động, thông qua những biện pháp tổ chức xã hội một cách khoa học trên tất
cả các lĩnh vực đời sống xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa, dưới sự
lãnh đạo của đảng cộng sản.
- Mục
tiêu giai đoạn thứ nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giành lấy chính
quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Mục tiêu giai đoạn thứ hai của cách mạng xã hội chủ nghĩa là
"xoá bỏ mọi chế độ người bóc lột người... nhằm đưa lại đời sống ấm no
cho toàn dân" . Khi mà "xoá bỏ tình trạng người bóc lột người
thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ"
+ Trong giai đoạn thứ nhất, GCCN phải đoàn
kết với những người lđ khác để thực hiện lật đổ chính quyền của giai cấp thống
trị, giai cấp bóc lột.
+
Trong giai đoạn thứ 2, GCCN phải tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động vào
công cuộc tổ chức 1 xh mới về mọi mặt, thực hiện xóa bỏ tình trạng “ người bóc
lột người” để không còn tình trạng dân tộc này áp bức –bóc lột dân tộc khác.
Đến giai đoạn cao
nhất là giai đoạn Chủ Nghĩa Cộng Sản, khi đó không còn giai cấp, không còn nhà
nước giai cấp vô sản vượt lên thành giai cấp thống trị.
*Động lực của cuộc C/m XHCN là:
- C/m XHCN với mục đích giải phóng giai cấp
công nhân, nhân dân lao động ra khỏi tình trạng bị áp bức, bóc lột, đưa lại
cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhd lđ, do vậy đã thu hút được sự tham gia của
quần chúng nhd lđ trong suốt quá trình cách mạng.
- GCCN là lực lượng hành đầu đảm bảo cho sự
thắng lợi của cuộc cách mạng XHCN, đây vừa là giai cấp lãnh đạo, vừa là động
lực chủ yếu trong cm XHCN. và ở đâu phong trào công nhân vững mạnh, sự lãnh đạo
của chính đảng của giai cấp công nhân sáng suốt thì cách mạng xã hội chủ nghĩa
giành được thắng lợi, những lực lượng phản động quốc tế bị đẩy lùi.Và ngược
lại.
- GCND có nhiều lợi ích cơ bản, thống nhất
với lợi ích của GCCN. Dó đó giai cấp này trở thành động lực to lớn trong cách
mạng XHCN. cuộc đấu tranh giành chính quyền, giai cấp công nhân chhỉ giành được
thắng lợi khi lôi kéo được giai cấp nông dân đi theo mình.Sự tham gia đồng đảo
của GCND là đk đảm bảo sự lãnh đạo của Đ CS, là cơ sở xây dựng chính quyền –
nhà nước vững mạnh, là yếu tố đảm bảo để mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc. “
Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính vô sản là duy trì khối liên minh giữa giai
cấp vô sản và giai cấp nông dân”
- Trong quá trình xây dựng CNXH, vai trò
của đội ngũ trí thức là động lực quan trọng trong cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa , là lực lượng truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào giác ngộ quần chúng nhân
dân lao động. Trí thức là những người góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nguồn
nhân lực cho đất nước, là những người chăm lo sức khỏe cho nhân dân. Họ tham
gia xậy dựng đường lối của Đ’, chính sách pháp luật của nhà nước & phổ biến
, truyền bá chúng đến với nhân dân. Trí thức là những người sáng tạo ra giá trị
khoa học kỹ thuật, tiếp thu những thành tựu khoa học trên thế giới, áp dụng vào
trong cuộc sống, truyền bá vào trong nhân dân.
*Nội dung của cách mạng XHCN là:
Cách
mạng xã hội chủ nghĩa được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội.
- Trên lĩnh vực chính trị:
- Trên lĩnh vực chính trị:
Trước
tiên là phải đập tan nhà nước của giai cấp bóc lột, giành chính quyền về tay
GCCN, nhân dân lao động; đưa những người lđ từ địa vị nô lệ làm thuê lên địa vị
làm chủ xh.Tiếp theo, cần phải tạo đk làm sâu rộng thêm nền dân chủ XHCN.
Trên lĩnh vực chính trị:
đưa quần chúng nhân dân lao động từ địa vị nô lệ, làm thuê, bị áp bức, bóc lột
trở thành người làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, bằng lao động sản xuất, bằng
cuộc đấu tranh xoá bỏ những cái xấu của xã hội cũ, xây dựng xã hội mới về mọi
mặt làm cho xã hội ngày càng phát triển, mức sống của nhân dân ngày càng nâng
lên.
Muốn
thực hiện được những nội dung nêu trên, giai cấp công nhân cùng với nhân dân
lao động, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, dùng bạo lực cách mạng đập tan bộ
máy nhà nước của giai cấp tư sản, "giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải
giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc" .
Bước
tiếp theo, giai cấp công nhân phải không ngừng nâng cao trình độ tri thức về
mọi mặt cho quần chúng nhân dân lao động, tạo ra những điều kiện cần thiết để
ngày càng mở rộng dân chủ cho nhân dân, thu hút quần chúng nhân dân lao động
tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, làm cho nhà nước thực
sự là của dân, do dân, vì dân.
Quá
trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quá trình nhân dân thực hiện quyền
làm chủ về chính trị cũng là quá trình đấu tranh gay go quyết liệt giữa cái cũ
và cái mới, giữa cá nhân và tập thể, giữa chủ nghĩa cách mạng và phản cách
mạng, v.v..
- Trên lĩnh vực
kinh tế: Cách mạng xã hội chủ nghĩa, về thực chất là có tính chất kinh tế. Nen
trước hết phải thay đổi vị trí, vai trò của người lđ đối với tư liệu sx, thay
thế chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sx bằng chế độ sở hữu XHCN với
những hình thức thích hợp. Thực hiện những biện pháp cần thiết gắn người lđ với
tư liệu sx.
+
những cuộc cách mạng trước đây về thực chất là cách mạng chính trị. Chúng kết
thúc bằng việc lật đổ ách thống trị của giai cấp này, thay thế bằng sự thống
trị của giai cấp khác. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực chất, là có tính
chất kinh tế. Việc giành được chính quyền về tay giai cấp công nhân, nhân dân
lao động mới là bước đầu. Nhiệm vụ trọng tâm, có ý nghĩa quyết định cho sự thắng
lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa là phải phát triển kinh tế, không ngừng nâng
cao năng suất lao động, cải
thiện đời sống nhân
dân.
Cách mạng xã hội
chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế, trước hết, phải thay đổi vị trí, vai trò của
người lao động đối với tư liệu sản xuất, thay chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa bằng chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa dưới những hình thức thích hợp;
thực hiện những biện pháp cần thiết gắn người lao động với tư liệu sản xuất.
Trên cơ sở lực
lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động ngày càng tăng cao, từng bước cải thiện đời
sống nhân dân lao động, nâng cao chất lượng sức khoẻ, năng lực của người lao
động. Mặt khác, dưới chủ nghĩa xã hội, tìm mọi cách phát huy tính tích cực xã
hội, khả năng sáng tạo của người lao động để ngày càng nâng cao năng suất lao
động, hiệu quả công tác làm cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát
triển góp phần chiến thắng chủ nghĩa tư bản.
Dưới chủ nghĩa xã
hội, có điều kiện đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất, góp phần nâng cao năng
suất lao động, tạo ra nhiều của cải xã hội phục vụ quần chúng nhân dân lao
động, vì có sự thống nhất về lợi ích giữa cá nhân, tập thể và xã hội.
Chủ nghĩa xã hội
thực hiện phân phối theo lao động, do vậy, năng suất lao động, hiệu quả công
tác là thước đo đánh giá sự đóng góp của mỗi người cho xã hội. Năng suất lao
động, hiệu suất công tác là biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước, ý thức giai
cấp, ý thức dân tộc của mỗi người ở trong xã hội.
Trên lĩnh vực tư
tưởng - văn hoá: Trong các xã hội trước đây, giai cấp bóc lột nắm tư liệu sản
xuất vật chất, họ cũng nắm luôn công cụ thống trị về mặt tinh thần. Dưới chủ
nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động đã là những
người làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, do vậy, cũng là những sáng
tạo ra những giá trị tinh thần của xã hội. Người lao động là người sáng tạo,
làm phong phú thêm những giá trị văn hoá tinh thần của xã hội, đồng thời cũng
là những người hưởng thụ những giá trị văn hoá tinh thần đó.
Trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa: Dưới chủ
nghĩa xã hội, giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động là những người sáng
tạo ra những giá trị văn hóa, tinh thần. Nên phải thực hiện việc giải phóng
những người lđ về mặt tinh thần thông qua xd từng bước thế giới quan & nhân
sinh quan mới cho người lđ, hình thành những con người mới XHCN, giàu lòng yêu
nước thương dân, có bản lĩnh chính trị, nhân văn, nhân đạo; có hiểu biết, có
khả năng giải quyết 1 cách đúng đắn mqh cá nhân, gđ & xh.
Trên cơ sở kế thừa
có chọn lọc và nâng cao các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, tiếp thu
các giá trị văn hoá tiên tiến của thời đại, cách mạng xã hội chủ nghĩa trên
lĩnh vực văn hoá thực hiện việc giải phóng những người lao động về mặt tinh
thần thông qua việc xây dựng từng bước thế giới quan và nhân sinh quan mới cho
người lao động, hình thành những con người mới xã hội chủ nghĩa, giàu lòng yêu
nước, thương dân, có bản lĩnh chính trị, nhân văn, nhân đạo, có hiểu biết và
biết giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân, gia đình và xã hội..., có năng
lực làm chủ xã hội.
Cách mạng xã hội
chủ nghĩa diễn ra đồng thời trên các lĩnh vực và các lĩnh vực đó có quan hệ mật
thiết, tác động, thúc đẩy lẫn nhau.
Nhìn chung, cách
mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình cải biến toàn diện xã hội cũ thành xã
hội mới, trong đó công cuộc cải tạo kết hợp chặt chẽ với công cuộc xây dựng mà
xây dựng là chủ yếu. Cải tạo đóng vai trò như một phương tiện phục vụ cho mục
tiêu xây dựng xã hội mới, ngược lại, công cuộc xây dựng xã hội mới tạo ra những
điều kiện có ý nghĩa quyết định để triển khai công cuộc cải tạo.
+ Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách
mạng nhằm thay thế chế độ cũ, nhất là chế độ tư bản chủ nghĩa, bằng chế độ xã
hội chủ nghĩa, trong cuộc cách mạng đó, giai cấp công nhân là người lãnh đạo và
cùng với quần chúng nhân dân lao động khác xây dựng một xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
CÂU 9: Vì sao giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức
phải liên minh với nhau? Liên minh công – nông – trí thức bao gồm những nội
dung và nguyên tắc nào?
Do những cuộc cm đi trước đã chứng tỏ rằng:
các cuộc cm sở dĩ bị thất bại là do GCCN chưa lôi kéo được những người bạn đồng
minh là GCND & tầng lớp trí thức. Nổi bật nhất là sự thất bại của công xã
Pari. Nhưng sang cm tháng 10 Nga, do trong quá trình lãnh đạo, Lenin thường
xuyên chủ trương và thực hiện củng cố khối liên minh công nông, đó cũng là 1
trong những nguyên nhân đưa đến những thắng lợi của cm tháng 10. Ông chỉ rõ:
“chuyên chính vô sản lá 1 hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai
cấp vô sản- đội tiên phong của những người lđ, với đông đảo những tầng lớp
không phải vô sản. Ông cho rằng, nếu không thực hiện liên minh chặt chẽ với
GCND & trí thức thì GCCN không thể giữ được chính quyền nhà nước.
Mục
tiêu của cm XHCN không phải là duy trì giai cấp, duy trì nhà nước mà là tiến
lên xây dựng 1 xh không còn giai cấp, không còn nhà nước. điều đó chỉ có thể
thực hiện được trên cơ sở xây dựng khối liên minh công –nông-trí thức vững
chắc, vì có như vậy mới lôi kéo được nông dân, đưa nông dân đi theo con đường
XHCN.
LIÊN MINH CÔNG - NÔNG - TRÍ THỨC BAO GỒM
NHỮNG NỘI DUNG & NGUYÊN TẮC NÀO?
- Nội dung của liên minh công - nông - trí thức bao gồm:
- Liên minh về chính trị: trở thành cơ sở
vững chắc cho nhà nước XHCN, tạo thành nòng cốt trong mặt trận dân tộc thống
nhất. Trong đấu tranh, liên minh này nhằm giành lấy chính quyền về tay GCCN
cùng với nhân dân lđ. Trong quá trình xây dựng CNXH liên minh này cùng nhau bảo
vệ chế độ XHCN và mọi thành quả cm, làm cho nhà nước XHCN ngày càng vững mạnh.
.Tuy nhiên, liên minh về chính trị giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân không phải là sự dung hòa lập trường tư tưởng giữa công nhân với nông dân
mà phải trên lập trường chính trị của giai cấp công nhân. Có như vậy giai cấp
nông dân mới đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa được.
- Liên minh về kinh tế: là nôi dung cơ
bản,quyết định nhất vì có liên minh vể kinh tế chặt chẽ mới thực hiện được liên
minh trong các lĩnh vực khác.hoạt động kinh tế phải vừa bảo đảm lợi ích của nhà
nước, của xh, đồng thời phải thường xuyên quan tâm tới lợi ích của các giai cấp
trong xh. Nếu kết hợp đúng đắn các lợi ích kinh tế của các giai cấp trong xh,
nó sẽ trở thành 1 động lực to lớn thúc đẩy xh phát triển, ngược lại nó cũng sẽ
trở thành lực cản đối với sự phát triển của xh. Muốn thực hiện được sự liên
minh về kinh tế giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, Đảng của giai
cấp công nhân và nhà nước xã hội chủ nghĩa phải thường xuyên quan tâm tới xây
dựng một hệ thống chính sách phù hợp đối với nông dân, nông nghiệp và nông
thôn.
- Liên minh về văn hóa –xh: liên minh công
- nông-trí thức phải thường xuyên học tập, nâng cao trình độ văn hóa để thích
nghi với nền công nghiệp sx hiện đại, xây dựng 1 xh nhân văn, nhân đạo, trong
quan hệ hữu nghị và giúp đỡ lẫn nhau giữa con người với con người, giữa dân tộc
này với dân tộc khác; phải hiểu biết chính sách- pháp luật để tham gia quản lý
kinh tế, quản lý xh, quản lý nhà nước.
- Liên minh công-nông-trí thức bao gồm những nguyên tắc sau:
- Phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai
cấp trong khối liên minh công-nông.: “…chỉ có sự lãnh đạo của giai cấp vô sản
mới có thể giải phóng quần chúng tiểu nông thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản và
dẫn họ tới chủ nghĩa xã hội”
- Phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện.: thì
khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân mới bền vững và
lâu dài.
- Phải kết hợp đúng đắn các lợi ích của
GCCN - GCND : : Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân có những lợi
ích cơ bản là thống nhất: họ đều là những người lao động, đều bị bóc lột dưới
chủ nghĩa tư bản. Sự thống nhất lợi ích này tạo điều kiện thực hiện sự liên
minh giữa họ
CÂU 10: Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa được hiểu như thế nào? Đặc trưng nội
dung và phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa?
Nền văn hóa XHCN là sự phát triển tự nhiên,
hợp quy luật khi phương thức sx TBCN đã lỗi thời & phương thức sx mới của
XHCN đã hình thành. Nền văn hóa XHCN là nền văn hóa được xd & phát triển
trên nền tảng hệ tư tưởng của GCCN, do Đ CS lãnh đạo nhằm thỏa mãn nhu cầu
không ngừng tăng lên về đời sống văn hóa tinh thần của nhd, đưa nhd lđ trở
thành chủ thể sáng tạo & hưởng thụ văn hóa. Lênin đã khẳng định sự thay thế
nền văn hóa tư sản bằng nền văn hóa vô sản là một sự thay đổi lớn về tư tưởng,
“lịch sử tư tưởng là lịch sử của quá trình thay thế của tư tưởng, do đó là lịch
sử của đấu tranh tư tưởng”
*NÊU ĐẶC TRƯNG, NỘI DUNG & PHƯƠNG THỨC
XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA XHCN.
- Đặc trưng của việc xd nền văn hóa XHCN
là:
+. Chủ nghĩa Mác - Lênin với tư cách là hệ
tư tưởng của giai cấp công nhân, giũ vai trò chủ đạo và là nền tảng tư tưởng,
quyết định phương hướng phát triển nội dung của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
+ nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn
hóa coa tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. +Nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa là nền văn hóa được hình thành, phát triển một cách tự giác, đặt dưới sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua tổ chức đảng cộng sản, có sự quản lý
của nhà nước xã hội chủ nghĩa
-Nội dung của việc xd nền văn hóa XHCN là:
+ cần phải nâng cao trình độ dân chí, hình
thành đội ngũ trí thức của xh mới: cần hình thành trong các thế hệ thanh niên,
đặc biệt là trong các thế hệ sinh viên một hệ thống tri thức hiện đại, một tâm
hồn thắm đượm giá trị văn hóa dân tộc.
+ Xd con người mới phát triển toàn diện:
con người là sf của lịch sử, nhưng chính hoạt động của con người đã sáng tạo ra
lịch sử. Con người mới xã hội chủ nghĩa được xây dựng là con người phát triển
toàn diện. Đó là con người có tinh thần và năng lực xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội; là con người lao động mới; là con người có tinh thần yêu nước
chân chính và tinh thần quốc tế trong sáng; là con người có lối sống tình
nghĩa, có tính cộng đồng cao.
chẳng hạn: xd lối sống mới XHCN, xd gia
đình văn hóa XHCN.
- Phương thức xd nền văn hóa XHCN là:
+ Giữ vững & tăng cương vai trò chủ đạo
của hệ tư tưởng GCCN trong đời sống tinh thần của xh.
+ Không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đ
CS & vai trò quan lý của nhà nước XHCN đối với hoạt động văn hóa.
+ Xd nền văn hóa XHCN phải theo phương thức
kết hợp việc kế thừa những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc & tiếp thu
có chọn lọc những tinh hoa của văn hóa nhân loại.
+ Tổ chức & lôi cuốn quần chúng nhd vào
các hoạt động & sáng tạo văn hóa.
Câu 11: Những nguyên tắc (nội
dung) cần quán triệt khi giải quyết vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc theo chủ
nghĩa Mác-lênin?
. Vấn đề dân tộc và nguyên tắc cơ bản của
chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc
a. Khái niệm dân tộc
Dân tộc là một hình thức tổ chức cộng đồng
người có tính chất ổn định được hình thành trong lịch sử, là sản phẩm của quá
trình phát triển lâu dài của lịch sử xã hội. Trước khi dân tộc xuất hiện, loài
người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc,
bộ tộc.
Khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều
nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất :
Thứ nhất, dân tộc là cộng đồng người có mối
liên hệ chặt chẽ và bền vững,có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và
những nét văn hoá đặc thù;xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế thừa, phát triển cao
hơn những nhân tố tộc ngườiở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác
tộc người của dân cư cộng đồng đó.
Thứ hai, dân tộc là một cộng đồng người ổn
định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống
nhất, sử dụng ngôn ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình,
gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền
thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ
nước.
b. Hai xu hướng phát triển của dân tộc và
vấn đề dân tộc trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân
tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, V.I. Lênin đã phát hiện ra hai xu
hướng khách quan của sự phát triển các dân tộc như sau:
Xu hướng thứ nhất: Khi mà các tộc người,
cộng đồng dân cư có sự trưởng thành về ý thức dân tộc, ý thức về quyền sống của
mình, thì các cộng đồng dân cư đó muốn tách ra thành lập các dân tộc độc lập.
Trên thực tế, xu hướng này đã biểu hiện thành phong trào đấu tranh chống áp bức
dân tộc, thành lập các quốc gia dân tộc độc lập.
Xu hướng thứ hai: Sự liên hiệp lại của các
dân tộc trong một quốc gia, các dân tộc của nhiều quốc gia nhằm mở rộng, tăng
cường quan hệ kinh tế, phá bỏ ngăn cách về kinh tế giữa các dân tộc.
Hai xu thế này vận động trong một thể thống
nhất, mỗi nước vừa có nhu cầu độc lập, tự chủ… nhưng đồng thời vừa phải mở rộng
quan hệ với bên ngoài, hòa nhập với cộng đồng quốc tế và ngày càng xích lại gần
nhau trên các lĩnh vực. Đây là hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc
và ngày nay, nó đang có những biểu hiện rất phong phú và đa dạng. Xét trong
phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc: Xu hướng thứ nhất biểu
hiện trong sự nỗ lực của từng dân tộc để đi đến sự tự chủ và phồn vinh của bản
thân dân tộc mình. Xu hướng thứ hai, tạo nên sự thúc đẩy mạnh mẽ để các dân tộc
trong cộng đồng quốc gia xích lại gần nhau hơn, hòa hợp với nhau ở mức độ cao
hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.Trong điều kiện của chủ nghĩa xã
hội, hai xu hướng phát huy tác động cùng chiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và
diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng đồng quốc gia trên cơ sở hợp tác bình
đẳng giữa các dân tộc, tôn trọng và hữu nghị.
Trong thời đại ngày nay, các dân tộc có xu
hướng xích lại gần nhau thành những liên minh trên cơ sở lợi ích chung nhất định
của các dân tộc. Hơn nữa sự liên minh đó còn tạo nên sức hút trên toàn cầu nhằm
tập trung giải quyết những vấn đề chung của cả nhân loại như: phòng chống nguy
cơ chiến tranh hạt nhân,chống ô nhiễm, bảo vệ môi trường sinh thái, phòng chống
dịch bệnh, khủng bố...
c. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc
Vấn đề dân tộc là một bộ phận của cách mạng
vô sản do đó giải quyếtvấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản, đứng vững
trên lập trường của giai cấp công nhân, trên cơ sở vì lợi ích cơ bản và lâu dài
của dân tộc. Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về dân tộc, từ thực tiễn
đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Nga; phân tích sâu sắc
hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc gắn liền với quá trình phát
triển của chủ nghĩa tư bản, nhất là khi đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa,V.I.Lênin đã khái quát lại thành “Cương lĩnh dân tộc” của Đảng Cộng sản.
Nội dung của Cương lĩnh gồm:
Thứ nhất, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.
Thứ ba, liên hiệp công nhân tất cả các dân
tộc.
Đây là tư tưởng cơ bản trong Cương lĩnh dân
tộc của V.I. Lênin, nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản
ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
Những người cộng sản lấy đoàn kết công nhân tất cả các dân tộc làm mục tiêu
phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng
nhân loại.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác -
Lênin là một bộ phận trong cương lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp;
là cơ sở lý luận của đường lối, chính sách dân tộc của các Đảng Cộng sản và Nhà
nước xã hội chủ nghĩa. chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, dân tộc là sản phẩm của quá
trình phát triển lâu dài của lịch sử. Trước dân tộc là các hình thức cộng đồng
tiền dân tộc như thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã
dẫn tới sự ra đời và phát triển của các nhà nước dân tộc tư bản chủ nghĩa. Khi
chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các đế quốc thực hiện
chính sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, nô dịch các nước nhược tiểu, vấn đề dân
tộc trở nên gay gắt và từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc và thuộc địa. Sau cách
mạng Tháng Mười Nga và sự ra đời hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, phong trào
giải phóng dân tộc phát triển mạnh, dẫn tới sự tan rã của hệ thống thuộc địa
của chủ nghĩa đế quốc và xuất hiện nhiều quốc gia dân tộc độc lập trẻ tuổi.
Bản chất của chủ nghĩa xã hội là
thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân
c. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc
Vấn đề dân tộc là một bộ phận của cách mạng
vô sản do đó giải quyếtvấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản, đứng vững
trên lập trường của giai cấp công nhân, trên cơ sở vì lợi ích cơ bản và lâu dài
của dân tộc. Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về dân tộc, từ thực tiễn
đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Nga; phân tích sâu sắc
hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc gắn liền với quá trình phát
triển của chủ nghĩa tư bản, nhất là khi đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa,V.I.Lênin đã khái quát lại thành “Cương lĩnh dân tộc” của Đảng Cộng sản.
CÂU 12: Vì sao trong thời kỳ quá độ lên CNXH tôn giáo vẫn còn tồn tại? Chủ
nghĩa Mác-lênin chủ trương giải quyết vấn đề tôn giáo như thế nào?
Trong thời kỳ quá
độ lên CNXH tôn giáo vẫn còn tồn tại, có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại
của tín ngưỡng – tôn giáo, trong đó có những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Nguyên nhân nhận thức: là do trước
những sức mạnh tự phát của thế giới tự nhiên & xã hội mà con người vẫn chưa
thể nhận thức và chế ngự được đã khiến cho 1 bộ phận nhân dân đi tìm sự an ủi,
che chở & lý giải chúng từ sức mạnh của thần linh.
Hiện nay nhân loại đã đạt được những thành
tựu to lớn về khoa học và công nghệ, với những tiến bộ vượt bậc của công nghệ
thông tin, sinh học, vật liệu mới…đã giúp con người có thêm những khả năng để
nhận thức xã hội và làm chủ tự nhiên. Song thế giới khách quan là vô cùng, vô
tận, tồn tại đa dạng và phong phú, nhận thức của con người là một quá trình và
có giới hạn, thế giới còn nhiều vấn đề mà hiện tại khoa học chưa thể làm rõ.
Những sức mạnh tự phát của tự nhiên, xã hội đôi khi rất nghiêm trọng còn tác
động và chi phối đời sống con người. Do vậy, tâm lý sợ hãi, trông chờ, nhờ cậy
và tin tưởng vào Thần, Thánh, Phật…chưa thể gạt bỏ khỏi ý thức của con người
trong xã hội,trong đó có nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa.
- Nguyên nhân kinh tế: là do những
yếu tố may rủi, ngẫu nhiên về kinh tế, chính trị, văn hóa, xh vẫn tác động mạnh
mẽ đến con người, làm cho con người trở nên thụ động với tư tưởng nhờ cậy, cầu
mong vào những lực lương siêu nhiên.
- Nguyên nhân tâm lý: là do trong
mối quan hệ giữa sự tồn tại của xã hội & ý thức của xã hội thì ý thức của
xh thường có tính bảo thủ hơn so với sự biến đổi của sự tồn tại của xã hội,
trong đó ý thức tôn giáo lại thường là yếu tố mang tính chất bền vững nhất
trong đời sống tinh thần của mỗi con người, mỗi xã hội.
Tín
ngưỡng, tôn giáo đã in sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu đậm đến
nếp nghĩ, lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ đến mức trở thành
một kiểu sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của cuộc sống. Cho nên, dù
có thể có những biến đổi lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội,…thì tín ngưỡng,
tôn giáo cũng không thay đổi ngay theo tiến độ của những biến đổi kinh tế, xã
hội mà nó phản ánh.
- Nguyên nhân chính trị - xã hội: là
do những giá trị đạo đức, văn hóa với tinh thần nhân đạo, hướng thiện vẫn luôn
đáp ứng được nhu cầu của 1 bộ phận quần chúng nhd, chính vì thế trong 1 chừng
mực nhất định, tôn giáo có sức hút mạnh mẽ đối với họ.
Dưới
chủ nghĩa xã hội, tôn giáo cũng có khả năng tự biến đổi để thích nghi theo xu
hướng “đồng hành với dân tộc”, sống “tốt đời – đẹp đạo”…Nhà nước không ngừng
nâng cao địa vị, tính tích cực xã hội của những người có đạo bằng cách tạo điều
kiện để họ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động thực tiển. Trên cơ sở đó,
nhà nước XHCN làm cho người có đạo hiểu rằng, niềm tin tôn giáo chân chính
không đối lập với chủ nghĩa nhân đạo XHCN, và CNXH đang hiện thực hóa lý tưởng
của chủ nghĩa nhân đạo trong cuộc sống của mỗi người dân.
Cuộc
đấu tranh giai cấp vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức vô cùng phức tạp.
Trong đó các thế lực chính trị vẫn lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho mưu đồ
chính trị của mình. Mặt khác, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc,
bạo loạn,…còn xảy ra ở nhiều nơi. Nỗi lo sợ về chiến tranh, bệnh tật,…cùng với
những mối đe dọa khác là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại.
- Nguyên nhân văn hóa: là do trong
thực tế sinh hoạt văn hóa xh, sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo đã đáp ứng được
phần nào nhu cầu văn hóa tinh thần của cộng đồng xh & trong 1 mức độ nhất
định nó có ý nghĩa giáo dục ý thức cộng đồng , phong cách, lối sống của mỗi cá
nhân trong cộng đồng. Vì vậy, tôn giáo vẫn còn tồn tại để đáp ứng 1 bộ phận
nhân dân.
* Chủ
nghĩa Mác-lênin chủ trương giải quyết vấn đề tôn giáo như sau:
Cùng với vấn đề dân tộc thì tín ngưỡng,
tôn giáo là một vấn đề tế nhị, nhạy cảm và đang có những diễn biến phức tạp.
Việc giải quyết những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải hết sức thận trọng,
vừa đòi hỏi phải giữ vững nguyên tắc, đồng thời phải mềm dẻo, linh hoạt đúng
như tinh thần của chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng ta là: tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
Giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần dựa trên những quan điểm sau:
Một là, khắc phục dần những ảnh hưởng
tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Để khắc phục mặt tiêu cực của tôn giáo,
trước hết phải không ngừng phát triển khoa học - công nghệ. Trang bị thế giới
quan của chủ nghĩa vô thần khoa học cho nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và
văn hóa tinh thần cho nhân dân. Phải khắc phục những tiêu cực của tôn giáo bởi
vì chủ nghĩa Mác- Lênin và hệ tư tưởng tôn giáo có sự khác nhau cơ bản về thế
giới quan, nhân sinh quan và con đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân.
Hai là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Mọi công dân theo tôn giáo hay
không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, nghiêm cấm mọi hành vi xâm
phạm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân.
Ba là, thực hiện đoàn kết giữa những
người theo tôn giáo và không theo tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp chân
chính (tôn giáo hợp pháp và chân chính là những tôn giáo có tổ chức giáo hội
được Đảng và nhà nước ta thừa nhận, và nằm trong khối đại đoàn kết dân tộc),
đoàn kết dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ vì
lý do tín ngưỡng tôn giáo. Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng
trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo.
Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng tôn
giáo, khắc phục mặt này là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, gắn liền với quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
đồng bào có tín ngưỡng.
Mặt chính trị thể hiện ở chỗ cần phải
kiên quyết đấu tranh với những phần tử phản động, đội lốt tôn giáo, lợi dụng
tôn giáo để chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Năm là, phải có quan diểm lịch sử cụ thể
trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai
trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội cũng không giống nhau.
Quan điểm của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã
hội thường không đồng nhất với nhau. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ
thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn
giáo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét