THAY LỜI NÓI ĐẦU
Xã hội học là một bộ môn khoa học độc lập trong hệ thống các khoa học
xã hội. Xã hội học đã được nghiên cứu, giảng dạy trong nhiều trường đại học tr
ên thế giới từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Đây l à môn học không thể thiếu
của các ngành khoa học xã hội và nhân văn.
Ở Việt Nam, xã hội học đã được đưa vào giảng dạy trong các trường đại học
và cao đẳng trong cả nước. Môn học này còn nhận được sự quan tâm rất lớn từ
phía các c ơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức xã hội, các nhà nghiên cứu, các
nhà quản lý và các doanh nhân.
Đời sống xã hội hiện đại đang đặt ra nhiều vấn đề x ã hội hết sức phức
tạp, đòi hỏi phải có nhận thức x ã hội đúng đắn và phương pháp tiếp cận, giải
quyết những vấn đề x ã hội một cách khoa học v à hiệu quả. Ở đây nổi
bật vai trò của những tri thức xã hội học.
Những tri thức trong lĩnh vực khoa học x ã hội mà xã hội học đã đúc kết
được góp phần quan trọng v ào việc đào tạo nguồn nhân lực, hoạch định các chính sách phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, của địa phương và khu vực.
Trên cơ sở Khung chương trình và Đề cương môn học đã được Hội đồng Khoa
học Trường Đại học Kinh tế thuộc Đại học Đ à Nẵng thông qua, tập đề cương bài
giảng môn xã hội học được biên soạn nhằm phục vụ mục đích học tập, nghi ên cứu
của sinh vi ên các khối ngành kinh tế thuộc các hệ đào tạo khác nhau.
Do kinh nghiệm nghiên cứu còn những hạn chế, nên đề cương bài giảng này
còn có thể có một số khiếm khuyết nhất định. Người biên soạn xin chân th ành cảm
ơn sự đóng góp ý kiến chuyên môn thiết thực và quý báu của các đồng nghiệp
trong và ngoài Trường cũng như của những người quan tâm đến x ã hội học cho việc
ho àn thiện hơn nữa nội dung khoa học của đề cương bài giảng.
Chương I
XÃ HỘI HỌC NHƯ MỘT
KHOA HỌC
I. XÃ HỘI HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC
1.
Khái quát về xã hội học
Xã hội học là
khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống quá tr ình hình thành, phát tri ển, cấu
trúc, mối quan hệ tương tác và các hành vi chung của các cá nhân, nhóm, tổ chức
xã hội cùng các cách tiếp cận tới những phương diện khác nhau của đời sống x ã
hội.
Cũng có thể định
nghĩa x ã hội học một cách vắn tắt như là một khoa học nghiên cứu các tương tác
xã hội. Xã hội học liên quan tới các cách thức trong đó diễn ra các mối quan hệ
tương tác giữa các cá nhân với tư cách là thành viên của các nhóm và các tổ chức
xã hội. Mối quan hệ tương tác này liên hệ đến tất cả các yếu tố cấu th ành xã h
ội như cấu trúc xã hội hay văn hoá chẳng hạn.
Xã hội là một hệ thống các hoạt động và các quan hệ của con người có đời
sống kinh tế, chính trị, văn hoá chung c ùng cư trú trên một lãnh thổ ở một
giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.
Trong lịch sử
phát triển tri thức xã hội của nhân loại có rất nhiều quan niệm khác nhau về x
ã hội tuỳ theo g óc độ nghiên cứu của các nhà xã hội học. Xã hội học hiện đại
có thể giới thiệu một số quan niệm về xã hội như sau:
- Xã hội thượng
lưu, xã hội bình dân;
- Xã hội nguyên
thuỷ, xã hội truyền thống, xã hội hiện đại;
- Xã hội nông
nghiệp, x ã hội công nghiệp, x ã hội hậu công nghiệp;
- Xã hội hoang
dã, xã hội dã man, xã hội văn minh (Lewis Morgan);
- Xã hội bầy
đàn, thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc (Emile Durkheim);
-
Xã hội Kitô giáo, x ã hội Hồi giáo, x ã hội Khổng
giáo...
Đề cập đến xã
hội tức là đề cập đến những hoạt động và những quan hệ xã hội. Các hoạt động xã
hội bao gồm hoạt động lao động như hoạt động sản xuất, hoạt động tái sản xuất
xã hội, hoạt động quản lý xã hội và các hoạt động giao tiếp; hoạt động an ninh
trong môi trường đối ngoại gồm các quan hệ giữa cộng đồng xã hội này với cộng đồng
xã hội khác.
Con người có
nguyện vọng tự nhi ên là muốn tìm hiểu, nhận thức và giải thích bản chất của sự
vận động và phát triển của xã hội. Đây là điều kiện thiết yếu cho sự ra đời của
nhiều khoa học x ã hội, trong đó có xã hội học.
Xã hội học,
lúc mớ i hình thành và phát tri ển không tách rời khỏi triết học. Điều này được
thể hiện trong quan điểm của các nhà tư tưởng, các triết gia cổ đại và cận đại.
Các đại biểu tiêu biểu là Quản Trọng, Khổng tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, L ão Tử,
Trang Tử, H àn Phi Tử (Trung Quốc); Platon, Aristote (Hy
Lạp); thời kỳ Phục hưng có Thomas Hobbes, John Locke (Anh).
Từ thời kỳ cổ
đại đến thời kỳ Phục hưng có thể được xem là thời kỳ tiền xã hội học. Các nhà
tư tưởng mới chỉ đưa ra những ý tưởng dưới hònh thức tư duy xã hội. Cá tri thức
của con người về xã hội được bồi đắp qua thời gian, qua sự phát triển của lịch
sử nhân loại đặt nền móng cho xã hội học. Lúc này xã hội học phát triển chủ yếu
dưới hình thức của triết học về xã hội.
Đến cuối thế
kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, xuất hiện nhu cầu nhận thức mới mẻ, khoa học về x ã hội.
Đây là tiền đề quan trọng cho sự ra đời của xã hội học như một khoa học. Tuy
nhiên, đến cuối thế kỷ XIX, xã hội học mới được thừa nhận là một khoa học độc lập.
Người được
xem là thuỷ tổ của xã hội học là nhà xã hội học người Pháp Auguste Comte
(1798-1857). Ông là người đầu tiên đề xướng thuật ngữ “sociology
” (dịch là “xã hội học”) vào năm 1838
trong tác phẩm “Course of the positive philosophy” với ý nghĩa
là nghiên cứu thực chứng toàn bộ các quy luật cơ bản của các hiện tượng xã hội,
qua đó sáng lập nền triết học thực chứng v à trào lưu xã hội học
thực chứng.
Nhà xã hội học
người Pháp Emile Durkheim (1858-1917) đã đề ra khái niệm “sự kiện
xã hội” thay cho phạm trù tâm sinh lý cá nhân trong nghiên cứu xã hội học. Năm
1897 ông công bố tác phẩm “Các quy tắc của phương pháp xã hội học” và góp phần
đưa xã hội học phát triển thành một ngành khoa học độc lập. Ngoài ra, còn có
các đại biểu khác như Frederic Le Play, Karl
Marx, Maximilian
Weber...
Xã hội học
phát triển mạnh ở c hâu Âu thành m ột ngành khoa học độc lập nghiên cứu cấu
trúc xã hội như một thực thể khoa học v à đến đầu thế kỷ XX phát triển th ành
trào lưu xã hội học cấu trúc.
Dưới tác động
mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật v à quá trình công nghiệp hoá ở Mỹ, hàng loạt
các vấn đề xã hội có liên quan đến hành vi cá nhân, nhóm xã h ội xuất hiện dẫn
đến sự phát triển mạnh mẽ của x ã hội học theo hướng tiếp cận từ phía h ành vi
và phát tri ển thành trào lưu xã hội học hành vi.
Xã hội học
phát triển nhanh chóng v à mạnh mẽ ở châu Âu v à Mỹ với hai cách tiếp cận khác
nhau l à cấu trúc xã hội và hành vi
xã hội. Nhưng hiện nay, xã hội học thế giới phát triển theo hướng
xâm nhập vào nhau giữa xã hội học Mỹ v à xã hội học châu Âu.
Ở các nước
XHCN, x ã hội học phát triển theo hướng lấy triết học Mác - Lênin làm cơ sở nhận
thức và kết hợp cả cấu trúc xã hội với hành vi xã hội trong một thể thống nhất
l à cộng đồng xã hội.
Ở Việt Nam, x
ã hội học trở th ành khoa học hoàn chỉnh cả trên phương diện nghiên cứu và giảng
dạy từ thập ni ên 1970. V ề mặt lý luận, xã hội học ở Việt Nam đã đạt được một
số thành tựu đáng kể.
a) Lý thuyết xã hội học thực chứng
Xã hội học
thực chứng được xây dựng trên cơ sở lý thuyết cấu trúc xã hội và
triết học thực chứng. Những đại biểu điển hình của trào lưu này là Auguste
Comte, Emile Durkheim, Talcott Parsons...
Xã hội học thực
chứng xem xét cấu trúc x ã hội như một chỉnh thể tổng hợp hữu cơ, trong đó, các
bộ phận, yếu tố hợp thành liên kết với nhau theo quy luật nhân quả. Các hiện tượng
xã hội là hiện hữu thực và hoàn toàn có thể được kiểm chứng bằng thực nghiệm.
Các h ành vi xã hội của cá nhân v à các thiết chế xã hội quan hệ với nhau cũng
tuân theo quy luật này.
Xã hội học thực
chứng cho rằng đối tượng nghiên cứu của xã hội học là những thực thể v à do đó,
chúng được biểu hiện thông qua các sự kiện có thể quan sát được và nhiệm vụ của
nhà xã hội học là xây dựng các giả thuyết bằng các sự kiện đã được quan sát hoặc
bằng thực nghiệm khoa học.
b) Thuyết đồng cảm xã hội
Đại biểu xuất
sắc của thuyết đồng cảm xã hội là Emile Durkheim, nhà xã hội học cấu trúc -
đồng cảm - chức năng. Theo thuyết này, thì các đặc tính của xã hội không thể được
quy về các đặc điểm tâm sinh lý riêng của từng cá nhân mà phải là hoạt động của
các thể chế xã hội trong sự tác động tương hỗ giữa các yếu tố hợp thành chỉnh
thể xã hội.
Thuyết đồng cảm
xã hội chủ trương rằng các giá trị xã hội, chuẩn mực, vai trò, địa vị cũng như
các yếu tố tinh thần khác tạo n ên nền văn hoá xã hội và đạo lý xã hội. Đây là
động lực của tiến hoá xã hội. Cơ sở của trật tự và phục tùng xã hội là sự đồng
cảm về các giá trị và chuẩn mực.
Hành vi xã hội
của cá nhân cũng như các trật tự xã hội chuyển đổi thành các quy luật văn hoá
thông qua quá tr ình xã hội hoá. Như vậy, xã hội
hoá là điểm mấu chốt trong thuyết đồng cảm xã hội. Xã hội hoá là điều kiện,
phương tiện và là con đường duy nhất để cá nhân hội nhập với xã hội.
Thuyết đồng cảm xã hội dựa trên luận điểm “sự kiện
xã hội”, đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu các “sự kiện
xã hội”.
c) Thuyết cấu trúc chức năng
Hai đại biểu
lớn nhất của thuyết cấu trúc chức năng là Emile Durkheim (ông đồng thời là nhà xã hội
học theo thuyết đồng cảm) và Talcott Parsons, nhà xã h ội học
người Mỹ (1902-1979).
Thuyết cấu
trúc chức năng giải thích sự tồn tại v à phát triển của các thể chế xã hội là
do chức năng duy trì trật tự xã hội của chúng.
Thuyết cấu
trúc chức năng quan ni ệm xã hội bình thường như một cơ thể lành mạnh, trong
đó, các thể chế có chức năng riêng và quan hệ hữu cơ với nhau; cùng hướng vào
việc duy trì tính hợp lý xã hội. Các chức năng có vị trí, vai trò bình đẳng với
nhau.
Xã hội là một
hệ thống các thiết chế phụ thuộc lẫn nhau v à tham gia tạo nên sự ổn định bền vững
của chỉnh thể xã hội.
Để giải thích
các thiết chế xã hội, không được tìm hiểu mục đích của cá nhân m à phải tìm hiểu
hệ thống xã hội như một tổng thể, đòi hỏi phải thoả mãn các nhu cầu của nó.
d) Thuyết hành động xã hội
Đại biểu lớn nhất l à Max Weber (1864-1920), nhà xã h ội học cấu
trúc người Đức.
Các thể chế
xã hội, cuối cùng đều được quy về hành động cá nhân có những động cơ và mục
tiêu đặc trưng. Theo M. Weber,
có b ốn loại động cơ chi phối hành động, đó là:
- Cảm xúc;
- Truyền thống;
- Giá trị;
- Mục đích.
Tương ứng với bốn loại động cơ nêu
trên là b ốn loại hành động xã hội, cụ thể:
- Hành động
theo cảm xúc;
- Hành động
theo truyền thống;
- Hành động
theo giá trị;
- Hành động có
mục đích.
Bốn loại hành động trên là phương tiện để phân tích và
giải thích mọi hành động của cá nhân. Bốn loại h ành động này không tách rời
nhau mà luôn luôn thâm nh ập vào nhau.
Trong nghiên
cứu cần chú ý đến sự khác biệt cũng như quan hệ giữa các loại hành động trong từng
trường hợp cụ thể v à trong từng nền văn hoá riêng biệt.
Nhà xã hội học
phải phân tích, diễn giải, li ên kết các vấn đề để hiểu và xác định được hành động
của chủ thể c hịu sự tác động, chi phối của một loại hay các loại động cơ nào
thúc đẩy hành động đó.
e) Các nguyên lý cơ bản của xã hội học mác xít
Nguyên lý quyết định luận xã hội của xã hội học
mác xít vận dụng những nguyên lý của triết học duy vật biện chứng v ào lĩnh vực
xã hội với những nguy ên tắc cụ thể như sau:
- Nguyên tắc vật
chất quyết định ý thức;
- Nguyên tắc tồn
tại xã hội quyết định ý thức xã hội;
- Nguyên tắc cơ
sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng xã
hội;
-
Nguyên tắc hoạt động vật chất quyết định hoạt động tinh
thần của các chủ thể x ã hội.
Thứ nhất, xã hội học
mác xít l àm sáng tỏ sự tác động qua lại giữa con người với xã hội, khẳng định
vai trò của xã hội cũng như của con người trong tiến tr ình phát tri ển của lịch
sử. X ã hội học mác xít xem xét hoạt động của con người trong tính toàn thể, bắt
đầu từ hoạt động vật chất, thứ đến là hoạt động tinh thần khi phân tích hoạt động
của cá nhân. Nguyên nhân sâu xa c ủa các hiện tượng xã hội bắt nguồn từ hoạt động
vật chất v à thực tiễn xã hội.
Thứ hai, xã hội học mác
xít khẳng định rằng, hoạt động của con người dù dưới bất kỳ hình thức nào đều
có tính sáng tạo, thể hiện trí tuệ và năng lực sáng tạo không ngừng. Tuy nhi
ên, trong xã h ội có giai cấp, lao động bị tha hoá v à trở thành hàng hoá, là
nguyên nhân và c ũng chính là nạn nhân của bất b ình đẳng xã hội.
Nguyên
lý phát triển của xã hội học mác xít khẳng định quá trình biến đổi
và phát triển của xã hội có nguyên nhân sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản
xuất dẫn đến sự thay đổi và phát triển của quan hệ sản xuất một cách thích ứng.
Đó là quá trình vừa mang tính tiến hoá, vừa mang tính cách m ạng phù hợp với
các quy luật khách quan.
Nguyên
lý tính hệ thống của xã hội học mác xít đặt ra yêu cầu khi phân tích
xã hội phải xem xã hội như là một hệ thống ho àn chỉnh, có khả năng tự vận hành
và phát triển.
Xã hội có một cơ cấu cụ thể, trong đó, các yếu tố cấu
thành xã hội có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau.
Xã hội là phức
hợp những hình thức hoạt động khác nhau của con người, các quan hệ xã hội, các
hình thức cộng đồng của con người với tính ổn định, tính ho àn chỉnh và tính
quy luật.
Xã hội học
mác xít chỉ ra nguy ên tắc tiếp cận việc phân tích hệ thống xã hội đi từ trừu
tượng đến cụ thể, từ cái chung đến cái riêng và cuối cùng đến cái cốt l õi của
xã hội đó là quan hệ sản xuất và suy cho cùng, phương thức sản xuất quyết định
mọi mặt và mọi quá trình của đời sống x ã hội.
Cách tiếp cận
đối tượng nghiên cứu xã hội học thiên về con người cho rằng đối tượng nghiên cứu
xã hội học là hành vi xã hội hay hành động xã hội của con người, tức là các
hành vi cá nhân, các c ơ chế hình thành các hành vi đó bao gồm các tương tác giữa
các cá nhân, sự hình thành động cơ và các tác nhân hành động của nhóm.
Loại hình xã
hội học này phát triển mạnh ở Mỹ, c òn gọi là trường phái xã hội học “vi mổ", khoa
học về hành vi xã hội của cá nhân và nhóm, chịu ảnh hưởng của thuyết h ành vi
và chủ nghĩa thực dụng theo hiện tượng luận.
Cách tiếp cận
đối tượng nghiên cứu xã hội học thiên về xã hội lại quan tâm đến cả xã hội nhân
loại, đó là tính chỉnh thể của tổ chức x ã hội, tính hệ thống của x ã hội trong
mối quan hệ chi phối cá nhân. Những khái niệm chính của cách tiếp cận này là
văn hoá, thiết chế xã hội, hệ thống v à cấu trúc xã hội, các quá tr ình xã hội
rộng lớn.
Loại hình xã hội học này phát triển mạnh ở châu Âu, c
òn gọi là trường phái xã hội học “ vĩ mô” do sự ảnh
hưởng mạnh mẽ của triết học thực chứng và thuyết tiến hoá của Charles Darwin ( 1809 -1882).
Cách tiếp cận
đối tượng nghiên cứu xã hội học tổng hợp, tức l à vừa nghiên cứu hành vi của
con người, vừa nghi ên cứu hệ thống x ã hội.
Xã hội học hiện
đại có xu hướng tiếp cận đối tượng nghiên cứu theo cách tích hợp. Trong trường
hợp này, đối tượng nghiên cứu của xã hội học là mối quan hệ hữu cơ, biện chứng,
ảnh hưởng và tác động tương hỗ giữa một b ên là con ng ười với tư cách là cá
nhân, nhóm và một bên là xã hội với tư cách là h ệ thống x ã hội, là cơ cấu hay
cấu trúc xã hội.
Từ những phân tích tr ên đây, có thể đi đến định nghĩa đối
tượng nghiên cứu của xã hội học là các quy luật và
xu hướng của sự phát sinh, phát triển và biến đổi của các hoạt động xã hội, các
quan hệ xã hội, tương tác giữa các chủ thể xã hội cùng các hình thái biểu hiện
của chúng.
-
Hành động xã hội: Hành động xã
hội là tất cả những hành vi và hoạt động của con người diễn ra trong bối cảnh lịch
sử x ã hội nhất định, là hành vi có động cơ, mục đích, đối tượng, là hành động
hướng tới người khác hay ngược lại, chịu sự tác động của người khác. Người đề
xuất phạm trù này là Max Weber v ới quan niệm
x ã hội học là khoa học lý giải hành động xã hội.
- Hoạt động
xã hội: Hoạt động xã hội là toàn thể hoạt động của nhóm xã hội nhằm đạt được mục
đích nhu cầu và quyền lợi xã hội. Hoạt động xã hội bao gồm sáu phương diện cơ bản
sau:
+ Sản xuất của
cải vật chất;
+ Sản xuất của
cải phi vật chất (các giá trị văn hoá tinh thần);
+ Tái sản
sinh con người;
+ Các hoạt động
quản lý;
+ Các hoạt động
giao tiếp;
+ Các hoạt động
đối ngoại.
-
Cấu trúc xã hội: Cấu trúc xã
hội là tổng hợp các yếu tố cấu thành xã hội trong mối quan hệ tác động qua lại
lẫn nhau, l à một hệ thống lớn, bao gồm nhiều hệ thống nhỏ v à nhỏ dần đến đơn
vị cơ bản là con người. Cơ cấu xã hội là khuôn mẫu, thuộc tính của các mối quan
hệ x ã hội, các thiết chế xã hội, các điều kiện, hoàn cảnh và các sản phẩm do
con người tạo ra. Những người đề xướng phạm trù này là Auguste Comte và Emile
Durkheim.
- Quan hệ
xã hội: Quan hệ xã hội là quan hệ được xác lập giữa các cộng đồng xã hội và các cá
nhân với tư cách là chủ thể của hoạt động xã hội khác nhau ở vị trí, chức năng
đời sống xã hội. Quan hệ xã hội bao gồm bốn phương diện chính như sau:
+ Quan hệ
trong sản xuất trực tiếp;
+ Quan hệ
trong phân phối;
+ Quan hệ
trong ti êu dùng;
+ Quan hệ
trong trao đổi.
-
Chủ thể xã hội: Chủ thể xã hội
là các thực thể xã hội tạo ra các hoạt động xã hội. Chủ thể xã hội có thể là cá
nhân, có thể là nhóm xã hội hay cộng đồng xã hội.
-
Thiết chế xã hội: Thiết chế xã
hội là các hình thức cộng đồng và hình thức tổ chức của con người trong quá
trình tiến hành các hoạt động xã hội. Thiết chế x ã hội chính là các ràng bu ộc
được xã hội chấp nhận và mọi cá nhân, nhóm cộng đồng và toàn thể xã hội phải chấp
nhận v à tuân thủ.
- Tương
tác xã hội: Tương tác xã hội là tổ hợp các hoạt động xã hội, các
quan hệ x ã hội, các chủ thể x ã hội cùng các m ối quan hệ r àng buộc giữa
chúng v à ngay trong nội tại bản thân chúng.
a) Chức năng nhận thức
Xã hội học trang
bị những tri thức khoa học về sự phát triển của x ã hội theo những quy luật vốn
có của nó, chỉ ra nguồn gốc, ph ương thức diễn biến và cơ chế của các quá tr
ình phát triển xã hội, của các mối quan hệ giữa con người và xã hội.
Xã hội học
xây dựn g và phát tri ển
hệ thống lý luận, phương pháp luận nghiên cứu, kỹ thuật và thao tác nghiên c ứu
khoa học để tìm ra quy luật, lý thuyết v à các vấn đề lý luận nhờ tư duy khoa học
và bằng việc kiểm chứng các sự kiện đã quan sát được.
Xã hội học
mác xít chủ trương chức năng nhận thức của x ã hội học phải dựa v ào lập trường
tư tưởng và thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và phải giúp nhận
thức được đúng - sai, phải - trái để từ đó có
hành động hữu ích thích hợp.
b) Chức năng thực tiễn
Chức năng này
hướng tới sự cải thiện x ã hội và cuộc sống của nhân loại. Thực tiễn chính l à
cơ sở của lý luận; c òn lý luận phục vụ thực tiễn.
Không chỉ đơn
thuần vận dụng các quy luật x ã hội học vào hiện thực, mà chức năng thực tiễn
còn chú trọng nắm bắt, giải quyết đúng đắn, kịp thời những vấn đề xã hội nảy
sinh để cải thiện tình hình xã hội.
Xã hội học dự
báo những xu hướng vận động của các hiện tượng và quá trình xã hội, dự báo những
g ì có thể sẽ xảy ra, đồng thời đề xuất các giải pháp kiểm soát chúng.
c) Chức năng tư tưởng
Chức năng này
xuất hiện từ bản chất v à vai trò của hệ tư tưởng trong hệ thống xã hội, biểu
hiện ở vai tr ò cung cấp nội dung khoa học của hệ tư tưởng, là cơ sở cho nhân
sinh quan xã hội đúng đắn.
Chức năng tư tưởng của xã hội học thể hiện tr ên hai
khía cạnh sau:
-
Trang bị cho nhà xã hội học thế giới quan khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin, bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu độc lập, tự do, về vai trò,
trách nhiệm của công dân trong sự nghiệp phát triển x ã hội.
-
Giúp nhà xã h ội học hình thành và phát triển phương
pháp tư duy, nghiên cứu khoa học v à năng lực phê phán các quan điểm phi mác
xít, việc lợi dụng xã hội học để phủ định vai trò của học thuyết Mác - Lênin;
chống lại những tư tưởng sai lầm, bảo thủ, lạc hậu trong nhận thức lý luận và
trong ho ạt động thực tiễn.
Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận
Xây dựng,
phát triển v à hoàn thiện hệ thống lý luận x ã hội học, bao gồm các khái niệm,
phạm trù, lý thuyết khoa học riêng, đặc thù. Xã hội học kế thừa một cách chọn lọc
các kh ái niệm cũng như thuật ngữ của các ngành khoa h ọc khác.
Hình thành và
phát tri ển hệ thống lý luận, phương pháp luận nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu
một cách cơ bản, hệ thống nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, x ã hội.
Nhiệm vụ nghiên cứu thực nghiệm
Thông qua nghiên c ứu thực nghiệm, x ã hội học kiểm
nghiệm, chứng minh các giả thuyết khoa học.
Phát hiện những vấn đề mới nảy sinh, l àm cơ sở cho việc
sửa đổi, phát triển và hoàn thiện hệ thống khái niệm, đồng thời thúc đẩy tư duy
xã hội học.
Nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng
Xã hội học
nghiên cứu ứng dụng tri thức khoa học v ào đời sống. Nghiên cứu ứng dụng hướng
tới việc đề ra các giải pháp vận dụng những phát hiện của nghi ên cứu lý luận v
à nghiên cứu thực nghiệm trong hoạt động thực tiễn.
Trên cơ sở
nghiên cứu quá trình hình thành, v ận hành và phát tri ển của các cộng đồng xã
hội, các quan hệ x ã hội cũng như các hành vi xã hội; bằng các phương pháp khoa
học chuyên ngành, xã hội học đưa ra những kết luận chính xác về bản chất của sự
kiện, hiện t ượng hay quá trình đó, từ đó đề xuất các giải pháp để kiểm soát, tức
là đề ra các quyết sách hay quyết định quản lý xã hội một cách thích hợp.
Phương pháp
nghiên cứu xã hội học là tổng hợp các phương pháp, kỹ thuật và cách thức nghiên
cứu xã hội học nhằm l àm sáng tỏ bản chất, các đặc trưng, cơ cấu, xu hướng và
tính quy lu ật của các hiện tượng và quá trình xã hội. Trước khi đi sâu vào một
số phương pháp nghiên cứu xã hội học, cần phải xem xét phương pháp luận chung
nghiên cứu xã hội học.
Nhận thức xã
hội học là một quá trình đặc biệt phức tạp, vì bản thân xã h ội đã là một hệ thống
cực kỳ phức tạp, trong đó con ng ười, một trong những chủ thể cấu th ành xã hội,
cũng đồng thời l à lực lượng tạo ra các mặt của đời sống xã hội, là những thế
giới thu nhỏ vô c ùng phong phú và sinh động. Vì vậy, nghiên cứu xã hội cần chú
ý các quan điểm sau:
Quan điểm toàn bộ
Khi nghiên cứu
một vấn đề x ã hội nào đó, phải đặt vấn đề đó v ào trong mối tương quan. Cơ sở
của quan điểm này là mối liên hệ chằng chịt, qua lại giữa các mặt của đời sống
x ã hội.
Thí dụ: Nghiên cứu vấn
đề tạo việc l àm cho thanh niên nông thôn, ngoài ra nội dung chính là số thanh
niên thất nghiệp, trình độ học vấn, tuổi, giới, c òn phải xem xét ruộng đất,
các ngành ngh ề tiểu thủ công nghiệp truyền thống của địa phương.
Việc nghiên cứu
một số vấn đề nào đó tách rời với toàn bộ các vấn đề khác có liên quan thường dẫn
đến các kết luận hời hợt, thiếu sót v à dĩ nhiên có độ chính xác thấp.
Quan điểm hệ thống
Các vấn đề xã
hội thường là các mắt xích trong một hệ thống phức tạp cả về chiều dọc v à chiều
ngang.
Xét theo chiều
dọc, một vấn đề nào đó thường là một bộ phận của một vấn đề lớn hơn, bao quát
hơn. Bản thân vấn đề nghi ên cứu lại là một hệ thống bao gồm nhiều vấn đề chi tiết,
nhỏ hơn, cụ thể hơn.
Xét theo chi ều
ngang, vấn đề nghi ên cứu thường là kết quả của vô số nguyên nhân, đồng thời nó
lại l à nguyên nhân (ho ặc một trong các nguyên nhân) c ủa một kết quả x ã hội
khác.
Vì vậy,
nghiên cứu một vấn đề x ã hội nào đó, phải đặt vấn đề đó trong hệ thống mà nó
đang tồn tại. Từ đó, xã hội học sẽ có nhiều nội dung súc tích để xem xét, khảo
sát, lý giải v à kết luận một cách đầy đủ, có hệ thống chặt chẽ.
Quan điểm thực tiễn
Xét cho cùng,
phương pháp nghiên c ứu xã hội học đều dựa trên cơ sở thực nghiệm, tức l à xuất
phát từ nhu cầu thực tế, quan sát hiện tượng hoặc quá trình thực tế, tìm ra
cách lý gi ải vấn đề dựa tr ên các luận chứng thực tế v à khi kết luận vấn đề cũng
có sự đối chiếu, so sánh với thực tế bằng phương pháp kiểm định thực tế.
Sở dĩ như vậy
là vì hiện tượng và quá trình xã h ội thường trừu tượng, nếu không bám sát thực
tế, sẽ có nhiều cách lý giải khác nhau, mà cách nào c ũng có lý của nó nếu đứng
trên phương diện lý thuyết. Chỉ có qua cọ xát, thử thách với thực tế, mới có thể
chứng minh được cách lý giải hợp lý nhất, tức l à gần với chân lý nhất.
Để nghiên cứu xã hội học có rất nhiều phương pháp. X ã
hội học đề xuất các nhóm phương pháp chủ yếu sau:
Các phương pháp quan sát
Quan sát là phương pháp nghiên cứu những biểu hiện b
ên ngoài của tâm lý con người (hành động, cử chỉ, ngôn ngữ, vẻ mặt, dáng điệu,
cách ứng xử ...) diễn ra trong sinh hoạt của con người. Qua đó có thể suy ra những
quá tr ình tâm lý bên trong. Có nhi ều cách quan sát, cụ thể như sau:
-
Quan sát tổng hợp (quan sát
chung, phục vụ mục tiêu nghiên cứu chung, rộng, nhiều vấn đề), quan sát lựa chọn
(chỉ tập trung v ào một vấn đề nào đó).
-
Quan sát có chuẩn mực (đi vào các
yếu tố có ý nghĩa nhất của đối tượng nghiên cứu để tập trung chú ý. Thường dùng
để kiểm tra kết quả nhận được của phương pháp khác hoặc để nhận thức sâu sắc v
ào đối tượng), quan sát không chuẩn mực (chưa xác định các yếu tố có ý nghĩa.
Thường được dùng lúc khởi đầu của một nghi ên cứu).
-
Quan sát có tham gia (quan sát
gia nhập vào hoạt động của nhóm người được quan sát. Có kết quả cao hơn, nhưng
nếu bị phát hiện việc quan sát th ì hỏng việc), quan sát không tham gia (kết quả
ít h ơn nhưng dễ giữ bí mật).
-
Quan sát một lần và quan
sát nhiều lần. Quan sát nhiều lần có độ chính xác cao hơn.
Ngoài việc sử
dụng các giác quan để thu thập t ài liệu, người quan sát còn có thể dùng máy ảnh,
máy ghi âm, camera. Quan sát muốn có kết quả thường phải
tổ chức từ hai đến ba người cùng làm, sau đó đối chiếu, tổng hợp.
Ngoài ra cũng
nên quan sát bí mật, vì nếu người ta biết mình đang bị quan sát sẽ không tự nhi
ên, các cử chỉ sẽ trở n ên gò bó, không ph ản ánh sự thực nữa.
Quan sát còn
có m ột nhược điểm là số đối tượng được quan sát thường không dược nhiều, do phải
tốn người, tốn công quan sát. V ì vậy, kết quả quan sát chỉ đúng nếu phạm vi
nghi ên cứu hẹp, số đối tượng hạn chế.
Các phương pháp đàm thoại, phỏng vấn
- Phương pháp
đàm thoại:
Phương pháp
đàm thoại là nói chuyện giữa người nghiên cứu và đối tượng. Đây là phương pháp
hay được dùng vì nó có hi ệu quả. Nếu trò chuyện trong một không khí thân mật,
chân th ành, tin cậy, thoải mái có thể khiến người ta bộc lộ tâm t ình, từ đó
có thể hiểu được tâm trạng, cảm xúc, thái độ với vấn đề cần t ìm hiểu. Có thể
đàm thoại trực tiếp vào nội dung cần t ìm hiểu, nếu vấn đề dễ b àn luận, nhưng
cũng có thể phải đi vòng, nếu vấn đề tế nhị, dễ đụng chạm.
Để đàm thoại có kết quả cần phải:
+ Xác định rõ mục tiêu để lái câu chuyện sang hướng
nghiên cứu.
+ Trước khi
đàm thoại, phải tìm hiểu đặc điểm tâm lý của đối tượng.
+ Chủ động dắt dẫn câu chuyện, v ì dễ đi lan man.
+ Có thể
tranh luận nếu cần, để hiểu r õ thực chất suy nghĩ của đối tượng.
Nếu đàm thoại
tốt, có thể l àm cho việc nghiên cứu đạt kết quả. Tuy vậy, đàm thoại cũng tốn
người, tốn công nên c ũng chỉ tiến h ành được ở phạm vi hẹp.
- Phương pháp
phỏng vấn:
Phương pháp
phỏng vấn cũng là trao đổi giữa người nghiên cứu và đối tượng, nhưng khác với
đàm thoại ở chỗ người nghiên cứu hỏi để đối tượng trả lời, theo một d àn câu hỏi
đã chuẩn bị sẵn (tức là bảng hỏi).
Có nhiều phương pháp phỏng vấn:
+ Phỏng vấn
tự do (ngoài bảng hỏi, có thể có các câu hỏi thêm để việc tìm hiểu được sâu sắc
hơn), phỏng vấn theo bảng hỏi (không hỏi thêm).
+ Phỏng vấn trực tiếp: Người nghiên
cứu gặp trực tiếp và hỏi đối tượng;
+ Phỏng vấn qua điện thoại: Người nghiên
cứu không tiếp xúc trực tiếp với đối tượng nghiên cứu.
+ Phỏng vấn
cá nhân và phỏng vấn nhóm (phỏng vấn nhiều người một lúc.
Nhóm có thể gồm những người cùng gia đình, cùng làm vi ệc hoặc cùng quan tâm đến
vấn đề nghiên cứu).
Phỏng vấn là phương pháp có nhiều ưu điểm:
+ Do có dàn
câu h ỏi (bảng hỏi) n ên hiệu quả thông tin rất cao, tránh đi lan man như khi
đàm tho ại.
+ Cũng do vậy m à tiết kiệm thời gian, có thể làm được
với nhiều đối tượng.
Qua phỏng vấn
còn nắm được thái độ, h ành vi của đối tượng. Tuy vậy, phỏng vấn cũng hạn chế:
+ Do bị phỏng
vấn, đối tượng có thể chọn cách trả lời dung ho à hoặc chung chung, có thể trả
lời thiếu trung thực (nếu đụng chạm đến quyền lợi , tình cảm riêng tư). Vì vậy,
trước khi hỏi phải làm công tác tư tưởng và trong bảng hỏi nên có xen kẽ các
câu hỏi kiểm tra.
+ Phỏng vấn bằng
điện thoại tuy thuận tiện v à thực hiện được trên diện rộng, nhưng bị hạn chế về
thời gian và không có tính đại diện (chỉ hỏi được những người có điện thoại).
Ngoài ra, cũng có hạn chế như trên đã nói.
Dù có h ạn chế
như vậy, nhưng phỏng vấn là phương pháp được dùng khá rộng rãi trong nghiên cứu
xã hội vì các ưu điểm của nó.
Phương pháp thăm d ò ý kiến
Phương pháp
thăm d ò ý kiến cũng là một dạng tương tự như hai phương pháp trên, nhưng thường
thiên về hỏi gián tiếp qua phiếu thăm dò, qua đường gửi thư, qua hỏi ý kiến bạn
đọc (báo viết), qua hỏi ý kiến bạn xem (báo h ình).
Nội dung thăm
d ò thường không quá phức tạp, đối tượng sẽ không xác định được trước (báo viết,
báo hình) hoặc có xác định (đối tượng nhận phiếu, thư thăm dò). Thăm dò ý kiến
có ưu điểm là có thể tiến hành với nhiều người (đủ mọi tầng lớp, giới, lứa tuổi
v à phạm vi rộng cả nơi xa, nơi gần), nhưng cũng có hạn chế l à thông tin ph ản
hồi không nhiều. Như vậy, phải tăng số lượng đối tượng thăm dò để trừ hao. Thăm
dò ý kiến thường được dùng trong điều tra dư luận xã hội.
Phương pháp thực nghiệm
Thực nghiệm x
ã hội là đưa những vấn đề x ã hội được xem xét, nghiên cứu về lý thuyết ra thực
tiễn để x ác minh xem trong các gi ải thuyết, lý thuyết, cái nào đúng, cái nào
không đúng với thực tế x ã hội (thực nghiệm xác định đúng, sai).
Ngoài ra thực nghiệm x ã hội cũng còn là dựa vào thực
tế để bổ sung các chi tiết, các xu hướng, các tình huống chưa được dự kiến, từ
đó có thể hoàn chỉnh các biện pháp, chính sách x ã hội (thực nghiệm bổ sung).
Thực nghiệm
xã hội còn dùng để xem xét độ chính xác của một kế hoạch, một dự án (thực nghiệm
thí điểm).
Để thực nghiệm đạt kết quả tốt, phải
chú ý:
-
Lập quy trình nghiên cứu cẩn thận.
-
Xem xét k ỹ các chuẩn bị lý thuyết v à thực tế.
-
Chuẩn bị tốt địa b àn thực nghiệm có tính đại biểu
cao, có sự phối hợp tích cực của các cơ quan, đoàn thể, nhân dân địa phương.
Khi xác định
nội dung thực nghiệm phải chú ý gọn, tập trung không tham lam dàn trải ra quá
nhiều nội dung khác nhau, đồng thời cũng chú ý kết hợp các nội dung gần nhau để
các kết quả hỗ trợ cho nhau, giảm được chi phí.
Khâu tổng hợp
v à phân tích k ết quả rất quan trọng, quyết định sự thành bại của thực nghiệm.
Ở khâu n ày phải quán triệt phương pháp nghiên cứu xã hội học đã trình bày ở mục
I chương này.
Phương pháp chuyên gia
Đối với những
hiện tượng xã hội không dùng phương pháp thực nghiệm được thì phải áp dụng
phương pháp chuyên gia. Phương pháp này chủ yếu là lấy ý kiến của các chuyên
gia về một vấn đề xã hội nào đó.
Chuyên gia là
những người có chuyên môn giỏi và kinh nghiệm phong phú v ề lĩnh vực xã hội
đang cần nghi ên cứu. Vì vậy các ý kiến của họ thường có hàm lượng chất xám cao
v à rất giàu tính thực tiễn. Cũng vì thế nên có thể coi là vẫn bảo đảm tính thực
tiễn của quá tr ình nghiên cứu.
Khâu cơ bản của
phương pháp này là phải lựa chọn được các chuyên gia am hiểu thực sự vấn đề
đang nghi ên cứu và có trình độ cao. Người ta thường chọn chuyên gia theo các
cách sau đây:
- Xâu chuỗi tức
là chọn người đứng đầu về vấn đề nghi ên cứu, sau đó nhờ người đó giới thiệu
cho người khác (hoặc nhiều người khác)
- Dự kiến một số
người rồi đề nghị từng người nhận xét (chỉ cho người lập nhóm chuy ên gia biết)
về chuyên môn những người kia. Sau đó, lựa chọn lựa những người được đa số nhận
xét tốt.
- Dự kiến một số
người và qua các ý ki ến của họ về vấn đề nghi ên cứu để đánh giá trình độ của
từng người.
-
Sau khi đ ã tập hợp được nhóm chuy ên gia phải nêu các
vấn đề cần xem xét để các c huyên gia có th ời gian chuẩn bị, sau đó mới lấy ý
kiến.
Thông thường
khi lấy ý kiến, có thể họp to àn nhóm theo các cách sau đây:
- So sánh (họp
và có tranh lu ận giữa các chuy ên gia).
-
Tấn công não (khuyến khích tự do phát biểu, không
tranh luận v à đánh giá sai đúng).
- Delfi (không tranh
lu ận nhưng mỗi người đều được biết ý kiến của những người khác để chỉnh lý lại
ý kiến của m ình).
Khâu tổng hợp
rất khó ví có những nội dung các ý kiến của chuyên gia r ất khác nhau. Trong
nhiều hợp phải d ùng mốt (mod), trun g vị, thậm chí
phải d ùng hệ số phân tán ý kiến trong các kết luận nghi ên cứu.
Phương pháp phân tích tư liệu
Phân tích tư
liệu là xem xét các tài li ệu có sẵn trong kho thông tin lưu trữ và các nguồn
khác để nghi ên cứu đề tài cần thiết, không phải làm các cuộc phỏng vấn điều
tra.
Điều cốt lõi
trong phương pháp này là cần sưu tầm được đúng và đầy đủ các tài liệu cần thiết
cho nội dung nghi ên cứu. Trước đây, công việc này rất khó khăn v à mất rất nhiều
thời gian, nhưng hiện nay do đ ã có mạng internet v à cách mạng chuyên ngành
khác, lượng tài liệu cần thiết đã tìm kiếm khá dễ d àng. Và từ đây lại có khó
khăn mới l à phải chọn lọc từ một biển tư liệu ra những thứ đang cần.
Phân tích tư
liệu là phương pháp được dùng rất phổ biến v ì không tốn chi phí v à công sức
điều tra, hơn nữa có những vấn đề không có điều kiện thuận lợi để điều tra, thì
đây là phương pháp thích hợp.
Tổ chức trình nghiên cứu
- Chọn vấn đề
nghiên cứu:
Các vấn đề
nghi ên cứu được chọn trong thực tế xuất ph át từ những nhu cầu nhận thức về quản
lý x ã hội đang bức xúc hoặc cần thiết. Những nhu cầu này thường xuyên xuất hiện,
đòi hỏi phải được giải quyết.
Tuy nhiên,
thông thường người ta hay chọn đề tài được giao nghiên cứu (hoặc ký hợp đồng
nghi ên cứu), vì bảo đảm kết quả nghi ên cứu được sử dụng v à có kinh phí ti ến
hành.
Vấn đề nghi
ên cứu cần phải tập trung, không phân tán d àn trải nhưng phải bao gồm đầy đủ
các nội dung cần thiết của đề t ài.
- Chọn cán bộ
nghiên cứu:
Nhóm nghiên cứu
thường gồm một cán bộ chủ chốt, có trình độ khoa học cao, giàu kinh nghiệm thực
tế và một số cán bộ chuyên sâu về từng vấn đề trong nội dung đề t ài nghiên c ứu.
Cán bộ nghiên
cứu phải có tác phong sâu sát, nhanh nhạy, biết cách thâm nhập vào các tầng lớp
xã hội khác nhau. Đức tính này rất quý báu trong các nghiên c ứu xã hội học.
-
Lập kế hoạch nghiên cứu:
Quá trình nghiên c ứu gồm các giai
đoạn:
+ Điều tra và thu thập tài liệu thực
tế;
+ Đọc các tài liệu tham khảo;
+ Phân tích tài li ệu và trình bày
k ết quả.
Trong kế hoạch
cũng có phần ghi tên cán bộ nghiên cứu, nhiệm vụ của từng người, thời gian hoàn
thành các giai đoạn, cách thức nghiệm thu kết quả nghiên cứu, kinh phí thực hiện
đề t ài.
Quy trình nghiên c ứu
-
Giai đoạn chuẩn bị:
Xác định đối tượng,
mục đích, nhiệm vụ nghi ên cứu:
+ Đối tượng nghiên cứu chính l à hiện tượng hoặc quá
tr ình xã hội mà đề tài nghiên cứu đã lựa chọn. Trong đó có các chủ thể x ã hội
đã tạo ra hiện tượng và quá trình đó.
+ Mục đích
nghiên cứu là các vấn đề, cái đích m à việc nghiên cứu phải đạt đến, tức là
nghiên cứu giải quyết được những gì có ích cho quá trình nhận thức v à cải tạo
xã hội theo đề tài đã lựa chọn.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu là chi tiết hoá mục đích nghi ên
cứu, nêu ra những bộ phận của mục đích phải ho àn thành.
Xây dựng giả thuyết:
+ Xây dựng giả
thuyết v à kiểm định giả thuyết l à công việc quan trọng xuyên suốt quá trình
nghiên c ứu.
+ Giả thuyết
l à dự đoán trước của chúng ta về các kết quả của nghiên cứu. Đó là các dự đoán
khoa học về cơ cấu của đối tượng nghiên cứu, về đặc tính, bản chất của các yếu
tố, các mối li ên hệ tạo nên đối tượng đó và về cơ chế hoạt động, sự phát triển
của chúng.
+ Giả thuyết
l à cụ thể hoá mục ti êu nghiên c ứu và là công c ụ phương pháp luận chủ yếu để
tổ chức quá tr ình nghiên c ứu, vì giả thuyết là mắt xích giữa quan điểm lý luận
với cơ sở thực nghiệm của nghiên cứu.
+ Việc xây dựng giả thuyết l à một quá trình nhận thức
đặc biệt, v ì
rằng:
Thứ nhất, nó phải tuân theo các nguy ên lý
đã biết đồng thời chứa đựng khả năng phát hiện cái mới, hiệu chỉnh cái đ ã biết;
Thứ hai, phải có khả năng được kiểm định bằng
thực nghiệm;
Thứ ba, phải có tính mâu thuẫn.
+ Xây dựng mô hình lý luận thao tác
hoá khái niệm và xác định chỉ tiêu, chỉ báo. Có ba cấp độ khái niệm để xây dựng
mô h ình lý luận:
Các khái ni ệm
lý luận;
Các khái niệm
thực nghiệm;
Các chỉ báo
thực nghiệm (chỉ ti êu).
+ Trong nghiên c ứu xã hội học, người ta thường gặp
các khái niệm trong đề tài nghiên cứu, có các mức độ trừu tượng khác nhau. Các
khái niệm này không th ể trực tiếp sử dụng để thu thập thông tin được, vì rất
khó hiểu, không cụ thể.
+ Chính vì vậy
phải thao tác hoá khái niệm, tức l à chuyển các khái niệm lý luận trừu tượng và
phức tạp th ành các khái ni ệm thực nghiệm cụ thể hơn, xác định hơn, sau đó lại
chuyển các khái niệm thực nghiệm thành các ch ỉ báo thực nghiệm hoặc chỉ ti êu
rất cụ thể có thể đo lường được dùng vào việc thu thập số liệu v à phân tích xã
h ội.
+ Tuỳ theo mức
độ trừu tượng và phức tạp của các khái niệm lý luận, người ta có một hoặc nhiều
lớp khái niệm thực nghiệm, c àng đến lớp sau càng cụ thể cho đến lúc có thể định
lượng được, tức là đến các chỉ báo thực nghiệm hoặc chỉ ti êu.
Lựa chọn phương pháp nghiên cứu:
+ Có thể chọn
phương pháp diễn dịch tức l à xuất phát từ một kết luận đã được thừa nhận, đi
sâu v ào các chi tiết để làm rõ tính đúng đắn của kết luận đó. Phương pháp này
hay được dùng cho các đề tài đã biết nhưng cần chi tiết cụ thể hoá.
+ Cũng có thể
chọn phương pháp quy nạp, tức là đi từ các đề tài còn gây tranh cãi, ch ưa có kết
luận được chấp nhận.
-
Giai đoạn thu thập thông t in:
+ Thiết kế mẫu biểu cần thiết cho
thu nhập thông tin: Ở đây chủ yếu là thiết kế bảng hỏi (sẽ đề cập ở mục
IV) v à các biểu mẫu phụ trợ nếu cần.
+ Chọn đối
tượng cung cấp thông tin: Thường là chọn mẫu hoặc chọn điển
hình để lấy tài liệu (xem mục IV).
+ Kiểm tra thông tin đã thu thập bằng
hai cách như sau:
+ Kiểm tra
sai số, tức l à soát xét l ại các số liệu cộng, trừ, nhân, chia, xem có sai ch ỗ
nào không.
+ Kiểm tra logic, tức l à xem
các trả lời có mâu thuẫn, sai lệch nhau không. Ki ểm tra logic được dùng phổ
biến trong điều tra x ã hội học, vì ở lĩnh vực này ít có điều kiện kiểm tra được
sai số.
-
Giai đoạn xử lý thông tin, phân tích v à trình bày kết
quả:
Tổng hợp các thông tin điều tra được vào các bảng biểu
tổng hợp. Các bảng biểu này phải phù hợp với phương pháp phân tích đ ã lựa chọn.
Mỗi phương pháp thường cung cấp các kết luận ở những khía cạnh khác nhau n ên cần
phối hợp chúng để việc nghi ên cứu đạt hiệu quả cao nhất.
Kiểm định các
giả thuyết là xác định xem các giả thuyết n êu ra ban đầu có được thực tế x ác
nhận hay bị bác bỏ. Việc kiểm định c òn có tác dụng kiểm tra lại kết quả phân
tích l à có tính quy lu ật hay chỉ là ngẫu nhiên. Vì vậy, đây mới l à kết luận
cuối c ùng.
Trình bày kết
quả nghi ên cứu là tổ chức hội thảo để công bố, trao đổi kết quả nghi ên cứu,
nghe các ý ki ến đóng góp v à hoàn thiện kết quả nghiên cứu. Sau đó tổ chức
nghiệm thu đề t ài, viết các bài báo, sách để phổ biến kết quả nghi ên cứu.
Thu thập thông tin x ã hội
-
Điều tra xã hội học:
Điều tra xã hội học là phương pháp thu thập thông tin về các hiện tượng
và quá trình xã hội trong phạm vi không gian v à thời gian cụ thê
nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu đã đề ra.
+ Điều tra xã hội học có thể dùng các phương pháp quan
sát, phỏng vấn, thực ng hiệm, chuyên gia và phân tích tư liệu.
+ Điều tra xã
hội học có thể tiến h ành toàn diện (toàn bộ đối tượng trong diện nghi ên cứu)
hoặc điều tra chọn mẫu (chỉ điều tra trong các đối tượng được chọn một mẫu khoa
học).
+ Thực tế, người
ta hay d ùng cách ch ọn mẫu vì ít tốn thời gian v à chi phí, kết quả có thể suy
rộng ra to àn diện.
- Các bước của
một cuộc điều tra :
+ Xác định mục
đích của cuộc điều tra: Nhằm thực hiện mục đích của đề tài nghiên cứu (đã nêu ở
phần trên).
+ Xây dựng mô hình lý luận, thao tác ho á khái niệm,
xác định chỉ báo, chỉ tiêu, thang đo.
+ Lựa chọn
phương pháp điều tra chọn mẫu hay to àn diện, quan sát hay phỏng vấn...
+ Lên phương án điều tra, xây dựng
bảng hỏi.
+ Tập hợp điều tra vi ên, tổ chức tập
huấn cách thức điều tra, nội dung các chỉ báo, chỉ tiêu và cách điền số liệu v
ào bảng hỏi.
+ Phân công điều tra viên xuống các địa bàn điều tra.
+ Thu nhận, tập
hợp các phiếu điều tra, kiểm tra các ghi chép theo các tiêu chuẩn: Đầy đủ,
chính xác, kịp thời.
+ Tổng kết điều tra, đánh giá kết quả, tồn tại.
- Chỉ tiêu, chỉ
báo, thang đo trong nghiên cứu xã hội học:
Từ các khái
niệm thực nghiệm, cụ thể hoá dần từng b ước, người ta có các chỉ tiêu hoặc chỉ
báo thực nghiệm, được cụ thể hoá tới mức có thể phản ánh bằng số lượng.
Chỉ có qua
các chỉ ti êu, chỉ báo, người ta mới có thể tiến hành điều tra, phân tích xã h ội
học, mới có thể phản ánh được các hiện tượng vào quá trình xã h ội, vốn rất phức
tạp v à trừu tượng.
Hệ thống các
chỉ ti êu, chỉ báo thực nghiệm để nghi ên cứu một vấn đề xã hội nào đó, thường
được đưa vào các bảng hỏi và các biểu, bảng dùng cho điều tra và phân tích xã hội.
Thang đo là một
công cụ để lượng hoá các hiện tượng và quá trình xã hội theo các chỉ tiêu, chỉ
báo đã được chọn. Do tính chất phức tạp của đối tượng nghiên cứu, có thể có có
nhiều loại thang đo:
+ Thang định danh :
Đây là loại
thang đo đơn giản nhất dùng để liệt kê các biểu hiện cùng loại của một đặc điểm,
đặc tính của đối tượng. Thí dụ: nam, nữ (giới tính), được dùng phổ biến trong
nghi ên cứu xã hội học
+ Thang thứ bậc:
Đã có sự sắp
xếp hơn kém theo một tiêu chuẩn nào đó; không thích, thích, rất thích. Thang thứ
bậc chỉ có tác dụng phân chia tổng thể thành các t ổ có cường độ biểu hiện khác
nhau, không dùng để tính toán được sự hơn kém của cường độ đó. Tuy nhiên, trong
xã hội học, loại thang này được dùng phổ biến.
+ Thang đo khoảng:
Nếu thang thức
bậc có thể sắp xếp cho các cường độ có khoảng cách đều nhau, người ta có thang
đo khoảng. Thí dụ: Thứ tự quan trọng của các biện pháp tạo việc làm cho thanh
niên: 1, 2, 3, 4... thang đo này có thể dùng để tính toán sự hơn kém của cường
độ, nhưng chỉ đối với một hiện tượng, không so sánh rộng theo thời gian v à
không gian được, vì phụ thuộc vào các giá tr ị tuyệt đối của số đo. Tuy vậy,
trong x ã hội học, loại thang n ày cũng hay được dùng.
- Thang đo tỷ lệ:
Nếu các giá
trị tuyệt đối của thang đo khoảng được so sánh với một điểm gốc v à không b ị
ràng buộc vào các khoảng đều nhau, người ta dùng thang đo tỷ lệ. Thí dụ: Thu nhập
bình quân đầu người của dân cư, số con trong một gia đ ình... Loại thang đo này
được dùng nhiều trong tự nhiên, k ỹ thuật, kinh tế ở các hiện tượng có thể lượng
hoá được. Chúng có thể được dùng để tính toán theo bất kỳ mục ti êu nghiên cứu
nào. Tuy vậy, trong xã hội học, loại thang đo n ày có phạm vi sử dụng không rộng.
- Kỹ thuật xây
dựng bảng hỏi v à thu thập thông tin bằng bảng hỏi:
Bảng hỏi là công cụ cơ bản trong công việc thu thập thông tin x ã hội,
là một tập hợp các câu hỏi được sắp xếp có hệ thống trên cơ sở các nguyên tắc
tâm lý và logic, nhằm thu được các nội dung cần thiết
cho đề tài nghiên cứu, là sự thể hiện b ên ngoài của các giả thuyết đã nêu ở phần
quá trình nghiên cứu.
Người điều
tra sẽ thu thập thông tin ở đối tượng theo bảng hỏi. Như vậy, bảng hỏi c òn là
phương tiện chứa đựng và lưu trữ thông tin, làm cơ sở cho việc xử lý tiếp theo.
Xây dựng bảng
hỏi l à công việc trí tuệ rất vất vả, chất lượng bảng hỏi phụ thuộc vào trình độ
của tác giả và sự chuẩn bị chu đáo ở các khâu xác định đề tài và mục tiêu
nghiên c ứu, xây dựng các giả thuyết, mô hình nghiên c ứu và thao tác hoá các
khái ni ệm.
Các loại câu hỏi:
+ Theo nội dung câu hỏi:
Các câu hỏi đặc trưng cho một sự kiện, sự thật nào đó,
trong một không gian và th ời gian xác định.
Các câu hỏi thể hiện sự mong muốn, đánh giá của cá
nhân, của nhóm về một vấn đề nào đó.
+ Theo tính chất của câu hỏi:
Câu hỏi mở là loại câu hỏi không có sự chuẩn
bị trả lời trước, người được hỏi trả lời theo sự hiểu biết, tâm trạng của m
ình. Loại câu hỏi này thường được dùng cho những hiện tượng, quá trình chưa được
nhận thức đầy đủ, những câu trả lời đưa ra được các khía cạnh m à người nghiên
cứu chưa biết hoặc chưa hiểu rõ. Ngoài ra, khi c ần kiểm tra tính đầy đủ và chất
lượng của câu hỏi đóng người ta cũng dùng câu hỏi mở. Tuy nhi ên, câu hỏi mở có
nhược điểm là các câu trả lời thường có nhiều nghĩa rất khác nhau, nhất l à có
những từ đa nghĩa, làm người nghiên cứu khó xác định nội dung trả lời. Mặt
khác, có thể nhiều cách trả lời khác nhau, l àm cho việc tổng hợp gặp nhiều khó
khăn.
Câu hỏi đóng là các câu hỏi đã có sẵn các cách
trả lời, người được hỏi xem xét, cân nhắc v à chọn cách trả lời ph ù hợp với
suy nghĩ của họ. Câu hỏi đóng có ưu điểm là các cách trả lời đo được chuẩn bị
nên thường đơn giản và nhằm đúng trọng tâm nghi ên cứu, để tổng hợp. Tuy vậy,
loại câu hỏi n ày chỉ thích hợp với các vấn đề đ ã rõ ràng, ng ười nghiên cứu
đã bao quát được các cách trả lời (nếu chưa bao quát được hết, sẽ mất các cơ hội
tiếp cận được nhận thức mới.
Câu hỏi kết hợp vừa đưa ra sẵn các cách trả lời, vừa
có phần để ngỏ cho các ý kiến ngo ài các cách trả lời sẵn. Loại câu hỏi n ày
hay được dùng vì kết hợp được ưu điểm của hai loại câu hỏi tr ên.
Bố cục của bảng hỏi thường có ba phần:
+ Phần mở
đầu bao gồm tên của bảng hỏi, tên cơ quan nghiên cứu, lời giới thiệu n êu rõ mục
đích nghi ên cứu, các giải thích và hướng dẫn cách trả lời. Phần n ày nên ngắn
gọn, dễ hiểu, gây tin tưởng cho đối tượng trả lời.
+ Phần nội
dung gồm các câu hỏi nhằm thu thập thông tin cho cho đề tài. Vấn đề cơ bản của
phần này là việc sắp xếp thứ tự các câu hỏi. Thông thường các câu hỏ i về vấn đề
chung được đặt trước, vấn đề riêng được đặt sau; câu hỏi khách quan đặt trước,
câu hỏi đụng chạm đến khía cạnh riêng tư đặt sau... Ngo ài các câu hỏi nội dung
c òn có các câu h ỏi kiểm tra (nhắc lại một câu hỏi ở tr ên hoặc hỏi theo cách
khác để xem có gì mâu thu ẫn không).
+ Phần kết
luận gồm một vài câu hỏi để kết thúc cuộc điều tra. Thường là những câu hỏi về
thông tin của đối tượng điều tra: Họ t ên, tuổi, địa chỉ hay cơ quan công tác,
chức vụ.
Trình bày bảng
hỏi nên sáng s ủa, rõ ràng. Phía d ưới các câu hỏi mở phải có khoảng cách thích
hợp để điền các câu trả lời. B ên phải các câu hỏi đóng, phải có các ô vuông ở
từng cách trả lời để đánh dấu cách trả lời được chọn. Phần dưới cũng có các ghi
chú về đặc điểm đối tượng như tuổi, giới tính, nghề nghiệp. Bảng hỏi nên để
khuyết danh để người trả lời không e ngại.
Xã hội học lý thuyết, x ã hội học thực
nghiệm v à xã hội học ứng
dụng
Xã hội học
lý thuyết là bộ phận xã hội học nghiên cứu một cách khách quan,
khoa h ọc các hiện tượng và quá trình xã h ội nhằm phát hiện những vấn đề lý luận
mới, các khái niệm, phạm tr ù hoặc lý thuyết mới.
Xã hội học
thực nghiệm là bộ phận xã hội học nghiên cứu các hiện tượng và
quá trình xã h ội bằng việc vận dụng lý luận v à thực chứng bằng những quan
sát, đo lường, thí nghiệm để kiểm nghiệm các giả thuyết khoa học.
Xã hội học
ứng dụng là bộ phận xã hội học vận dụng lý luận v ào việc phân
tích, t ìm hiểu, nghiên cứu và giải quyết các hiện tượng và quá trình xã hội,
các tình huống, các sự kiện của thực tiễn đời sống xã hội, tức là thực hiện việc
đưa tri thức xã hội học vào cuộc sống.
Cả ba bộ phận
tr ên của xã hội học quan hệ mật thiết với nhau, trong đó, xã hội học lý thuyết
và xã hội học thực nghiệm l à tiền đề cho xã hội học ứng dụng, c òn xã hội học ứng
dụng l à đích đến của xã hội học.
Xã hội học đại cương và xã hội học
chuy ên ngành
Xã hội học đại cương nghiên cứu
các quy luật, tính quy luật, thuộc tính và những đặc điểm chung nhất của các hiện
tượng và quá trình xã hội. Xét về phạm vi v à tính chất, xã hội học đại cương gần
gũi với x ã hội học vĩ mô hay x ã hội học lý thuyết.
Xã hội học
chuy ên ngành là một bộ phận của xã hội học gắn lý luận xã hội học
đại cương với việc nghiên cứu những hiện tượng hay quá trình xã hội của một lĩnh
vực cụ thể của đời sống xã hội. Xã hội học hiện đại được phân chia thành nhiều
chuyên ngành xã hội học như:
- Xã hội học
gia đình;
- Xã hội học
nông thôn;
- Xã hội học đô
thị;
- Xã hội học
văn hoá;
- Xã hội học quản
lý...
Mối quan hệ giữa x ã hội học với một
số khoa học x ã hội
khác
Quan hệ giữa xã hội học với triết học
Triết học là
khoa học nghiên cứu các quy luật chung của tự nhi ên, xã hội và tư duy. Do đó,
quan hệ giữa xã hội học với triết học là mối quan hệ giữa một khoa học cụ thể với
thế giới quan khoa học.
Các nhà xã hội
học mác xít vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử v à phép biện chứng duy vật l àm
công cụ lý luận sắc bén để nghiên cứu và cải thiện mối quan hệ giữa con người với
xã hội.
Cần tránh hai quan niệm sai lầm hoặc l à coi xã hội học
chỉ l à một bộ phận của triết học, hoặc l à đối lập xã hội học với triết học.
Xã hội học là
khoa học độc lập nhưng lấy triết học làm nền tảng tư tưởng và mối quan hệ giữa
chúng l à mối quan hệ biện chứng. X ã hội học cung cấp những thông tin v à phát
hiện các vấn đề mới làm phong phú thêm kho tàng tri th ức và phương pháp lu ận
của triết học.
Quan hệ giữa xã hội học với một số
khoa học x ã hội khác
Xã hội học
giúp hiểu r õ bản chất, tức l à quy luật của con người và xã hội, bộc lộ rõ nhất
trong mối quan hệ giữa một b ên là xã hội và bên kia là con người.
Việc xác định
rõ đối tượng nghiên cứu của xã hội học giúp nhà xã hội học xác định được vị trí
của xã hội học trong hệ thống các khoa học xã hội.
Xã hội học và
các khoa học xã hội khác đều là những khoa học chuyên ngành có khách th ể
nghiên cứu chung l à hệ thống x ã hội, chỉ khác nhau ở đối tượng nghiên cứu được
tách ra từ khách thể đó.
Như vậy, giữa
xã hội học với các khoa học x ã hội khác tuy có sự phát triển độc lập song lại
quan hệ tương hỗ nhau và đều dựa trên lập trường thế giới quan v à phương pháp
luận của triết học duy vật lịch sử. Chẳng hạn:
-
Xã hội học quan hệ chặt chẽ với tâm lý học v à sử học.
Các nh à xã hội học có thể vận dụng cách tiế p cận tâm lý học để xem xét hành động
xã hội với tư cách là hoạt động cảm tính, có đối tượng, có mục đích.
-
Xã hội học có thể coi cơ cấu xã hội, tổ chức x ã hội,
thiết chế x ã hội với tư cách là chủ thể của hành động.
-
Xã hội học có thể quán triệt quan điểm lịch sử trong
việc đánh giá tác động của hoàn cảnh, điều kiện xã hội đối với con người.
- Xã hội học
quan hệ với kinh tế học theo ba hướng tạo th ành ba lĩnh vực khoa học chuy ên
ngành, cụ thể:
+ Kinh tế học
xã hội rất gần gũi với kinh tế chính trị học;
+ Xã hội học
kinh tế ;
+ Kinh tế và
xã hội.
-
Mặc dù trong cả ba lĩnh vực trên, kinh tế học tỏ ra có
ảnh hưởng tới xã hội học nhiều hơn là xã hội học ảnh hưởng tới kinh tế học.
Nhưng xã hội học cũng như kinh tế học đều sử dụng nhiều thuật ngữ khoa học, nhiều
khái niệm, phạm tr ù của nhau.
-
Xã hội học và các khoa học xã hội đều có nhiệm vụ
chung l à lý giải và đáp ứng các nhu cầu do thực tiễn x ã hội đặt ra.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét