Thứ Năm, 9 tháng 1, 2014

KHOA HỌC HÀNH CHÍNH

Mở đầu:
Thể chế hành chính nhà nước là thuật ngữ dùng để chỉ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh về các mặt tổ chức và hoạt động, chế độ công vụ, tài chính, nhân sự liên quan đến hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước; bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước trên mọi mặt đời sống xã hội của bộ máy hành chính nhà nước.
Thể chế hành chính: là tổng thể những quy định chính thức của Nhà nước (Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật) nhằm tạo khuôn khổ pháp lý cho các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện chức năng hành pháp đối với mọi mặt đời sống xã hội và cho mọi tổ chức, cá nhân sống và làm việc theo pháp luật, giữ vững trật tự kỷ cương xã hội, ổn định và phát triển.
Có thể chia hệ thống thể chế hành chính theo nhiều cách khác nhau tùy theo mục đích nghiên cứu và điều hành hành chính, song trên thực tế tổng thể hệ thống thể chế hành chính phổ biến được phân ra các loại theo 4 mô hình tổ chức trong xã hội:
Thể chế về tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước.
Thể chế về quản lý hành chính của Nhà nước đối với các doanh nghiệp trên các lĩnh vực;
Thể chế về dịch vụ công đối với các đơn vị sự nghiệp;
Thể chế về các tổ chức thuộc lực lượng vũ trang.

Thực trạng thể chế hành chính nhà nước ta hiện nay:
+ Tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo
Năm 2012, tình hình khiếu nại, tố cáo trên địa bàn các tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc có những diễn biến phức tạp. Số lượng đơn thư, vụ việc phát sinh còn nhiều, tập trung chủ yếu ở những địa bàn có nhiều dự án, công trình và các khu vực thành thị. Tình trạng khiếu kiện đông người xảy ra ở hầu hết các địa phương (21/25 tỉnh, thành phố) với 2.117 lượt đoàn và 1.199 vụ việc.
Hạn chế, nhận thức của một số địa phương về công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo dẫn đến sự phối hợp, thực hiện chưa chặt chẽ, kém hiệu quả. Một số địa phương chưa chủ động, có trường hợp thiếu tích cực hoặc chờ đợi cơ quan cấp trên. Bên cạnh đó, luật cũng chưa có quy định xử lý đối với những trường hợp lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để gây rối.
Các vụ việc tồn đọng phát sinh đã nhiều năm nay và pháp luật điều chỉnh vấn đề này đã có nhiều thay đổi; hồ sơ, tài liệu bị thất lạc hoặc không đủ để làm căn cứ xem xét, giải quyết. Do một số cơ chế, chính sách còn chưa đảm bảo được sự hài hòa giữa các mục tiêu phát triển kinh tế với công bằng và an sinh xã hội nên người dân vẫn tiếp tục khiếu nại. Do công tác chỉ đạo tổ chức thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo chưa quyết liệt, khi gặp khó khăn còn ngại va chạm, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm.

+ Thực trạng đảm bảo quy trình xây dựng văn bản
“Vừa thiết kế lại vừa thi công” là nhận xét của luật sư Nguyễn Văn Cường, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh về thực trạng xây dựng luật, văn bản quy phạm pháp luật hiện nay ở Việt Nam. Các đơn vị thuộc Chính phủ, Chính phủ là cơ quan hành pháp nhưng lại tham gia quá nhiều công việc lập pháp với hơn 90% dự án luật đều do cơ quan Chính phủ soạn thảo, đưa Bộ Tư pháp thẩm định rồi Chính phủ trình Quốc hội thông qua. Trong khi khối lượng công việc chuyên môn của các bộ, của Văn phòng Chính phủ, của Chính phủ là rất lớn, nguồn cán bộ pháp chế còn hạn chế cả về chuyên môn lẫn số lượng.
Các quy định về thẩm định, thẩm tra còn chung chung, khó xác định phạm vi. Chưa có quy định về chế tài đối với quy trình.
Kinh phí cho xây dựng pháp luật chưa được quy định rõ (soạn thảo, khảo sát, thẩm định, thẩm tra…)
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 dù đã có giảm một số hình thức văn bản quy phạm pháp luật nhưng nhìn chung vẫn còn quy định quá nhiều hình thức văn bản quy phạm pháp luật, trong khi không quy định rõ tiêu chí để phân biệt các loại văn bản đó đã gây khó khăn cho chính quyền địa phương trong việc xác định hình thức văn bản cần ban hành trong từng trường hợp cụ thể. Ngoài ra, quy định nhiều hình thức văn bản quy phạm pháp luật khó đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống văn bản và gây khó khăn cho cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc triển khai áp dụng và tiếp cận văn bản.

+ Thực trạng đảm bảo thi hành, tổ chức thực hiện thể chế
Thủ tục hành chính tuy đã có những tiến bộ nhưng vẫn còn rườm rà, gây không ít phiền toái cho doanh nghiệp và người dân; cơ chế “xin – cho” vẫn còn tồn tại; cơ chế “một cửa” tuy đã được triển khai nhưng nhiều nơi còn hình thức chưa đi vào thực chất.
Các văn bản của Chính phủ thiếu đồng bộ; nhiều quy định đã lỗi thời hoặc còn quá nhiều thủ tục rườm rà.
Việc ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật còn chậm so với hiệu lực thi hành của Luật. Một số quy định chưa được ban hành hoặc đã có nhưng không phù hợp với thực tế; chưa đồng bộ, thiếu nhất quán, gây khó khăn cho việc thực hiện chính sách, pháp luật.
Tính chất dân chủ của nền hành chính nước ta thông qua một loạt các chủ trương, biện pháp như quy chế dân chủ cơ sở, sự tham gia của người dân vào hoạt động quản lý nhà nước, vào xây dựng thể chế, bầu trực tiếp trưởng thôn, bầu đại biểu vào cơ quan quyền lực nhà nước các cấp, thông qua hoạt động giám sát v.v… đã bước đầu được khẳng định, nhưng nhìn chung vẫn còn thấp.
Nhiều chủ trương, giải pháp đúng đắn nhưng chưa được triển khai kiên quyết nên chưa được hoàn thành dứt điểm và nhân rộng ở quy mô lớn.
Tệ cửa quyền, quan liêu, tham nhũng vẫn còn là vấn nạn, tính công khai minh bạch của nền hành chính còn nhiều thách thức, một bộ phận cán bộ, công chức suy giảm lý tưởng, lối sống, vi phạm đạo đức công vụ gây bất bình trong nhân dân.
Mức độ chuyên nghiệp, tính chuyên sâu, kỹ năng hành chính của cán bộ, công chức thấp. Trình độ hiểu biết và kỹ năng của cán bộ, công chức với hàm lượng khoa học, thông qua đó có đủ trình độ để xử lý các vấn đề quản lý ở tầm vĩ mô, vi mô thấp, chưa đáp ứng yêu cầu của một nền hành chính hiện đại. Các kết quả bước đầu trong việc áp dụng công nghệ thông tin vào hành chính,  trang thiết bị công sở chưa khắc phục được thực trạng nền hành chính của chúng ta còn lạc hậu so với mặt bằng trong khu vực và thế giới.

Nguyên nhân hạn chế, bất cập:
+ Năng lực xây dựng, tổ chức thực hiện thể chế còn hạn chế
Đội ngũ cán bộ, công chức xây dựng pháp luật còn yếu về trình độ, thiếu kỹ năng xây dựng, phân tích, thẩm định, thẩm tra các VBQPPL. Tính chuyên nghiệp, tư duy triết lý pháp quyền hầu như chưa được quán triệt trong cán bộ, công chức.
Ứng dụng thành tựu khoa học còn ít và không mang tính công nghệ (nghĩa là không có phương pháp tiếp cận các kiến thức hiện đại). 
 + Cơ chế xây dựng thể chế còn bất cập (Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ…) Quy trình hiện tại khiến cho luật thiếu tính cụ thể, khó áp dụng vì Ủy ban Thường vụ Quốc hội thẩm định cuối cùng dự án luật nhưng lại không tham gia từ đầu nên vừa khi ban hành xong, luật phải chờ nghị định (cấp Chính phủ), thông tư (cấp bộ) hướng dẫn. Cũng với quy trình hiện hành, một mình Bộ Tư pháp sẽ phải đứng giữa “rừng luật” với “rừng” thông tư để thẩm định, là việc làm không xuể.
+ Lợi ích nhóm tiêu cực chi phối làm méo mó thể chế dẫn đến tác động đến nội dung thể chế
+ Quá trình xây dựng thể chế chưa thực sự dân chủ, khoa học dẫn đến tính hiện thực, khả thi kém
Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, tổ chức trong xây dựng còn thiếu chặt chẽ và không đồng bộ; cơ quan soạn thảo chưa tiếp thu triệt để, nghiêm túc các ý kiến tham gia. 
Chưa có cơ chế phản biện xã hội của các tổ chức, đoàn thể, cá nhân (giám định xã hội) trong quá trình soạn thảo. 
Trách nhiệm của các thành viên Chính phủ chưa cao khi tham gia các phiên họp Chính phủ đối với các dự thảo (chỉ quan tâm đến lĩnh vực, ngành mình) 
Luật mới chỉ quy định mang tính chất khung; nhiều vấn đề về sự thu hút của giới khoa học, nhân dân chưa cụ thể.
Quy trình tham gia xây dựng, góp ý kiến của địa phương đối với việc ban hành văn bản của các cơ quan nhà nước ở Trung ương trong thời gian qua còn mang tính dàn trải, chưa đúng đối tượng, chưa đảm bảo thời gian; việc tổng hợp ý kiến góp ý của cơ quan chủ trì soạn thảo chưa thật sự khách quan, toàn diện, nhiều trường hợp bỏ qua những vấn đề còn có ý kiến khác nhau

+Cải cách hành chính chậm, hiệu quả còn thấp có những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
* Thứ nhất, công tác chỉ đạo thực hiện cải cách hành chính từ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng tới Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương không thật sự kiên quyết, nhất quán và cũng không bảo đảm tính thường xuyên, liên tục. Hoạch định chính sách, thể chế vốn đã khó, thường phải kéo dài, nhưng một khi đã được ban hành thì khâu tổ chức thực hiện lại quá chậm và kém hiệu quả. Trạng thái chung là chờ đợi, chờ hướng dẫn, chờ đôn đốc, rất ít bộ, ngành và tỉnh chủ động, quyết liệt triển khai.
* Thứ hai, chậm nghiên cứu, kết luận và thể chế hoá các vấn đề liên quan mật thiết tới cải cách hành chính. Cũng phải thấy rằng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đặt ra khá nhiều vấn đề đòi hỏi phải có thời gian nghiên cứu, nhưng một số vấn đề như “bỏ cơ chế Bộ chủ quản”,  “Bộ thực hiện vai trò chủ sở hữu phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp” v.v… tuy đã có kết luận, nhưng khi đi vào cụ thể thì các quy định dự kiến ban hành cũng rất chậm. Lý luận thì khẳng định Bộ tập trung vào thực hiện chức năng quản lý Nhà nước ở tầm vĩ mô, không can thiệp sâu vào hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc, nhưng thực tiễn thì Bộ trưởng phải xử lý khá nhiều công việc không thuộc tầm vĩ mô, nếu không giải quyết thì cũng không rõ ai giải quyết. Mối quan hệ giữa hành chính, doanh nghiệp và sự nghiệp đang đòi hỏi phải tiếp tục làm rõ hơn, cụ thể hơn.
* Thứ ba, khá nhiều vấn đề của cải cách hành chính đòi hỏi phải được giải quyết trong tổng thể các cuộc cải cách, đổi mới đang diễn ra ở nước ta. Mối quan hệ, chi phối lẫn nhau giữa cải cách hành chính, cải cách kinh tế, cải cách tư pháp, cải cách lập pháp và đổi mới từng bước hệ thống chính trị nếu không được bảo đảm, nếu thiếu đồng bộ sẽ ảnh hưởng tới tiến trình cải cách đổi mới nói chung và tới cải cách hành chính nói riêng. Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và đối với cơ quan hành chính nói riêng cũng chậm đổi mới.
* Thứ tư, chưa có biện pháp, cơ chế tạo động lực, hưởng ứng cải cách của đa số cán bộ, công chức cũng như chưa xử lý nghiêm bộ phận cán bộ, công chức thoái hoá, kém phẩm chất trong thực thi công vụ.

Nội dung cải cách thể chế hành chính từ nay đến năm 2020:
Nền hành chính nước ta tuy có nhiều đổi mới nhưng về cơ bản vẫn là một nền hành chính thực hiện theo cơ chế mệnh lệnh và “xin – cho”. Nền hành chính như vậy chưa thể đảm nhiệm vai trò khai thông các nguồn lực trong mỗi cá nhân, tổ chức và xã hội để phát triển đất nước. Trước yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong bối cảnh hội nhập như hiện nay, cần thiết phải chuyển từ nền hành chính truyền thống sang nền hành chính phát triển
Mục tiêu chung
Đến năm 2020 xây dựng được một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phục vụ người dân, doanh nghiệp và xã hội.

Nhiệm vụ cải cách nền hành chính nhà nước đến năm 2020
1. Cải cách thể chế, bao gồm xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung; đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật; Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách, trước hết là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự công bằng trong phân phối thành quả của đổi mới, của phát triển kinh tế - xã hội; Hoàn thiện thể chế về sở hữu, trong đó khẳng định rõ sự tồn tại khách quan, lâu dài của các hình thức sở hữu, trước hết là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu khác nhau trong nền kinh tế; Tiếp tục đổi mới thể chế về doanh nghiệp nhà nước và tổ chức và kinh doanh vốn nhà nước; Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về xã hội hóa theo hướng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cung ứng các dịch vụ trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh; Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế về tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước; Xây dựng, hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân,
2. Cải cách thủ tục hành chính bao gồm cắt giảm và nâng cao chất lượng thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước, nhất là thủ tục hành chính liên quan tới người dân, doanh nghiệp; cải cách thủ tục hành chính để tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, giải phóng mọi nguồn lực của xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, bảo đảm điều kiện cho nền kinh tế của đất nước phát triển nhanh, bền vững; cải cách thủ tục hành chính giữa các cơ quan hành chính nhà nước, các ngành, các cấp và trong nội bộ từng cơ quan hành chính nhà nước; kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới các thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật; công khai, minh bạch tất cả các thủ tục hành chính; cải cách thủ tục hành chính ngay trong quá trình xây dựng thể chế, mở rộng dân chủ, phát huy vai trò của các tổ chức và chuyên gia tư vấn độc lập trong việc xây dựng thể chế, chuẩn mực quốc gia về thủ tục hành chính; tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về các quy định hành chính để hỗ trợ việc nâng cao chất lượng các quy định hành chính và giám sát việc thực hiện thủ tục hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước các cấp.
3. Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước bao gồm tiến hành tổng rà soát và điều chỉnh phù hợp về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và biên chế hiện có của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, các cơ quan, tổ chức khác thuộc bộ máy hành chính nhà nước ở trung ương và địa phương (bao gồm cả các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước); chuyển giao những công việc mà cơ quan hành chính nhà nước không nên làm hoặc làm hiệu quả thấp cho xã hội, các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đảm nhận; tổng kết, đánh giá mô hình tổ chức và chất lượng hoạt động của chính quyền địa phương nhằm xác lập mô hình tổ chức phù hợp, bảo đảm phân định đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, sát thực tế, hiệu lực, hiệu quả; xây dựng mô hình chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn phù hợp; hoàn thiện cơ chế phân cấp để đề cao vai trò chủ động, tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng lực của từng cấp, từng ngành; tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra; tiếp tục đổi mới phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước để bảo đảm sự hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước đạt mức trên 80% vào năm 2020; cải cách và triển khai trên diện rộng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công, nâng cao chất lượng dịch vụ công trong các lĩnh vực giáo dục, y tế đạt mức hài lòng của người dân trên 80% vào năm 2020.
4. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức bao gồm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, đủ trình độ, năng lực và phhaamr chất thi hành công vụ, phục vụ nhân dân và phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước; xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ của cán bộ, công chức, viên chức, kể cả cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý; xây dựng cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức hợp lý gắn với vị trí việc làm trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị; hoàn thiện quy định của pháp luật về tuyển dụng, bố trí, phân công nhiệm vụ công chức, viên chức; thực hiện chế độ thi nâng ngạch theo nguyên tắc cạnh tranh; thi tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý từ cấp vụ trưởng và tương đương (ở trung ương), giám đốc sở và tương đương (ở địa phương) trở xuống; Xây dựng và thực hiện quy định pháp luật về đánh giá cán bộ, công chức, viên chức trên cơ sở kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; thực hiện cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân; quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức, viên chức tương ứng với trách nhiệm và có chế tài nghiêm đối với hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức; đổi mới nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng theo các hình thức: Hướng dẫn tập sự trong thời gian tập sự; bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, viên chức; đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng bắt buộc kiến thức, kỹ năng tối thiểu trước khi bổ nhiệm và bồi dưỡng hàng năm; tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải cách chính sách tiền lương, chế độ bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công; đến năm 2020, tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức được cải cách cơ bản, bảo đảm được cuộc sống của cán bộ, công chức, viên chức và gia đình ở mức trung bình khá trong xã hội; sửa đổi, bổ sung các quy định về chế độ phụ cấp ngoài lương theo ngạch, bậc, theo cấp bậc chuyên môn, nghiệp vụ và điều kiện làm việc khó khăn, nguy hiểm, độc hại; đổi mới quy định của pháp luật về khen thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ và có chế độ tiền thưởng hợp lý đối với cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành xuất sắc công vụ; nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức.
5. Cải cách tài chính công bao gồm huy động và phân phối và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội; tiếp tục hoàn thiện chính sách về thuế, tiền lương, tiền công; thực hiện cân đối ngân sách tích cực; tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước;  đổi mới căn bản cơ chế sử dụng kinh phí nhà nước; phát triển các doanh nghiệp khoa học, công nghệ, các quỹ đổi mới công nghệ và quỹ đầu tư mạo hiểm; xây dựng đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học và công nghệ; đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính nhà nước, tiến tới xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng biên chế, thay thế bằng cơ chế cấp ngân sách dựa trên kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát đầu ra, chất lượng chi tiêu theo mục tiêu, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước; tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo dục, đào tạo, y tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình, thể dục, thể thao; đổi mới cơ chế hoạt động, nhất là cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; chuẩn hóa chất lượng dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế; đổi mới và hoàn thiện đồng bộ các chính sách bảo hiểm y tế, khám, chữa bệnh; có lộ trình thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân.
6. Hiện đại hóa hành chính bao gồm hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động của Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ trên Internet. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước để đến năm 2020: 90% các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện dưới dạng điện tử; ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong quy trình xử lý công việc của cơ quan hành chính nhà nước; công bố danh mục các dịch vụ hành chính công trên Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ trên Internet; thực hiện có hiệu quả hệ thống quản lý chất lượng trong các cơ quan hành chính nhà nước; đầu tư xây dựng trụ sở cơ quan hành chính nhà nước cấp xã, phường bảo đảm yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước và xây dựng hiện đại, tập trung ở những nơi có điều kiện.

Mối quan hệ giữa cải cách thể chế hành chính nhà nước và thủ tục hành chính:
Thủ tục hành chính là cách thức tổ chức thực hiện hoạt động quản lí hành chính nhà nước theo đó cơ quan, cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ, cá nhân, tổ chức thực hiện quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết các công việc của quản lí hành chính nhà nước.

Những đặc điểm của thủ tục hành chính:
+Thủ tục hành chính là thủ tục thực hiện hoạt động quản lí hành chính nhà nước.
Thủ tục hành chính được thực hiện bởi các chủ thể quản lí hành chính nhà nước. Các chủ thể quản lí hành chính nhà nước bao gồm các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, cá nhân được nhà nước trao quyền; trong đó quan trọng nhất phải kể đến các cơ quan hành chính, các cán bộ, công chức trong hệ thống cơ quan này. Ngoài cơ quan hành chính, các cơ quan nhà nước khác cũng tiến hành thủ tục hành chính khi thực hiện hoạt động quản lí hành chính nhà nước như khi các cơ quan đó xây dựng, củng cố chế độ công tác nội bộ; các cơ quan tổ chức, các nhân khi tiến hành các hoạt động quản lí hành chính được Nhà nước trao quyền trong các trường hợp cụ thể do pháp luật quy định.
+ Thủ tục hành chính do quy phạm pháp luật hành chính quy định.
Căn cứ vào mối quan hệ được điều chỉnh, quy phạm pháp luật hành chính được chia thành quy phạm nội dung và quy phạm thủ tục. Quy phạm thủ tục quy định cách thức thực hiện quy phạm nội dung, là yếu tố cần thiết và chiếm phần lớn trong các quy phạm pháp luật hành chính bởi vì: Các quan hệ thủ tục hành chính là đối tượng điều chỉnh của luật hành chính; Thủ tục hành chính do nhiều chủ thể tiến hành. Muốn tạo sự thống nhất trong hoạt động quản lí tất yếu phải được thể hiện dưới dạng các quy phạm pháp luật có giá trị bắt buộc thi hành. Bên cạnh đó, thủ tục hành chính cần được quy định cụ thể, rõ ràng để tránh sự lạm quyền, lộng hành hay không thực hiện hết thẩm quyền của chủ thể quản lí, tạo nên sự tin tưởng của người dân đối với việc tham gia thủ tục hành chính, ngăn ngừa khả năng xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi cá nhân.
+ Thủ tục hành chính có tính mềm dẻo, linh hoạt.
Biểu hiện đầu tiên đó chính là việc có rất nhiều thủ tục hành chính khác nhau. Mỗi thủ tục hành chính tương ứng với một hoạt động quản lí hành chính nhà nước cụ thể.
Không những thế, thủ tục hành chính còn có sự thay đổi tương đối nhanh. Sự thay đổi này cần được hiểu theo mặt tích cực mang tính khách quan: thay đổi để phù hợp và hiệu quả với tình hình xã hội đương thời. Khả năng thay đổi theo nhu cầu của thủ tục hành chính nhanh hơn các thủ tục khác.

Mối quan hệ giữa cải cách thể chế hành chính nhà nước và thủ tục hành chính:
Từ những phân tích về khái niệm và đặc điểm của thủ tục hành chính ta có thể thấy được ý nghĩa, vai trò quan trọng của thủ tục hành chính trong quản lí nhà nước, cũng như vai trò đối với sự phát triển của xã hội. Xét mối quan hệ giữa cải cách thể chế hành chính nhà nước và thủ tục hành chính, có thể thấy:
Thủ tục hành chính nằm trong thể chế hành hính, là mặt hình thức của thể chế hành chính.
Hiện nay, do vị trí, vai trò của thủ tục hành chính nên thủ tục hành chính được tách ra thành một nội dung của cải cách hành chính.
Tuy vậy, thể chế hành chính và thủ tục hành chính gắn bó với nhau vì là hai mặt nội dung và hình thức của thể chế hành chính. 
Thủ tục hành hành chính là hình thức, quy định cách thức, trình tự các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền giải quyết các công việc của công dân và doanh nghiệp, giúp cho thủ tục hành chính hiện thực hóa nội dung (tức là các quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ hành chính).

Kết luận:
-Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính
Tập trung chỉ đạo chặt chẽ và đẩy nhanh việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế, pháp luật, đặc biệt là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các thể chế vể nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Xác định hợp lý chương trình xây dựng pháp luật dài hạn và ngắn hạn. Nâng cao chất lượng xây dựng luật; xác định rõ quan điểm chỉ đạo của từng văn bản pháp luật cần ban hành. Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật đủ cụ thể, rõ ràng, kịp thời, đúng quy định.
Xác định rõ những văn bản pháp luật cần thiết phải có để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế; không nhất thiết mỗi lĩnh vực, mỗi ngành phải có một bộ luật riêng. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật; có cơ chế hợp lý để nhân dân tham gia ý kiến, nhất là các đối tượng chịu sự điều chỉnh của pháp luật sẽ ban hành. Khi đưa ra lấy ý kiến nhân dân phải được chuẩn bị kỹ, những vấn đề nhạy cảm liên quan đến quan điểm chính trị phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Bộ Chính trị.

-Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính
Tập trung đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, xem đây là khâu đột phá để tạo môi trường thuận lợi, minh bạch cho hoạt động của nhân dân và doanh nghiệp. Tiến hành rà soát các thủ tục hành chính trên tất cả các lĩnh vực, chỉ rõ những thủ tục, những quy định sai pháp luật, không phù hợp để kiên quyết sửa đổi. Đây là khâu cản trở sự phát triển và gây nhiều bức xúc trong nhân dân, cần tập trung chỉ đạo tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong lĩnh vực này.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét