Thứ Năm, 9 tháng 1, 2014

Thực trạng đội ngũ cán bộ công chức của nước ta hiện nay. Nội dung của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ công chức?

Đề 2
Câu 1. Thực trạng đội ngũ cán bộ công chức của nước ta hiện nay. Nội dung của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ công chức?

V. VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI THỰC THI CÔNG VỤ - CÁN BỘ, CÔNG CHỨC 


5.1. Người làm việc cho nhà nước

Chính vì khu vực công được hiểu khác nhau như vậy nên quan niệm về người làm việc trong khu vực công hay khu vực nhà nước cũng không thống nhất. Phạm vi rộng, hẹp của người làm việc cho khu vực công có thể khác nhau, nhưng nhìn chung, đó là những người được nhà nước trả lương và các khoản phúc lợi khác có liên quan bằng tiền từ ngân sách nhà nước.
 

 5.2. Phân loại người làm việc cho nhà nước

Phân loại theo bằng cấp, học vấn 
Có thể căn cứ vào nơi làm việc để phân loại.
Theo hệ thống thứ bậc trong cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước
Phân loại theo ngành (chuyên môn), ngạch (cấp bậc) và bậc (vị trí).
Phân loại theo hình thức đưa người vào cơ quan nhà nước
Những người được bầu làm việc theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nước.
Người làm việc do tuyển dụng
5.2.1. Cán bộ
Cho đến nay, chưa có quy định riêng về “cán bộ”. Do đó, cán bộ là thuật ngữ để chỉ nhiều nhóm người khác nhau theo cách gọi chung.
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước[1]. Ngoài ra phạm vi cán bộ còn bao gồm những người được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị – xã hội. Đây là nhóm cán bộ xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã)

5.2.2. Công chức

công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội (gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật. Ngoài ra còn có công chức cấp xã. Đó là những người được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Như vậy, công chức, theo Luật Cán bộ, công chức không bao gồm những người làm việc do Nhà nước chỉ định, bổ nhiệm trong các tổ chức kinh tế của nhà nước. Đó là những thực thể hoạt động dựa trên nguyên tắc lợi nhuận. Đối với nhóm lực lượng vũ trang, công an nhân dân, những người là sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng, hạ sỹ quan chuyên nghiệp cũng không thuộc vào phạm vi công chức.

5.2.3. Viên chức
viên chức gồm tất cả những ai là công dân Việt Nam, trong biên chế, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 1 của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Cán bộ, công chức ngày 29 tháng 4 năm 2003, hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự nghiệp theo quy định của pháp luật.
Hiện nay, Luật Cán bộ, công chức quy định những người trong bộ máy lãnh đạo quản lý của các đơn vị sự nghiệp công là công chức, do đó nhóm  viên chức sẽ không bao gồm những người này.

5.2.4. Những nhóm người khác.
                  
Trong khu vực nhà nước còn có nhiều người khác được nhà nước trả lương, công và các khoản phúc lợi có liên quan. Đó là: 
Những người làm việc không chuyên trách ở cấp xã,  ở thôn, làng, ấp, bản, buôn, sóc ở xã và tổ dân phố  ở phường, thị trấn.
Những người làm việc trong các loại tổ chức do nhà nước thành lập hoặc hỗ trợ
Những người làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước.

VI. QUẢN LÝ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC 

 

6.1. Những nội dung cơ bản về quản lý cán bộ, công chức

                  
Quản lý cán bộ công chức nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức có đủ năng lực, trình độ và phẩm chất đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước. Một số vấn đề cơ bản sau về quản lý cán bộ, công chức cần được quan tâm:
-         Nội dung quản lý
-         Quy trình quản lý
-         Kỹ năng quản lý

Nội dung quản lý cán bộ, công chức được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Đó là những nội dung nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng được nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước. Quản lý cán bộ, công chức bao gồm những nội dung cơ bản sau :

-         Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về cán bộ, công chức;
-         Xây dựng kế hoạch, quy hoạch cán bộ, công chức;
-         Quy định chức danh và cơ cấu cán bộ;
-         Quy định ngạch, chức danh, mã số công chức; mô tả, quy định vị trí việc làm và cơ cấu công chức để xác định số lượng biên chế;
-         Các công tác khác liên quan đến quản lý cán bộ, công chức.
                  
Cùng với việc quy định những nội dung quản lý cán bộ, công chức, pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng cơ quan quản lý hành chính nhà nước trong việc quản lý đội ngũ này.
Bộ Nội vụ;
Các cơ quan quản lý chuyên ngành;
Quản lý nhà nước đối với công chức từng ngành;
Quản lý nhà nước đối với cán bộ, công chức trên địa bàn địa phương

Quy trình quản lý cán bộ, công chức bao gồm những hoạt động sau:
- Tuyển chọn, bố trí, sử dụng;
- Đánh gía;
- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và sa thải;
- Khen thưởng và xử lý vi phạm kỷ luật;
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến cán bộ, công chức  và thực thi công vụ của cán bộ, công chức ;
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quản lý cán bộ, công chức

6.1.2. Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, công chức 
a.Xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng
b.Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng

6.2. Quản lý cán bộ, công chức là quản lý thực thi công vụ của cán bộ, công chức

 

Cán bộ, công chức hoạt động theo quy định của pháp luật trên cơ sở nhiệm vụ và quyền hạn được trao. Quản lý cán bộ, công chức là nhằm đảm bảo cho quá trình thực hiện công vụ của cán bộ, công việc đạt được kết quả và hiệu quả như mong muốn, tạo điều kiện cho các cơ quan hành chính nhà nước đạt được mục tiêu đã đề ra. Một trong những nội dung quan trọng của quản lý cán bộ, công chức là hoạt động đánh giá công chức.  Đây cũng là cơ sở để xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng được yêu cầu của các cơ quan hành chính nhà nước.
                  
Đánh giá cán bộ, công chức là nhằm xác định mức độ hòan thành công việc, sự cống hiến của họ. Đánh giá cán bộ, công chức là cơ sở để đề ra  các quyết định nhân sự liên quan đến cá nhân cán bộ, công chức như tăng lương, đề bạt, khen thưởng, bãi nhiệm, kỷ luật và đào tạo, bồi dưỡng.

Một số nội dung sau cần phải quan tâm trong đánh giá cán bộ, công chức:
-         Mục đích đánh giá
-         Thời điểm đánh giá
-         Nội dung đánh giá
-         Tiêu chí đánh giá
-         Phương pháp đánh giá
-         Người tiến hành đánh giá
                  
Xác định mục đích đánh giá có vai trò quan trọng trong đánh giá cán bộ, công chức bởi tùy theo mục đích của hoạt động đánh giá, có các hình thức đánh giá sau đây:
-         Đánh giá hàng năm;
-         Đánh giá theo sự kiện, dự án;
-         Đánh giá để đề bạt, bổ nhiệm;
-         Đánh giá để khen thưởng, kỷ luật.
-          
Một số tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức cần được quan tâm bao gồm:
-         Lòng trung thành với tổ chức, tổ quốc, nhân dân
-         Đạo đức công vụ
-         Đạo đức xã hội
-         Tính kỷ luật, tính tổ chức, tuân thủ pháp luật
-         Trung thực
-         Chủ động, sáng tạo
-         Hợp tác
-         Mẫn cán
-         Uy tín
*   Mọi cán bộ, đảng viên phải chuyên tâm tu dưỡng, rèn luyện bản thân, kiên định lý tưởng, thường xuyên cảnh giác, giữ vững ý chí, đảm bảo ý thức tổ chức kỷ luật, rèn luyện đạo đức và thực hành lối sống lành mạnh. Cán bộ, công chức không né tránh, thiếu bản lĩnh đấu tranh với những hành vi quan liêu, tham nhũng, tiêu cực. Cần thấy được rằng việc phục vụ nhân dân là mục tiêu hàng đầu của công vụ, là thước đo chủ yếu nhất cho mức độ và kết quả thực hiện công vụ.
Lưu ý: Cần liên hệ thực tế cơ quan mình và xem lại số thứ tự

Câu 2:   Dịch vụ công, tại sao phải xã hội hóa một số loại dịch vụ công. Đánh giá một số loại dịch vụ công (như giáo dục, y tế, công chứng,…)

I. TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ CÔNG


1.1.Nhận thức về dịch vụ công


1.1.1.Các quan niệm về dịch vụ công
Theo từ điển Petit Larousse: Dịch vụ công là hoạt động vì lợi ích chung, do một cơ quan nhà nước hoặc tư nhân đảm nhiệm”1.
Theo Từ điển Oxford, dịch vụ công là: Các dịch vụ như giao thông hoặc chăm sóc sức khoẻ do Nhà nước hoặc tổ chức chính thức cung cấp cho nhân dân nói chung2.

Ở Việt Nam cũng có nhiều nghiên cứu về khái niệm dịch vụ công, chẳng hạn:
- Dịch vụ công là những dịch vụ đáp ứng các nhu cầu cơ bản, thiết yếu chung của người dân và cộng đồng, bảo đảm ổn định và công bằng xã hội, do Nhà nước chịu trách nhiệm, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận [3].
- Dịch vụ công là những hoạt động phục vụ nhu cầu thiết yếu của xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội, do nhà nước trực tiếp đảm nhận hay uỷ quyền và tạo điều kiện cho khu vực tư nhân thực hiện4.
1.1.3.Các đặc trưng của dịch vụ công

1.2. Phân loại dịch vụ công

+ Dịch vụ hành chính
+ Dịch vụ sự nghiệp
+ Dịch vụ công ích
Dịch vụ công ích bao gồm: vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch, thoát nước, vận tải công cộng, cấp điện, bưu chính,…

1.3. Các môi quan hệ trách nhiệm trong cung ứng dịch vụ công


Trên thực tế, có ba nhóm tác nhân tham gia vào quá trình cung ứng dịch vụ công:
Nhóm thứ nhất: người sử dụng dịch vụ (bệnh nhân, học sinh, hành khách xe buýt…)
Nhóm thứ hai: Các nhà cung ứng dịch vụ trực tiếp (trường học, bệnh viện, công ty xe buýt…).
Nhóm thứ ba: các nhà hoạch định chính sách về giáo dục, y tế, giao thông công cộng…
Mối quan hệ giữa ba nhóm tác nhân nói trên trong quá trình cung ứng dịch vụ hướng vào thực hiện mục tiêu của Chính phủ về cung ứng dịch vụ công là bảo đảm tính công bằng và hiệu quả.
Mối quan hệ giữa ba nhóm tác nhân nói trên thể hiện trong sơ đồ 11.1.

1.4.Vai trò của Nhà nước đối với việc bảo đảm cung ứng dịch vụ công cho xã hội

1.4.1. Sự cần thiết can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế
1.4.2. Mục tiêu can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế

Thứ nhất, bảo đảm hiệu quả kinh tế.
Thứ hai, bảo đảm công bằng xã hội
1.4.3. Các cách thức can thiệp của Nhà nước trong cung ứng dịch vụ công
-Trực tiếp tổ chức thực hiện một số dịch vụ công
- Gián tiếp tác động vào việc cung ứng các dịch vụ công do khu vực tư cung ứng
Tất cả những hoạt động cung ứng dịch vụ công nói trên, dù được tiến hành dưới hình thức nào thì Nhà nước cũng là người chịu trách nhiệm trước xã hội về việc cung ứng chúng. Vì vậy, khác với các dịch vụ tư do tư nhân trực tiếp cung ứng và thu lời, các dịch vụ công chịu tác động quan trọng của Nhà nước trong việc thực thi, phân phối, giá cả, chất lượng…

II.CÁC NỘI DUNG TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG CỦA NHÀ NƯỚC


2.1. Xây dựng chiến lược và các chính sách, cơ chế về cung ứng dịch vụ công

2.2.Quản lý chi tiêu công hướng vào dịch vụ công cho đa số nhân dân

2.3.Phân cấp quản lý trong cung ứng dịch vụ công

2.4. Thực hiện chỉ đạo, điều hành, kiểm tra và giám sát hoạt động cung ứng dịch vụ công nhằm bảo đảm các mục tiêu của Nhà nước

2.5.Tạo lập môi trường để tăng cường tiếng nói của người dân đối với các chính sách của Nhà nước

2.6.Ban hành các cơ chế khuyến khích các nhà cung ứng cải thiện dịch vụ công

2.7. Tăng cường sự phản hồi của khách hàng đối với nhà cung ứng

2.8. Xã hội hoá các dịch vụ công

Có thể hiểu xã hội hóa là quá trình huy động, tổ chức ự tham gia rộng rãi, chủ động của nhân dân và các tổ chức vào hoạt động cung ứng dịch vụ công trên cơ sở phát huy tính sáng tạo và khả năng đóng góp của mỗi người.

Xã hội hóa dịch vụ công bao gồm những nội dung cơ bản như sau:
 Một là, chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư. Đối với các dịch vụ công mà Nhà nước không cần can thiệp hoặc can thiệp không có hiệu quả thì Nhà nước có thể chuyển giao nhiệm vụ này cho khu vực tư, tức là cho phép các tổ chức trong khu vực tư tham gia vào việc cung ứng các dịch vụ công này.
Hai là, huy động sự đóng góp của các tổ chức và công dân. Việc huy động sự đóng góp của các tổ chức và công dân được thực hiện với hai phương thức cơ bản:
Huy động kinh phí đóng góp của dân vào việc cung ứng dịch vụ công của các tổ chức nhà nước.
Động viên, tổ chức sự tham gia rộng rãi, chủ động và tích cực của các tổ chức và công dân vào quá trình cung ứng dịch vụ công, đa dạng hóa các hoạt động cung ứng dịch vụ công trên cơ sở phát huy công sức và trí tuệ của dân. Chẳng hạn, huy động chất xám, năng lực quản lý, công sức của người dân vào các hoạt động cung ứng dịch vụ công.

Xã hội hóa dịch vụ công có những tác động tích cực như sau:
Việc chuyển giao một số dịch vụ công cho các tổ chức ngoài nhà nước sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh giữa các tổ chức này và tạo cơ hội cho người tiêu dùng lựa chọn và sử dụng những dịch vụ tốt nhất.
Việc xã hội hóa các dịch vụ công tạo điều kiện cho mọi người tham gia tích cực vào các hoạt động này, phát huy được khả năng và năng lực tiềm tàng trong xã hội, khơi dậy tính sáng tạo và chủ động tích cực của người dân, nhờ đó đa dạng hóa và tăng nguồn cung ứng các dịch vụ công cho xã hội.
Xã hội hóa dịch vụ công còn bao hàm ý nghĩa động viên sự đóng góp kinh phí của mỗi người cho hoạt động cung ứng dịch vụ công của Nhà nước (dưới hình thức thu phí), nhờ đó làm giảm bớt gánh nặng của ngân sách nhà nước trong điều kiện ngân sách nhà nước ta còn hạn hẹp.
Xã hội hóa dịch vụ công trong điều kiện phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng cùng với sự phát triển cơ chế thị trường là một giải pháp cần thiết để góp phần tạo ra sự công bằng tương đối trong tiêu dùng các dịch vụ công. Điều đó có nghĩa là những ai tiêu dùng nhiều dịch vụ công thì phải trả tiền nhiều hơn. Riêng trong trường hợp cung cấp các dịch vụ tối cần thiết cho những người thuộc diện khó khăn, nghèo đói hoặc là đối tượng chính sách, Nhà nước cần có những quy định ưu đãi hoặc hỗ trợ phù hợp để bảo đảm sự công bằng xã hội, giảm bớt sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, quá trình xã hội hóa nếu không được quản lý phù hợp cũng dễ nảy sinh các mặt tiêu cực, chẳng hạn như việc các tổ chức tư nhân tăng phí dịch vụ, không bảo đảm chất lượng dịch vụ …
Điều cần lưu ý ở đây là: tất cả những hoạt động cung ứng dịch vụ công dù được tiến hành dưới hình thưc nào thì Nhà nước vẫn là người chịu trách nhiệm trước xã hội về việc bảo đảm cung ứng chúng. Nhà nước có trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức, điều hành, kiểm tra, giám sát đối với việc cung ứng các dịch vụ này nhằm bảo đảm đáp ứng ở mức cao nhất nhu cầu của nhân dân.

2.9. Hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo để tăng khả năng tiếp cận của họ đến các dịch vụ công


III.ĐỊNH HƯỚNG CẢI CÁCH DỊCH VỤ CÔNG


3.1.Cải cách dịch vụ hành chính

3.2.Cải cách dịch vụ sự nghiệp

3.3.Cải cách dịch vụ công ích


Lưu ý:
-         Đánh giá 1 số loại hình dịch vụ công (giáo dục, y tế, công chứng,…)
-         Liên hệ thực tế
-         Tự đánh số đề mục theo ý



[1] Điều 4, Luật Cán bộ, công chức 13/11/2008, có hiệu lực 01/01/2010
1 Từ điển Petit Larousse 1992, tr.892.
2 Từ điển Oxford, 2000, tr.1024.
3 Viện nghiên cứu khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ: Dịch vụ công - đổi mới quản lý và cung ứng ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, 2007, tr. 49.
4 Viện nghiên cứu quản lý kính tế trung ương, TS.Đinh Văn Ân, Hoàng Thu Hoà: Đổi mới cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam, NXB Thống Kê, 2006, tr.12.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét