CHƯƠNG 1. XÃ HỘI HỌC VỚI TƯ
CÁCH LÀ MỘT KHOA HỌC
I.
Xã hội học là gì? Các tiền đề cho sự ra đời của xã hội
học
I.1. Xã hội học là gì?
Thuật ngữ “xã hội học” (Sociology)
được nhà xh học nguời Pháp – A.Comte (1798 – 1857) sử dụng lần đầu tiên vào năm
1838, được ghép từ hai chữ có nguồn gốc khác nhau:
+ “Socius” trong tiếng La-tinh: Xã
hội.
+ “Logos” trong tiếng Hy Lạp: Học
thuyết.
A.Comte đã ghép hai chữ này để cho ra
đời thuật ngữ “Sociology” – Xã hội học (bộ môn nghiên cứu xã hội) mà ngày nay
chúng ta sử dụng.
Ngay từ khi mới hình thành đã có rất
nhiều định nghĩa khác nhau về xã hội học, chính vì sự ra đời không đồng nhất
của bộ môn xã hội học nên khó lòng có được sự thống nhất trong định nghĩa về
nó:
+ Định nghĩa của A.Comte: Khoa học xã
hội học là tìm hiểu các quy luật xã hội giống như các quy luật vật lý cho phép
tìm ra hệ quả của sự liên kết những hiện tượng xh.
+ Theo E.Durkheim: Xã hội học là khoa
học nghiên cứu về những sự kiện xh.
+ Theo M. Weber: Xã hội học là khoa
học nghiên cứu các hành động xã hội.
+ Theo Osipov, xã hội học là khoa học
về các quy luật và tính quy luật xã hội chung và đặc thù của sự phát triển và
vận hành của các hệ thống xã hội xác định về mặt lịch sử, là khoa học về các cơ
chế tác động và các hình thức biểu hiện của các quy luật đó trong hoạt động của
các cá nhân, các nhóm xã hội, các giai cấp và các dân tộc.
Phân biệt khái niệm xã hội học và xã
hội:
-
Xã hội được hiểu là hệ thống các hoạt động và quan hệ của con
người, của một cộng đồng người cùng cư trú trên một lãnh thổ (vùng, quốc gia) ở
trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Do đó, xã hội là khái
niệm mang tính lsử.

công bằng trong xét xử.
vd:
Việt Nam
là một nước, một quốc gia độc lập.
Tuy có những hướng nghiên cứu khác
nhau, nhưng nhìn chung các nhà xã hội học thống nhất với nhau ở một điểm: Xã
hội học là một ngành khoa học nghiên cứu một cách hệ thống các nhóm người. Nó
tập trung nghiên cứu các mối quan hệ hỗ tương và hành vi chung của các nhóm
người.
I.2.
Đối tượng nghiên cứu của xã hội học
- Xã hội học nghiên cứu về xã hội loài
người, trong đó các mối quan hệ, tương quan xã hội được biểu hiện thông qua các
hành vi xã hội giữa người với người hay giữa các nhóm người.
+ Quan hệ và mối tương quan giữa cá
nhân và cộng đồng.
+ Hành vi xã hội của con người.
+ Hệ thống cấu trúc xã hội mang tính
chuẩn mực
+ Phát hiện ra các quy luật chung nhất
của các hiện tượng, mối quan hệ.
- Thông qua việc nghiên cứu các mối
quan hệ ở trên mà người ta có thể tìm ra logic, cơ chế vận hành, phát hiện ra
tính quy luật của các hình thái vận động và phát triển của xh.
Vd:
Sự sẵn sàng giúp đỡ mọi người.
Tình đoàn kết tương thân,
tương ái trong hoàn cảnh khó khăn
Lá lành đùm lá rách
Kính trên, nhường dưới
Tôn sư trọng đạo
=> Những phản ứng trên của con
người Việt Nam
đã thành những thói quen. Những phản ứng được lặp đi, lặp lại của con người đối
với nhau trong xã hội hầu như ổn định, ít thay đổi và dường như tuân thủ những
khuôn mẫu tiêu biểu và tính tiêu chuẩn hóa cao.
Vd: Người Việt Nam có tính cần cù, siêng năng và
điều đó tác động đến các nhà đầu tư ngày càng nhiều.
=> Truyền thống yêu nước đã có từ
lâu đời đã giúp chúng ta chiến thắng những kẻ thùng hùng mạnh nhất ở mỗi thời
đại khác nhau.
- Tính phổ quát trong các công trình
xã hội học là các hành vi mang tính xã hội của con người. Ở các nhóm có xu
hướng các cá nhân sẽ đưa ra các phản ứng giống nhau trong các tình huống ứng
xử. Câu hỏi đặt ra phải chăng trong đời sống xã hội chúng ta việc ứng xử, giao
tiếp thường tuân theo những khuôn khổ, khuôn mẫu nhất định?
Một vấn đề nữa mà xã hội học quan tâm
là nghiên cứu hệ thống xã hội, nghiên cứu mối quan hệ tương tác giữa các nhóm
xã hội và cộng đồng xã hội diễn ra như thế nào? Thông qua đó mà có thể thấy
được cấu trúc xã hội, mối liên hệ bên trong của nó, thấy được sự vật, hiện
tượng tác động lẫn nhau như thế nào? Nó được định hình dưới dạng các thiết chế
xã hội nào và nó được hoạt động theo hệ thống giá trị chuẩn mực nào?
Vd: Ở các nước hồi giáo người
đàn ông được lấy 4 vợ và nó được nhà nước và pháp luật thừa nhận.
Nhiệm vụ của các nhà xã hội học là
phát hiện ra tính quy luật của quá trình hoạt động của cơ cấu xã hội được biểu
hiện thông qua các thiết chế xã hội và tác động của chúng trở lại đối với cuộc
sống của con người.
Vd: hiện nay ở Việt Nam
các tư tưởng phong kiến vẫn tồn tại trong bộ phận người dân, và nó bị các ảnh
hưởng văn hóa, xã hội, tôn giáo, lễ nghi tác động vào.
Xã hội học nghiên cứu hệ thống cấu
trúc xã hội có tính chất giá trị, chuẩn mực quy định hoạt động của hệ thống xã
hội, để sau khi điều tra nghiên cứu thì có thể cải thiện được vấn đề, đưa ra
được những giải pháp, hướng đến mang lại kết quả cho mọi người trong xã hội có
điều kiện bình đẳng trong phát triển.
Nghiên cứu các nhóm cộng đồng xã hội,
mối quan hệ của nó với cá nhân và cộng đồng để phát hiện ra những bản sắc đặc
thù trong hành vi của cá nhân, của nhóm cộng đồng (tính chuẩn mực).
I.3.
Những tiền đề của sự ra đời xã hội học
I.3.1. Sự ra đời của xã hội học là nhu cầu
khách quan
Ngay từ thời cổ đại những vấn đề lớn
của cá nhân và xã hội đã ảnh hưởng đến các nhà triết học.
Từ thế kỷ XVIII ở Tây Âu, cách mạng
khoa học kỹ thuật đã bắt đầu, mục đích của quá trình này là tăng năng suất để
phục vụ cho đời sống của con người và các vấn đề xã hội đã được các nhà khoa
học quan tâm, đặc biệt là triết học.
Các nhà triết học, chính trị học trước
Marx đã cố gắng đưa ra các phương pháp phù hợp ứng dụng vào nghiên cứu xh, nhưng
tất cả đều bị chủ nghĩa duy tâm chủ quan chi phối.
Đến thời kỳ của Marx, ông đưa ra các
phương pháp phù hợp vào trong nghiên cứu xã hội, lúc này xã hội học mang tính
khoa học hơn.
Sự phát triển của công nghệ đã hình
thành nên các đô thị, tạo ra các làn sóng di cư ồ ạt từ nông thôn vào trong các
thành thị. Sự tập trung đông đúc của dân cư đã gây ra sự va chạm, con người
sống với nhau, tương tác với nhau nhiều hơn. Hậu quả là các vấn đề xã hội nảy sinh
một cách gay gắt, nó phá vỡ truyền thống của các dân tộc, ảnh hưởng trực tiếp
đến các tập tục và thói quen, làm xuất hiện: nghèo đói, thất nghiệp, tệ nạn xã
hội,… đây là các yếu tố hoàn toàn khách quan.
Trong xã hội truyền thống thì xã hội
học khó có thể ra đời, vì vậy khi xã hội phát triển ở một cấp độ cao hơn hay
còn gọi là xã hội công nghiệp đã là một động lực mạnh mẽ cho sự ra đời của xã
hội học. Trong xu thế mới mẻ này Auguste Comte (1798 – 1857) với những cống
hiến của mình được xem là “nhà sáng lập” ra xã hội học.
Về sau xã hội học tiếp tục phát triển
nhưng cũng trãi qua nhiều bước thăng trầm song dần dần nó đã khẳng định được
mình và xâm nhập vào Pháp, Đức, Anh,…
Các công trình ngcứu xh học đầu tiên
ra đời ở Pháp, Đức cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX với những tác giả: E.
Durkheim (Pháp), Karl Marx (Đức), Max Weber (Đức),…
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn rất
nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau trong từng trường phái xã hội học, do đó,
ngay trong các hệ thống vẫn tồn tại các khái niệm, các giả định, các hướng phát
triển lý thuyết khác nhau. Ở Châu Âu các nghiên cứu thiên về vĩ mô; trong khi
đó ở Mỹ các ngcứu tập trung ở cấp độ vi mô, nghiên cứu trên các nhóm người.
I.3.2. Những điều kiện, tiền đề của sự ra
đời khoa học xã hội học
a,
Điều kiện phát triển kinh tế
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
thì chủ nghĩa tư bản phát triển một cách đột biến ở Châu Âu và Mỹ. Nền kinh tế
- xã hội ở Châu Âu và Mỹ đã có những bước tiến mạnh mẽ hệ quả là nó đưa đến một
sự thay đổi mạnh mẽ ở các quốc gia này đặc biệt nổi lên là các vấn đề của kinh
tế - xã hội.
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
đã tạo ra một bước đột phá mạnh mẽ về sản xuất của cải vật chất (sau 100 năm
tồn tại chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một lượng vật chất bằng lượng vật chất con
người tạo ra từ lúc con người xuất hiện). Chính điều này đã giúp giai cấp tư
sản đánh bật tầng lớp phong kiến, quý tộc ra khỏi ngai vàng thống trị xã hội.
Sự phát triển đó đã lảm thay đổi mạnh
mẽ mọi lĩnh vực của đời sống con người.
+ Lao động công nghiệp, cơ khí hóa
trong các phân xưởng thay cho lao động thủ công, làm thay đổi nền sản xuất cổ
truyền. Lối sống đô thị theo phong cách công nghiệp đã đẩy lùi ảnh hưởng của
lối sống điền dã, tản mạn, manh mún kiểu nông nghiệp – nông thôn. (ngày nay với
sự ra đời của các robot điện tử đã đưa khâu sx gần như tự động hoàn toàn)
+ Hiện tượng dân cư tập trung chen
chúc ở các đô thị làm nảy sinh các vấn đề về dân số, về môi trường và bệnh tật,
nạn thất nghiệp, sự xuất hiện của các loại tệ nạn xã hội… Nhu cầu phải nghiên
cứu kỹ càng, nghiêm túc để lý giải và tìm cách giải quyết các vấn đề trên ngày
càng trở nên mạnh mẽ và bức thiết.
+ Ngay từ thời Phục Hưng các quyền về
con người và vai trò của cá nhân đã được xác lập và khẳng định nhất là việc đề
cao vai trò của cá nhân, của con người.
+ Sự phát triển mạnh mẽ của đời sống
kinh tế - xã hội đã tạo tiền đề cho sự khẳng định vị thế, vai trò của cá nhân
trong đời sống xã hội.
Xã hội tư bản được hình thành đã cũng
cố điều kiện và đề ra những yêu cầu mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
+ Xã hội tư bản đòi hỏi sự tự do của
cá nhân phải được đặt trong khuôn mẫu, trong thiết chế xã hội và sự tuân thủ
pháp luật. (ngày nay tính tự do trong xã hội tư bản đã nâng lên mức cao gọi là
sự tự giác về tự do và chấp hành nghiêm pháp luật.)
+ Vai trò của cá nhân trong các tương
quan xã hội đặt ra cho xã hội học những vấn đề cụ thể, bức thiết.
+ So với giai đoạn trước sự giao lưu
quốc tế, quan hệ thương mại, quan hệ thực dân đã tạo ra cơ hội, tiền đề cho sự
tiếp xúc, làm ăn, buôn bán với nhiều xã hội, nhiều nền văn hóa, nhiều lối sống
khác lạ.
Xã hội Tây Âu có nhiều điểm khác xa
với xã hội Châu Á, Châu Mỹ, Châu Phi về kinh tế, các quan hệ chính trị xã hội
về cá nhân trong đời sống.
à Từ những tiền đề kinh tế - xã hội và sự phát triển xã hội kể
trên đã đặt ra yêu cầu phải nhanh chóng nghiên cứu, phát hiện, tìm kiếm các quy
luật, xu thế phát triển của xã hội và con người, góp phần định hướng cho sự
phát triển của xã hội tương lai.
b,
Những tiền đề về tư tưởng, lý luận khoa học
Xã hội học cũng giống như bất kỳ một
khoa học nào khác, sẽ không thể nào phát triển được nếu chỉ xuất phát, căn cứ
vào các nhu cầu thực tiễn mà thiếu những tiền đề lý thuyết, cơ sở khoa học nhất
định.
Tiền đề lý luận và PP luận làm nảy sinh
XHH bắt nguồn từ những tư tưởng KH và VH thời đại Phục Hưng, khoa học của thế
kỷ “Khai sáng”, TK 18. Các nhà tư tưởng ở Anh thường cổ vũ và bênh vực cho
quyền con người nhằm biện minh cho CNTB CN lần đầu tiên xuất hiện ở nước này.
Tại Pháp, cái nôi của XHH – thời kỳ Phục hưng được gọi là thời đại duy lý với
tư tưởng và học thuyết của các nhà triết học nổi tiếng như Voltaire, Rousseau,
Condorcet, Diderot,… các nhà triết học Pháp cho rằng con người và XH chủ yếu bị
chi phối bởi điều kiện và hoàn cảnh XH của họ, rằng con người có những “quyền tự nhiên” nhất định mà các thiết
chế XH đang vi phạm những quyền đó.
Sự phát triển mạnh mẽ của KH và đặc biệt
là PP luận NCKH cũng là nhân tố quan trọng cho sự ra đời của XHH. Các cuộc CMKH
diễn ra ở TK 16, 17 và đặc biệt là TK 18 đã làm thay đổi căn bản thế giới quan
và PP luận KH.
Trong giai đoạn này khoa học đi sâu
nghiên cứu mặt xã hội đời sống con người – một thực thể sinh động và rất phức
tạp là cơ sở tiền đề cho quá trình hình thành lý luận trong quá trình nghiên
cứu của xã hội học.
A. Comte đã kế thừa nhiều thành tựu để
xác lập khoa học xã hội học, ông cố gắng làm rõ, phân biệt đối tượng, phương
pháp nghiên cứu, hình thành nội dung và cấu trúc của xã hội học với tư cách là
một khoa học độc lập so với các khoa học khác trong hệ thống khoa học xã hội.
+ Comte đã cố gắng vận dụng kết quả
của khoa học tự nhiên, các khoa học về con người, kể cả một số phương pháp của
khoa học kỹ thuật vào trong quá trình nghiên cứu xã hội học để đạt hiệu quả cao
hơn trong quá trình ngcứu (các bộ môn khoa học liên ngành).
+ Trong các phương pháp được Comte sử
dụng thì phương pháp hệ thống – cấu trúc vốn có về vật chất đã được mô phỏng,
chọn lọc áp dụng và việc nghiên cứu xã hội và tương quan của cá nhân và đời
sống xã hội hay là hành vi của con người.
Vd: Sự xuất hiện của thuyết tiến hóa
trong sinh vật học đã cung cấp các quan điểm phương pháp luận trong các nghiên
cứu xã hội học. Các nhà xã hội học như A. Comte, K. Marx trong các công trình
nghiên cứu của mình đều có quan điểm xem xã hội cũng giống như sinh vật, cũng
có quá trình hình thành – vận động – phát triển - tiêu vong.
- Còn E. Durkheim trong tác phẩm nổi
tiếng “Các quy tắc của phương pháp xã hội học” xem xã hội cũng là một cơ thể
sống, có cấu trúc và vận hành theo quy luật riêng và theo một cơ chế hết sức
phức tạp.
Trong rất nhiều công trình nghiên cứu
xã hội học từ trước đến nay người ta đã áp dụng rất nhiều phương pháp nghiên
cứu của các khoa học khác nhau (toán học, lịch sử, triết học,…) đặc biệt là các
phương pháp định lượng trong các khoa học tự nhiên để đo đạc, tìm hiểu, lượng
giá các vấn đề xã hội, góp phần làm tăng thêm độ chính xác, tin cậy, tường
minh, tính khoa học trong các nghiên cứu xã hội học (phổ biến hiện nay có một
số phần mền chuyên chụng như SPSS, SATA, EXCEL,… được sử dụng trong nghiên cứu
xhh).
Ngày nay, xã hội học ngày càng cố gắng
nâng cao tính chất khoa học của mình qua việc thu thập số liệu, thực hành, quan
sát, phân tích cứ liệu, xử lý thông tin, mô tả, biểu diễn tổng quát và việc áp
dụng những phương pháp, kỹ thuật, thủ thuật nghiên cứu của nhiều khoa học có
liên quan (tính liên ngành giữa các khoa học)
- Nhờ các tiền đề lý thuyết phong phú,
vững chắc với quá trình nghiên cứu bám sát thực tế đời sống trong các công
trình nghiên cứu của mình mà xã hội học đã thực đảm bảo các điều kiện sau đây:
+ Dựa trên các bằng chứng hiển nhiên,
có đủ điều kiện kiểm tra, kiểm chứng, không được cực đoan trong nghiên cứu.
+ Thực tiễn xã hội luôn luôn vận động,
biến đổi và phát triển, do đó trong quá trình nghiên cứu xã hội học phải đảm
bảo tính chính xác, trung thực của đối tượng. Sự thật khoa học chỉ được chấp
nhận khi vấn đề đã được xem xét lật đi, lật lại; nghiên cứu vấn đề với nhiều
phương pháp, kiểm chứng, thử nghiệm bằng các cách thức khác nhau.
+ Trong xã hội học có thể lập luận
chứng minh, trả lời câu hỏi nào đó đặt ra bằng những kiến thức mới mẻ. Nhưng
giá trị của các phát hiện, các lý thuyết mới ấy cần được đánh giá sau khi đã
được vận dụng vào đời sống (không xuất phát từ ý chí chủ quan, thái độ định
kiến của người nghiên cứu, nếu không sẽ dễ dẫn đến sai lầm trong nghiên cứu).
+ Phải đảm bảo tính khách quan trong
quá trình nghiên cứu, không thiên vị, không thành kiến cho nên phải tiêu chuẩn
hóa các tiêu chí đánh giá, khảo sát, kiểm tra càng tỉ mỉ càng tốt, từ việc đơn
giản cho đến việc tập hợp, xử lý, đánh giá vấn đề.
+ Nhà nghiên cứu phải vận dụng đúng
phương pháp nghiên cứu, đảm bảo các điều kiện nghiên cứu, đặc biệt phải có phẩm
chất, năng lực phù hợp với yêu cầu của hoạt động.
Tóm lại, sự phát triển nhanh chóng
của xã hội Tây Âu cho đến thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã đòi hỏi sự xuất hiện
của khoa học chuyên nghiên cứu về sự vận động và phát triển của xã hội. Ngày
nay xã hội học đã được áp dụng vào tất cả các mặt của đời sống xã hội, có những
đóng góp đáng kể vào sự phát triển của các ngành khoa học khác, ngày càng trở
thành một khoa học có cách tiếp cận xã hội “đa diện” có giá trị cao cả về ý
nghĩa lý luận cũng như là trong thực tiễn đời sống xã hội.
II.
Chức năng, nhiệm vụ của xã hội học
II.1. Chức năng của xã hội học
II.1.1. Chức năng nhận thức
Được thực hiện trong một số mặt cơ bản
sau.
- Trang bị cho người học hệ thống tri
thức khoa học về sự phát triển của xã hội, quy luật của sự phát triển ấy, đồng
thời vạch ra được cơ chế của sự phát triển đó.
- Thông qua việc vạch ra những quy
luật khách quan của các quá trình phát triển của các hiện tượng và quá trình xã
hội mà tạo nên những tiền đề để nhận thức về những triển vọng nhằm phát triển
hơn nữa đời sống xã hội cũng như các mặt, các khía cạnh riêng biệt của nó.
- Thông qua nghiên cứu các nhà xã hội
học xác định được nhu cầu phát triển của xã hội, của các giai cấp, các cộng
đồng biểu lộ qua các hành động của con người, góp phần xác định các hình thức
cụ thể nhằm đạt được nhu cầu, sự kết hợp được lợi ích của tập thể, cộng đồng.
- Chức năng nhận thức của xã hội học
được thể hiện qua chức năng phương pháp luận của nó.
Ý nghĩa phương pháp luận của xã hội
học thể hiện ở chỗ.
+ Nó là những thông tin khoa học loại
trừ các thông tin không đóng vai trò quyết định trong quá trình nghiên.
+ Nó đóng vai trò là những nguyên lý
và những chuẩn mực trong quá trình ngcứu.
+ Mọi hoạt động của con người đều được
thực hiện trên cơ sở những nguyên lý cụ thể, chứa đựng những vấn đề mang tính
chung, tính quy luật rút ra từ những kinh nghiệm của quá khứ và hiện tại à có vậy mới thuyết phục được các nhà lãnh đạo, quản lý xã
hội. Nếu làm không tốt sẽ gây ra các ảnh hưởng không tốt đến kinh tế - xã hội,
hiệu quả công việc không cao.
Vd: Vấn đề đi lại, giao thông ở Việt Nam à liên quan nhiều đến hành vi của con người, phải tiến hành
điều tra để tìm ra các nguyên nhân để giải quyết.
Theo điều tra:
* Đa số người được hỏi (có bằng) không
thuộc luật.
* Truyền thống đi tắt đón đầu.
* Phương pháp học và thi bằng lái xe
còn nhiều vấn đề chưa phù hợp với thực tế.
* Các thói quen không tốt trong đi lại
đã ăn sâu vào cuộc sống của mọi người dân.
+ Trong hoạt động thực tế những nguyên
lý này thể hiện trong các chuẩn mực, các quy tắc trong các hoạt động khoa học,
các chức năng trên được thực hiện bằng các phương pháp nhận thức.
- Ý nghĩa thực tiễn của các phương pháp
xã hội học thực nghiệm cho phép khảo nghiệm tính đúng đắn, xác thực của các mô
hình, các quyết sách trong công tác quản lý xã hội trên cơ sở lý luận và thực
tiễn.
II.1.2. Chức năng thực tiễn
- Chức năng thực tiễn của xã hội học gắn liền với chức năng
nhận thức à nhận thức bản chất của các hiện tượng,
sự việc à
tìm ra quy luật vận động à xuất phát bắt nguồn từ bản chất khoa
học.
- Trên cơ sở phân tích những thực trạng xã hội và những
mặt, những quá trình riêng lẻ của sự vận động, phát triển của xã hội, xã hội
học sẽ làm rõ những bước phát triển tiếp theo của xã hội trong tương lai gần
cũng như xa à các nhà xã hội học phân tích các thông
tin à
tìm ra hiện tượng xã hội vận động từ riêng đến chung hướng đến tìm ra quy luật
của sự vận động đó, dự báo được tương lai.
Vd: TP HCM đưa ra mô hình cai nghiện 5 năm: mục tiêu là
phải tạo ra được công ăn việc làm để người nghiện không bị tái nghiện à sau động thái này thì
người ta sẽ phải tiến hành hàng loạt động thái khác như xây dựng các khu công
nghiệp, cho vay vốn à giúp đỡ tạo điều kiện cho họ tái hòa
nhập với cộng đồng.
- Khi đã nghiên cứu được thực trạng của các quan hệ xã hội,
người ta kiểm soát được các quan hệ này và điều hòa nó phù hợp với sự tiến bộ
của xã hội.
- Việc dự báo trên cơ sở nắm bắt chính xác các quy luật và
xu hướng phát triển của xã hội là tiền đề, là điều kiện để kế hoạch hóa và quản
lý xã hội một cách khoa học.
- Chức năng thực tiễn của xã hội học không tách rời các
kiến nghị, đề xuất được đề ra để đáp ứng cho nhu cầu quản lý xã hội. à cũng cố mối quan hệ
giữa khoa học và đời sống thực tế, phát huy được tác dụng của xã hội học đối
với công tác quản lý xã hội.
- Từ các yếu tố trên ta thấy vai trò của xã hội học đối với
quản lý xã hội:
+ Do tính đặc thù của xã hội học và do vai trò của nó đối
với công tác quản lý xã hội.
+ Quản lý xã hội là hoạt động của con người gắn với sự đặt
ra các quyết sách có tính quyết định đến ứng xử của mỗi các nhân, của xã hội à trong công việc quản lý
xã hội các nhà lập pháp, hành pháp thể hiện chức năng mình là người quản lý xã
hội. Chỉ có trên thực tiễn các nhà xã hội học mới giúp đỡ được cho các nhà quản
lý xã hội.
Tất cả các hành động có ý thức, có mục đích của từng cá
nhân và cộng đồng cho thấy rằng: mọi người hành động có ý thức và giống nhau
thì chứng tỏ đó là xã hội phát triển; ngược lại mọi người hành động chưa có ý
thức hoặc ý thức không đồng đều thì chứng tỏ xã hội chưa phát triển.
- Các thể chế xã hội thay đổi hoặc duy trì tình trạng của
chúng thông qua cơ chế điều chỉnh ý thức, hành vi bằng các thể chế điều đó sẽ
giúp cho các xã hội ổn định được trật tự xã hội.
- Chức năng quản lý xã hội nó còn thể hiện ở việc dự báo,
dựa trên sự kết hợp giữa cơ sở lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu xã hội học
mà người ta có thể điều chỉnh, ngăn chặn để xã hội phát triển theo hướng tiến
bộ. Phải đi thực tế, nghiên cứu, điều tra, thống kê, phân tích để đưa ra được
các giải pháp tốt nhất.
Trên cơ sở đánh giá xã hội, xã hội học mới tự nâng cao tính
chính xác và khoa học của mình.
II.1.3.
Chức năng tư tưởng
- Mang
tính giáo dục và định hướng xã hội.
- Phát
huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế
thị trường.
- Để
thực hiện tốt chức năng tư tưởng các nhà xã hội học chân chính luôn luôn mang
tính khách quan, khoa học trong quá trình nghiên cứu à các nhà quản lý sử dụng kết quả nghiên cứu của nhà xã hội
học các quyết sách. Nếu nghiên cứu đúng sẽ cho ra các quyết sách đúng, nếu kết
quả nghiên cứu sai có thể dẫn đến sự sai lầm của các quyết sách, ảnh hưởng đến
toàn xã hội trên nhiều mặt.
- Nhà
xã hội học không đứng bên lề xã hội, họ nghiên cứu khoa học của mình với mục
đích, lý tưởng xã hội mà toàn xã hội đang phấn đấu thực hiện à nhà xã hội học phải hòa mình vào cuộc sống từ đó tìm ra
nguyên nhân để đưa ra được các kết luận đúng.
II.2. Nhiệm vụ của xã hội học
Xã hội
học có ba nhiệm vụ chính là nghiên cứu lý luận, nghiên cứu thực nghiệm và
nghiên cứu ứng dụng. Các nhiệm vụ khác nhau của xã hội học xét cho cùng là thực
hiện các chức năng của xã hội học.
a, Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận.
Nhiệm
vụ hàng đầu của xã hội học là xây dựng, phát triển hệ thống các khái niệm, phạm
trù, lý thuyết khoa học riêng mang tính đặc thù của khoa học xã hội học. Trong
bối cảnh là một ngành khoa học còn non trẻ trong hệ thống các khoa học xã hội
việc nghiên cứu lý luận được coi là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của khoa học xã
hội học, quá trình nghiên cứu này sẽ giúp xã hội học định hình là một ngành
khoa học độc lập, có những hệ thống các khái niệm, các phạm trù riêng cho mình.
Ngày
nay trong quá trình củng cố, tìm tòi các phạm trù, khái niệm đặc thù cho khoa
học của mình xã hội học cần hướng đến hình thành và phát triển hệ thống lý
luận, phương pháp luận nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu một cách cơ bản, hệ
thống về những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm đáp ứng các nhu cầu phát triển
kinh tế, xã hội của đất nước.
b, Nhiệm vụ nghiên cứu thực nghiệm.
Đây là
một nhiệm vụ quan trọng của xã hội học với tư cách là một khoa học. Xã hội học
tiến hành nghiên cứu thực nghiệm để:
- Kiểm
nghiệm, chứng minh giả thuyết khoa học.
- Phát
hiện thực tiễn và vấn đề mới làm cơ sở cho việc sửa đổi, phát triển và hoàn
thiện khái niệm, lý thuyết và phương pháp luận nghiên cứu.
- Kích
thích và hình thành tư duy xã hội học.
Ngoài
ra, nghiên cứu thực nghiệm xã hội học hướng tới vạch ra cơ chế, điều kiện hoạt
động và hình thức biểu hiện của các quy luật xã hội, làm cơ sở cho việc đưa tri
thức khoa học vào đời sống. Nghiên cứu thực nghiệm được coi là chiếc cầu nối
giữa lý luận và thực tiễn, khi thực hiện nhiệm vụ này thì trình độ lý luận và
khả năng nghiên cứu của nhà xã hội học cũng được nâng lên.
c, Nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng.
Xã hội
học còn có nhiệm vụ nghiên cứu để đưa tri thức khoa học ứng dụng vào giải quyết
các vấn đề thực tiễn của xã hội, việc nghiên cứu ứng dụng giúp cho việc thu hẹp
khoảng cách giữa tri thức khoa học mang tính lý luận và sự sinh động, đa dạng,
nhiều chiều cạnh của đời sống xã hội.
Cùng
với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta, xã hội học đã và
đang tiếp tục có những đóng góp tích cực cho việc làm sáng tỏ những vấn đề mới
nảy sinh và góp phần đề ra các giải pháp thực tiễn có tính khả thi cao. Trong
điều kiện tình hình kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, xã hội học cần tập trung
nghiên cứu, làm rõ các vấn đề sau:[1]
1) “Chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của Việt Nam ”.
2) Sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3) Biến
đổi các giai cấp và tầng lớp xã hội.
4) Các
chính sách đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội.
5) Xây
dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
6) Tăng
cường vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
7) Xây
dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
8) Phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa,…
III. Mối quan hệ giữa xã hội học với các
khoa học khác
- Xã hội học có tính độc lập của nó
trong mối quan hệ với các khoa học khác.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng
lịch sử là cơ sở chung cho xã hội học và phương pháp luận để nghiên cứu xã hội
học đại cương và xã hội học chuyên ngành.
1. Quan hệ giữa xã hội học và triết học
Triết học là khoa học nghiên cứu quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội
và tư duy. Quan hệ giữa xã hội học với triết học là quan hệ giữa khoa học cụ
thể với thế giới quan khoa học. Triết học Mác - Lênin là nền tảng thế giới
quan, là cơ sở phương pháp luận nghiên cứu của xã hội học Mácxít. Các nhà xã
hội học Mácxít vận dụng CNDV lịch sử và phép biện chứng duy vật làm công cụ lý
luận sắc bén để nghiên cứu và cải thiện mối quan hệ giữa con người và xã hội.
Trong quan hệ với triết học, các nhà xã hội học tránh hai quan niệm cản
trở sự phát triển xã hội học. Quan niệm
thứ nhất, cho rằng xã hội học ngày nay "không phải như là một khoa học
riêng lẻ đã hình thành" mà như là một bộ phận của triết học. Quan niệm này
đã đồng nhất nghiên cứu lý luận xã hội học đại cương với chủ nghĩa duy vật lịch
sử trong việc giải thích đời sống xã hội. Một số tác giả trước đây đã coi các
nghiên cứu xã hội học cụ thể là sản phẩm của "chủ nghĩa thực chứng sơ
khai", là biểu hiện của môn khoa học xã hội tư sản. Trên thực tế, quan
niệm như vậy đã làm ngưng trệ quá trình hình thành xã hội học như một ngành
khoa học độc lập vào những năm 1930 -1960 ở một số nước. Quan niệm đó đã để lại
hậu quả lâu dài làm gián đoạn việc kế thừa, vận dụng và phát triển một cách
sáng tạo và tư tưởng, khái niệm và phương pháp luận xã hội học do Marx, Engels,
Lênin và những người cùng chí hướng đã nêu ra từ thế kỷ XIX đến nay.
Quan niệm thứ hai, đặt xã hội học biệt lập hay đối lập với triết học. Những người theo quan
niệm này lập luận rằng, xã hội học đã ra đời với tư cách là một khoa học cụ
thể, đối lập với triết học tư biện, kinh viện, giáo điều, là những khoa học bất
lực trong việc giải thích những vấn đề mới mẻ nảy sinh từ đời sống kinh tế,
chính trị xã hội ở Châu Âu thế kỷ XIX. Theo truyền thống đó, xã hội học không
ngừng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể, "thực
chứng" để giải đáp những vấn đề của thực tiễn cuộc sống xã hội. Nói cách khác,
xã hội học không có mối liên hệ gì đáng kể với triết học. Thực chất quan niệm
này cố tình làm ngơ trước một thực tế là xã hội học bao giờ cũng có tính triết
học và tính tư tưởng. Tính triết học của xã hội học thể hiện ở chỗ nó tìm hiểu
bản chất của các sự vật hiện tượng trong tự nhiên và xã hội và nhận thức quy
luật chung của vận động phát triển con người và xã hội. Lý thuyết xã hội học
của Marx là một ví dụ.
Tính triết học trong xã hội học gắn liền với thế giới quan, hệ tư tưởng
và tính giai cấp. Các nhà xã hội học Mácxít xây dựng học thuyết xã hội học trên
lập trường CNDV biện chứng về lịch sử, xã hội và con người, và luôn coi triết
học Mác - Lênin là thế giới quan, phương pháp luận và vũ khí tư tưởng trong
công cuộc xây dựng một xh công bằng, VM.
Mối quan hệ giữa xã hội học và triết học có tính biện chứng. Các nghiên
cứu xã hội học cung cấp những thông tin và phát hiện các vấn đề, bằng chứng mới
làm phong phú kho tàng tri thức và phương pháp luận triết học. Nắm vững tri
thức xh học Mác-Lênin giúp ta vận dụng một cách sáng tạo tri thức triết học
Mác-Lênin vào hoạt động thực tiễn CM.
2. Quan hệ giữa xã hội học với tâm lý học và
sử học
Nội dung và tính chất của mối quan hệ này phụ thuộc vào cách giải quyết
vấn đề, đối tượng nghiên cứu của xã hội học. Trên thực tế, dựa vào tiếp cận vĩ
mô, một số tác giả phủ nhận vai trò của tâm lý học trong giải quyết các vấn đề
của xã hội học. Chẳng hạn, với quan điểm hiện tượng xã hội phải được giải thích
bằng hiện tượng xã hội, Durkheim đã lần lượt bác bỏ tất cả các học thuyết tâm lý
học khi ông giải thích nguyên nhân của nạn tự tử. Weber cho rằng xã hội học có
nhiệm vụ nghiên cứu hành động xã hội của các cá nhân. Nhưng theo ông, chỉ có
thể hiểu hành động xã hội qua việc giải nghĩa của hoàn cảnh xã hội gồm các yếu
tố lịch sử, văn hóa, hệ giá trị chuẩn mực... Nói cách khác theo Weber sử học,
chứ không phải tâm lý học, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nghiên cứu xã
hội học.
Dựa vào tiếp cận vi mô, một số tác giả như Homans, Mead cho rằng cần sử
dụng triệt để tâm lý học để giải thích các hiện tượng, quá trình xã hội. Họ lập
luận rằng, vì hành động của con người, tương tác giữa các cá nhân là nền tảng
"vi mô" của các quá trình xã hội và cơ cấu xã hội nên các quy luật
tâm lý cá nhân phải là những nguyên lý nghiên cứu cơ bản của xã hội học.
Kết quả của tình thế giằng co, "tiến thoái lưỡng nan" này là
một mặt, tâm lý học xã hội trở thành một chuyên ngành, một lĩnh vực nghiên cứu
quan trọng của cả tâm lý học và xã hội học. Mặt khác, nghiên cứu so sánh lịch
sử xã hội trở thành một trong những chuyên ngành thu hút sự chú ý của nhiều nhà
xã hội học. Cách tiếp cận lịch sử - văn hóa, các phương pháp, khái niệm và bằng
chứng sử học ngày càng xuất hiện nhiều trong nghiên cứu xã hội học.
Có ý kiến cho rằng, tuy cùng nghiên cứu xã hội, xã hội học khác với sử
học ở chỗ sử học nghiên cứu nó trong quá khứ, còn xã hội học nghiên cứu nó
trong hiện tại. Điều đó không thật đúng. Các khoa học xã hội, gồm cả sử học và
xã hội học, chủ yếu nghiên cứu những gì đã xảy ra (vừa xảy ra hay đã xảy ra từ
lâu) để nhận thức cái hiện tại và dự báo cái sắp xảy ra, sẽ xảy ra.
Có thể dựa vào định nghĩa của chúng ta xác định vị trí của xã hội học
trong quan hệ với các khoa học khác, cụ thể là với tâm lý học và sử học. Xã hội
học không bị tâm lý học áp đảo vì nó không tập trung nghiên cứu về cá nhân
(hành vi, hoạt động xã hội của cá nhân). Xã hội học không bị sử học lấn át vì
nó không tập trung nghiên cứu về các sự kiện lịch sử xã hội cụ thể, đặc thù
trong quá trình vận động, phát triển theo thời gian. Xã hội học cũng không phải
là "khoa học nửa nọ, nửa kia" nó không nghiên cứu theo kiểu "mỗi
thứ một tí", tức là vừa nghiên cứu con người vừa nghiên cứu xã hội, một
cách biệt lập nhau. Xã hội học là khoa học tương đối độc lập nghiên cứu các quy
luật nảy sinh, vận động và phát triển mối quan hệ giữa con người và xã hội.
3.
Xã hội học và kinh tế học
Kinh tế học nghiên cứu quá trình sản
xuất, phân phối tiêu dùng và dịch vụ. Nó giải quyết những vấn đề như tác động
của tỷ suất lợi nhuận đến dòng tiền tệ và ảnh hưởng của thuế đến người tiêu
dùng.
Kinh tế học có khả năng dự báo rất cao
về những biến đổi kinh tế. Chúng là những phương tiện giúp cho các nhà kinh tế
học dự báo tốt hơn các nhà khoa học xã hội khác. Xã hội học và kinh tế học kết
hợp với nhau trong lĩnh vực nghiên cứu xã hội - kinh tế, tập trung vào mối quan
hệ giữa những khía cạnh kinh tế và phi kinh tế của đời sống xã hội.
4.
Xã hội học và khoa học chính trị
Khoa học chính trị thường nghiên cứu
những vấn đề về tổ chức, quản lý, lịch sử, lý thuyết và chính phủ. Họ quan tâm
đến các mô hình bầu cử và sự tham gia trong các đảng phái chính trị, ngày nay
khoa học chính trị còn tập trung nghiên cứu hành vi chính trị trong ý nghĩa
rộng lớn hơn của nó. Khuynh hướng này đã tao ra mối liên kết giữa xã hội học và
khoa học chính trị thông qua các nghiên cứu của chuyên ngành xã hội học chính
trị. Các nhà xã hội học và chính trị học chia sẽ với nhau quan điểm về sự tương
tác của các yếu tố bên trong các thiết chế chính trị với nhau và giữa thiết chế
chính trị với các thiết chế khác. Cả hai nhóm này đều tiến hành nghiên cứu về
việc sử dụng quyền lực, quá trình xã hội hóa chính trị, các nhóm hoạt động đặc
thù và các hoạt động đấu tranh chính trị.
IV. Cơ
cấu hệ thống xã hội học
1. Xã hội học đại cương
Được
xem là ở cấp độ cơ bản của hệ thống lý thuyết xã hội học, là khoa học về các
quy luật xã hội, của sự vận động và phát triển của xã hội, của tương tác tự
nhiên vốn có của các yếu tố hợp thành hệ thống xã hội, là nền tảng cho việc
nghiên cứu khoa học xã hội học.
Xã hội
học đại cương được trình bày với các mục sau:
- Xã
hội học: bao gồm những chủ đề và vấn đề, tập trung nêu lên sự phát triển trong
xã hội học, các quan điểm khác nhau về xã hội học.
- Các
lý thuyết khác nhau trong xã hội học gồm có: lý thuyết đồng cảm, lý thuyết về
hành động xã hội, lý thuyết đụng độ (xung đột), các vấn đề xã hội học trong
thực tiễn.
- Các
kiểu bất bình đẳng trong xã hội, trong đó trình bày sự phân tầng, phân chia
giai cấp, đẳng cấp trong các xã hội, các thời kỳ lịch sử khác nhau: trong kinh
tế, văn hóa, giáo dục,…
- Giới
thiệu các lý thuyết khác nhau về sự phân tầng, về quyền sở hữu, phân phối cơ
may, tính di động xã hội, các khái niệm được sử dụng phổ biến trong xã hội học.
- Trình
bày về giai cấp (theo quan niệm của xã hội học) và động lực giai cấp: vai trò
của các giai cấp và tương lai của nó,…
+ Giai
cấp: cùng địa vị kinh tế, cùng địa vị xã hội, cùng một ý thức hệ
+ Tầng
lớp: là khái niệm mang nặng tính tiêu dùng vật chất trong xã hội và do người
tiêu dùng đánh giá.
+ Đảng
phái: quyền lực chính trị
+ Những
hình thức phụ thuộc: giới trẻ, giới nghèo, chủng tộc và thế giới thứ ba
- Vấn
đề giới, sự bất bình đẳng về giới
- Vấn
đề gđình, các kiểu gia đình, sự xung đột và xu thế biến chuyển của gia đình.
- Giáo
dục: bất bình đẳng trong giáo dục, sự di động xã hội thông qua giáo dục, ảnh
hưởng của giáo dục đối với gia đình, vai trò của giáo dục nhà trường,…
- Quyền
lực và chính trị: vai trò của nhà nước, sự phân bố quyền lực trong xã hội
phương Tây, vai trò đang thay đổi của nhà nước.
- Lao
động: quá trình lao động tư bản chủ nghĩa, các lý thuyết quản lý, thất nghiệp.
Ngoài ra trong xã hội học đại cương
một nhóm tác giả người Mỹ (Cohen & Bruch) trình bày 5 vấn đề:
Phần I:
Xã hội học là gì? Giới thiệu khái quát về xã hội học, nghiên cứu xã hội học.
Phần
II: Cá nhân và xã hội
Trong
đó nhấn mạnh vai trò của văn hóa, quá trình xã hội hóa, vai trò của tình dục và
giới tính, lệch lạc và kiểm soát xã hội.
Phần
III: Tổ chức xã hội
Trình
bày dưới dạng hiểu biết về các thiết chế xã hội và hình thức tổ chức xã hội,
hôn nhân, gia đình. Giữa các tổ chức xã hội phải có sự phù hợp với nhau trong
một hệ thống thống nhất.
Phần
IV: Phân tầng xã hội
Giai
cấp xã hội, di động xã hội, quan hệ về chủng tộc và dân tộc
Phần V:
Sự biến đổi xã hội
Dân số,
văn hóa, sinh thái, đô thị hóa, hành vi tập thể và hành động xã hội.
2. Xã hội học chuyên biệt
Áp dụng
nghiên cứu lý luận của xã hội học đại cương vào nghiên cứu những mặt khác nhau
của đời sống xã hội trên những mặt nhất định như: nông thôn, đô thị, giới, gia
đình,…
Xã hội
học chuyên biệt rất đa dạng, là cấp độ các quan hệ có tính chất “bộ phận” phản
ánh mối liên hệ khách quan giữa các mặt khác nhau của đời sống xã hội.
Lý luận
xã hội học chuyên ngành là khâu trung gian giữa xã hội học đại cương và xã hội
học thực nghiệm.
Các nhà
nghiên cứu ở Việt Nam chia thành 4 chuyên đề:
- Các
yếu tố xã hội: văn hóa, cấu trúc xã hội, xã hội hóa, tương tác xã hội, sự lệch
chuẩn và kiểm soát xã hội.
- Bất
bình đẳng xã hội.
- Các
thiết chế xã hội: gia đình, giáo dục, tôn giáo, hệ thống chính trị, kinh tế,…
- Các biến
đổi xã hội: tính năng động xã hội, hành vi tập thể, phong trào xã hội, chuẩn
mực xã hội, các biến đổi xã hội về văn hóa,…
3. Xã hội học thực nghiệm
Trong
cấp độ thực nghiệm chúng ta ưu tiên cho việc điều tra, khảo sát thực tế, thu
thập tư liệu, số liệu, nắm bắt các thông tin từ dư luận xã hội,… và quan trọng
hơn là phải biết xử lý, chọn lọc thông tin.
Mô tả
mối quan hệ giữa lý thuyết và thực nghiệm. Nhận thức của lý thuyết được làm
phong phú, sâu sắc thêm trên cơ sở thực nghiệm khoa học.
CHƯƠNG 2. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA CÁC NHÀ NGHIÊN
CỨU XÃ HỘI HỌC KINH ĐIỂN
CỨU XÃ HỘI HỌC KINH ĐIỂN
I. Auguste Comte (1798-1857)

- Sinh ra tại thành phố Montpellier
(Pháp), trong một gia đình theo đạo Giatô.
- Năm 1814 theo học tại trường Bách
khoa Pari.
- Năm 1826 ra dạy tư và
làm thư ký cho Saint Simon, sau đó ông tham gia giảng dạy triết học thực chứng. OÂng laø ngöôøi saùng laäp ra Hieäp hoäi thöïc chöùng
luaän.
- Các
tác phẩm chính:
+ Giáo
trình triết học thực chứng (1842)
+ Hệ
thống xã hội thực chứng (1851)
Comte sống trong thời kỳ CMTS Pháp
thành công và sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế - xã hội công nghiệp
nước Pháp. Theo ông xã hội Tây Âu trong thời kỳ này đã rơi vào khủng khoảng với
sự sụp đỗ của xã hội thần học và đồng thời với nó là sự ra đời của khoa học xã
hội và công nghệ.
Các lý
luận chính của Comte về xã hội học:
Về quan
niệm xã hội học.
Tư
tưởng xã hội học của Comte chịu ảnh hưởng của khoa học tự nhiên như vật lý học,
sinh vật học...
+ Vieäc
ñaët teân
Ông là người khai sinh ra Xã hội học. Công lao
đầu tiên của ông đó là việc đặt tên cho bộ môn khoa học này là Xã hội học ( Sociology xuất phát từ hai từ: Socius:
xã hội và logos: luận lý [học thuyết]).
Ông chia các ngành khoa
học thành hai loại: khoa học cơ bản:
toán, lý, hoá và khoa học cụ thể như:
sinh, sử, địa... Mục đích của ông không phải chỉ để phân loại mà để tìm chỗ
đứng riêng biệt cho xã hội học nhằm đề cao xã hội học, vì theo ông “các khoa học cơ bản và cụ thể đều không thể
lý giải được xã hội hiện đại, chỉ có Xã hội học mới có thể làm được điều đó”.
+ Đối
tượng của Xã hội học
Xã hội học là khoa học nghiên cứu quy luật khái
quát, phán ánh mối quan hệ căn bản nhất của các sự vật, hiện tượng xã hội
+ Nguyên tắc xây dựng Xã hội học: dựa theo:
Chủ nghĩa kinh nghiệm: ông kế thừa quan điểm của
Bekerly (đưa ra lý thuyết phục tùng sự
thụ động: “con người là sản phẩm xã hội
nên con người phải phục tùng xã hội”) và Bacon (đưa ra quan niệm mới về
phương pháp siêu hình học, phê phán quan điểm kinh viện của nhà thờ và đề cao
tuyệt đối khoa học). Theo ông, chỉ có chủ nghĩa kinh nghiệm mới làm nên kiến
thức con người. Chủ nghĩa kinh nghiệm tạo nên lý thuyết Xã hội học.
Chủ nghĩa thực chứng: Dựa trên thuyết vật
lý, phải lượng hóa những yếu tố khoa học đo lường, chuẩn hóa từ quy luật, định
luật để chuẩn hóa các hoạt động xã hội, hiện tượng xã hội. Thuyết của ông còn
gọi là thuyết “Vật lý học xã hội”.
Học
thuyết xã hội học của Comte, gồm 3 nội dung:
(1) Tĩnh học xã hội:
-
Đặt
xã hội trong trạng thái tĩnh và từ đó đi mổ xẻ, tìm hiểu. Tĩnh học xã hội là bộ
phận của xã hội học, nghiên cứu về trật tự xã hội, cơ cấu xã hội, các thành
phần và mối liên hệ với chúng. Ông cho rằng, tĩnh học xã hội đầu tiên phải đi
nghiên cứu vấn đề cá nhân.
-
Thực
thể chứa đựng các nhu cầu, các năng lực có sẵn trong con người (thực thể tự
nhiên). Tiếp đó, nó tồn tại các năng lực, các nhu cầu được tiếp thu từ bên
ngoài (thực thể xã hội). Ông nhấn mạnh yếu tố thứ nhất, nhu cầu đó hình thành
từ đâu, tại sao lại có nhu cầu. Yếu tố thứ nhất cấu tạo từ trái tim: chứa đựng
tình cảm; trong khi đó khối óc: kiểm soát hành vi cá nhân. Ông cho rằng, hành
vi, hành động sinh ra từ trái tim.
(2) Động học xã hội: (thay đổi xã hội)
- Động học là khoa học về sự phát triển. Theo
Comte, động học trước hết là tìm hiểu những nhân tố quyết định cho sự tồn tại
và phát triển của xã hội. Ông phân thành hai lọai: Kinh tế, khí hậu, dân số...
(không quan trọng) và nhận thức, tư tưởng của con người (có ý nghĩa quyết
định).
Trên cơ sở phân chia đó
ông chia lịch sử loài người làm 3 giai đoạn, theo quy luật 3 trạng thái: (Luật
tam trạng)
+ Giai đoạn thần học: Kéo dài hơn chục thế kỷ, tôn giáo thống
trị xã hội, biểu hiện tư duy thần học là chủ yếu.
+ Giai đoạn siêu hình học: trong xã hội đã có tư duy trừu
tượng nhưng những tư tưởng siêu hình thống trị. Ở đó, các nhà Luật học và Triết
học chi phối xã hội. Ông coi đây là bản lề, bước đệm để chuyển giai đoạn thần
học sang giai đoạn sau.
+ Giai đoạn thực chứng: ở giai đoạn này, các môn khoa học thực
chứng phát triển. Điều đó làm kết thúc hệ thống đầu cơ tư tưởng tôn giáo cũng
như Triết học kinh viện. Trong thời kỳ này, khoa học tự nhiên thống trị xã hội,
nghiên cứu khoa học theo nguyên tắc chủ nghĩa kinh nghiệm thực chứng luận và
thuyết vật lý. Đây là giai đoạn mà con người hiểu hết đời sống xã hội một cách
rõ nhất so với trước đây.
=> Động học xã hội quan trọng hơn các trạng
thái tĩnh học xã hội.
-
Ngoài
3 quy luật, ông còn nghiên cứu xã hội với tính cách là một tổng thể hữu cơ,
trong đó mối quan hệ qua lại giữa các nhóm xã hội được coi là điều kiện tồn tại
của xã hội.
-
Ông
nghiên cứu về chiến tranh và hoà bình: ông lên án chiến tranh xâm lược, đòi hỏi
xóa bỏ chế độ thực dân “việc áp đặt chiến
tranh bằng lưỡi lê sẽ đem lại hậu quả cho cả hai phiá”.
(3) Cơ cấu xã hội:
theo ông cơ cấu xã hội phát triển từ thấp lên cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn
thiện. Cơ cấu xã hội tổng thể được tạo nên từ các tiểu cơ cấu và sự phát triển
của xã hội tất yếu sẽ làm cho tiểu cơ cấu xã hội được chức năng hóa, chuyên môn
hóa. VD: cơ cấu kinh tế gồm
nhiều ngành: công nghiệp, nông nghiệp , dịch vụ ... Khi nền kinh tế phát triển,
cơ cấu công nghiệp được chuyên môn hóa, chức năng hóa và phân hóa thành các
tiểu cơ cấu. Ông nghiên cứu cách liên kết hữu cơ các tiểu cơ cấu lại với nhau:
theo hai đường.
-
+
Con đường 1: phải có vai trò
của nhà nước, tức là thông qua quyền lực của nhà nước để điều hòa, điều phối nhằm liên kết các bộ
phận lại không để nó tan rã.
-
+
Con đường 2: dựa vào đạo đức,
tình cảm, sự thiện chí của các cá nhân để liên kết cộng đồng. Từ đây, ông đặt
ra khẩu hiệu “Tình yêu là nguyên tắc,
trật tự là cơ sở, tiến bộ là mục tiêu”
Quan niệm về gia đình: ông coi gia đình là
một tế bào của xã hội, là đơn vị xã hội cơ bản nhất, nó tham gia vào mọi đơn vị
khác. Ông đã đi sâu nghiên cứu gia đình, phân công lao động trong gia đình,
quan hệ giữ các thành viên, đặc biệt là
quan hệ huyết thống. Theo ông, gia đình có
2 mối quan hệ cơ bản: hôn nhân và huyết thống.
Về phương pháp: ông đưa ra 3 phương pháp cụ thể:
(1) Phương pháp quan sát: ông cho rằng, nghiên
cứu ngoài xã hội rất khó tiến hành quan sát bởi đời sống xã hội biểu thị trong
một số qúa trình nhất định. Ông đã đề ra các nguyên tắc như sau trong quan sát:
-
Quan
sát trong một thời điểm nhất định.
-
Dựa
trên những tiền đề lý luận nhất định.
-
Phải
chú ý đến những quy luật thống kê, chọn mẫu, chọn đối tượng.
-
Phải
biết kế thừa những quan sát của người đi trước.
(2) Phương pháp thực
nghiệm:
có hai loại: trực tiếp và gián tiếp.
Phương pháp trực tiếp là nghiên cứu xã hội
trên cơ sở những hiện tượng xã hội ta đã chọn ra, được nghiên cứu một cách dứt
điểm trong trạng thái khách quan của nó.
Phương pháp gián tiếp: nghiên cứu những hiện
tượng xã hội lớn hơn đã có những nguyên nhân chung và riêng mà đa số chúng ta
nghiên cứu bằng cách gián tiếp.
(3)Phương pháp so sánh: theo ông, so sánh phải
dựa trên 2 nguyên tắc: trục thời gian và vòng không gian.
KL:
-
Comte
là người đặt cơ sở nền tảng cho xã hội học, ông đã đưa thuật ngữ Xã hội học vào
kho tàng khoa học nhân loại.
-
Ông
có nhiều lập trường quan điểm có tầm quan trọng ảnh hưởng lớn lao đến sự phát
triển của xã hội học cổ điển: chủ nghĩa bảo thủ, thuyết cải cách, thuyết khoa
học và quan điểm vê thế giới tiến hoá của ông
VD: Xã hội học của ông không tập trung vào cá nhân
mà chỉ xem nó như là một đơn vị cơ bản của các thực thể phân tích lớn hơn như
gia đình. Ông cũng đã đề xuất chúng ta nên nhìn và cả cơ cấu xã hội và biến đổi
xã hội. Những câu hỏi đó đã trở thành những chủ đề trọng tâm của lý thuyết xã
hội học từ trước đến nay.
-
Comte
xây dựng cơ sở lý luận và phương pháp luận cho xã hội học (đòi hỏi các nhà xã
hội học phải vận dụng sự quan sát thực nghiệm và phép phân tích so sánh lịch
sử). Xã hội học của Comte chứa đựng nhiều tư tưởng tiến bộ, tìm ra con đường
tiếp cận mới đối với sự phát triển xã hội - tức là ông vạch ra quy luật phát
triển, mô hình phát triển, mô tả quy trình phát triển.
-
Ông
tách xã hội học ra khỏi Triết học tự biện, giáo điều và đem đến cho nó sức sống
mãnh liệt của khoa học thực chứng, đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển bộ
môn khoa học này.
-
Tuy nhiên, trong học thuyết của ông cũng bộc
lộ nhiều hạn chế. VD: Cắt
nghĩa động lực phát triển xã hội là yếu tố tư tưởng.
ð Nhìn chung tư tưởng xã
hội học của Comte để lại nhiều nội dung và phương pháp quý giá được thế hệ sau
kế thừa và phát triển.
II.
Karl Marx ( 1818- 1883)
Sơ lược về tiểu sử.
Ông sinh ra trong một
gia đình trung lưu tại thành phố Treve – nước Đức. Ông là một nhà Triết học và
Kinh tế học lỗi lạc, là nhà lý luận và được tôn vinh như là một vị lãnh tụ của
phong trào công nhân trên thế giới. Ông là nhà khoa học duy nhất không có thư
ký, không có lương. Ông đươc bầu là nhà lý luận số một và tư tưởng của ông làm
thay đổi tư tưởng của nhân loại. Marx viết rất nhiều tác phẩm đồ sộ có ý nghĩa
to lớn. Ông chưa bao giờ nói lên thuật ngữ xã hội học và cũng chưa bao giờ tự
xem mình là nhà xã hội học. Tuy nhiên, những lý luận của ông đã có đóng góp rất
nhiều trong quá trình nghiên cứu xã hội học.
Các quan điểm Xã hội học của Marx
(1)
Các lý thuyết
·
Lý thuyết xung đột (lý
thuyết tiếp cận xã hội): Ông coi xã hội là một trường xung đột. Bất kể các hiện
tượng trong tư duy của chúng ta đều mâu thuẫn. Qua lý thuyết này, ông cho rằng
phải sử dụng nó để đi vào xã hội cụ thể.
·
Lý thuyết về hình thái kinh tế - xã hội. Qua đó, ông đã đi vào
lý thuyết về phương thức sản xuất (LLSX và QHSX). Trong mối tương quan này thì
LLSX năng động hơn, QHSX chỉ là cái vỏ. Từ đây ông phát hiện ra quy luật, tính
chất của trình độ phát triển của LLSX. Từ đó ông phân chia lịch sử loài người
thành 5 giai đoạn cụ thể. Xã hội loài người xem đây là phương thức nghiên cứu
về chính xã hội loài người.
·
Lý thuyết về phân tầng xã hội: Ông chỉ ra hai nguyên
nhân của sự phân tầng:
- Do sự khác nhau trong
việc sở hữu LLSX. Người ta gọi Marx là nhà quyết định luận kinh tế. Trong xã
hội có hai tầng lớp: có của cải vật chất: thống trị xã hội (TS) và không có của
cải vật chất: bị trị (VS). Đấu tranh là động lực để phát triển xã hội.
- Phân tầng xã hội còn
là do phân công lao động xuất hiện khi con người biết tác động vào tự nhiên
(săn bắn, hái lượm), do tính chất lao động, nghề nghiệp... hình thành nên sự phân
công lao động mà hình thành nên các tầng lớp khác nhau.
·
Quan niệm về bình đẳng và bất bình đẳng: trong xã hội hiện đại,
bình đẳng là phân phối theo lao động, nhưng cơ sở của bình đẳng lại được xây
dựng trên nền tảng của bất bình đẳng dẫn đến bất bình đẳng tuyệt đối, vĩnh viễn
(bình đẳng ở đây không có nghĩa là ngang nhau. Bình đẳng được thể hiện trong
mối quan hệ xã hội nhất định).
ð Về mặt nghiên cứu lý
luận và thực nghiệm xã hội học cần tập trung phân tích cấu trúc xã hội để chỉ
ra ai là người có lợi, ai là người bị thiệt từ cách tổ chức xã hội và cơ cấu xã
hội hiện có. Lý luận xã hội học cần tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa cơ
cấu vật chất làm nền tảng của ý thức xã hội và cơ cấu tinh thần, ý thức xã hội.
(2)
Về phương pháp luận. Theo ông, có 3 cơ sở
phương pháp luận:
-
Duy
vật: dựa trên chủ nghĩa duy vật.
-
Dựa
trên phép biện chứng: khi xem xét một sự kiện xã hội thì bắt buộc nhà xã hội
học không được lấy một sự kiện để giải thích cho chính nó.
-
Dựa
vào lịch sử cụ thể: mỗi sự kiện xã hội xảy ra đều có không gian và giới hạn
thời gian của nó.
KL: Tóm lại, học thuyết
của Marx nói chung và chủ nghĩa duy vật nói riêng có ý nghĩa và tầm quan trọng
vô cùng to lớn đối với xã hội học nói riêng và đối với khoa học xã hội nói
chung.
-
Các
quan điểm của Marx về lịch sử xã hội và cấu trúc xã hội tạo thành bộ khung lý
luận và phương pháp luận nghiên cứu xã hội học theo nhiều hướng khác nhau.
Chẳng hạn: Xã hội học Marx ảnh hưởng tới trường phái lý thuyết xã hội phê phán;
lý thuyết về mâu thuẫn và xung đột xã hội; lý thuyết về hệ thống thế giới; lý
luận về nhà nước, về văn hóa, tư tưởng; lý thuyết về cấu trúc xã hội và nhiều
trường phái lý thuyết khác.
-
Các
nhà Xã hội học Mácxít vận dụng phép duy vật biện chứng của Marx để nghiên cứu
cấu trúc xã hội, mâu thuẫn xã hội và sự phân tầng xã hội; vận dụng chủ nghĩa
duy vật lịch sử để phân tích thực trạng và nguyên nhân của sự biến đổi xã hội.
Dựa vào quan điểm duy vật biện chứng nghiên cứu sự tác động qua lại giữa các
hiện tượng, quá trình xã hội, quan hệ xã
hội, hành vi, hoạt động của con người và một bên là phương thức sản xuất, phân
công lao động xã hội và cơ cấu kinh tế. Các nhà Xã hội học cần phải phân tích
ảnh hưởng của chính sách xã hội tới việc cải thiện điều kiện vật chất của con
người.
-
Việc
nhấn mạnh cấu trúc giai cấp của xã hội mở ra hướng nghiên cứu Xã hội học giai
cấp và phân tầng xã hội theo giai cấp.
-
Điều
quan trọng nhất theo ông, các nhà Xã hội học tiến bộ không những chỉ giải thích
về thế giới mà còn góp phần tạo ra những biến đổi thế giới để xây dựng xã hội
phát triển, công bằng, dân chủ và văn minh.
III.
Herbert Spencer ( 1820- 1903)

Sơ lược
về tiểu sử.
Vào cuối thế kỷ 19, Anh quốc là một trong những
cường quốc có nền kinh tế phát triển nhất thế giới làm ảnh hưởng đến đời sống
chính trị vì thế Xã hội học đòi hỏi phải phát triển . Nhà nước Anh vừa mang
tính chất hiện đại, vừa mang tính chất phong kiến nên gọi là nhà nước quân chủ
lập hiến. Nhờ vậy, ở Anh xuất hiện nhiều trường phái tư tưởng.
H. Spencer sinh ra ở Derby - là nhà Triết học, Xã hội học và còn
quan tâm nghiên cứu các môn khoa học tự nhiên. Ông chủ yếu tự học. Spencer là
người tham gia sáng lập nên Xã hội học của thế giới. Lý luận của ông rất sắc
sảo. Các tác phẩm đáng chú ý của ông: “Nghiên cứu Xã hội học” (1873); “Các
nguyên lý Xã hội học” (1876); “Xã hội học miêu tả” (1889).
Đóng góp cho Xã hội học
(1) Nội dung học thuyết Xã hội học
·
Định nghĩa về Xã hội học: Xã hội học là khoa học
về các quy luật và các nguyên lý tổ chức xã hội, tức là xã hội học nghiên cứu
sự trưởng thành và phát triển xã hội, xây dựng, điều khiển, tập hợp xã hội với
tính cách chúng sinh ra từ tương tác các cá nhân và nhóm xã hội.
·
Lý thuyết về cơ thể học: ông coi xã hội mà
chúng ta đang sống là cơ thể sống, sống động như một cơ thể con người. Các bộ
phận cơ thể xã hội có khả năng ý thức và tính tích cực tác động lẫn nhau qua ngôn
ngữ. Ông cũng đi tìm sự giống nhau giữa cơ thể sinh học và cơ thể xã hội, có 4
đặc điểm:
-
Sinh
tồn và phát triển.
-
Đều
tuân theo những quy luật nhất định: quy luật của sự tiến hoá, quy luật của sự
suy tàn.
-
Có
sự chuyên môn hoá về hoạt động.
-
Có
khả năng tự đều tiết, tự hấp thu thích nghi với môi trường.
+
xã hội: nhà nước điểu khiển, giao thông, quân đội.
+
con người: thần kinh điều khiển, tuần hoàn, kháng thể.
Sự
giống nhau ở đây là sự điều tiết. Ông coi cân bằng là một trạng thái lý tưởng
của xã hội. Hãy tự để cho cơ thể xã hội
điều tiết, đừng có tác động vào nó “Giàu xứng đáng giàu và nghèo xứng đáng
nghèo”. Ông phủ nhận các chính sách của xã hội. Tư tưởng của ông bị một số
người phê phán là vô nhân đạo (nhưng chính sách xã hội của Anh lại chịu ảnh
hưởng của học thyết này rất lớn). Ông cho rằng, nếu phá vỡ tính cân bằng rất
nguy hiểm.
·
Tiến hoá xã hội: Ông phê phán A.Comte
về tĩnh học xã hội, nhưng lại sử dụng các thuật ngữ của Comte, dựa trên động
học và tĩnh học của Comte.
-
Khác biệt: Spencer coi tĩnh học
xã hội là trạng thái, là động lực cân bằng, còn động lực là hoàn hảo. Theo ông,
sự tiến hoá của xã hội tất yếu sẽ đưa xã hội từ trạng thái giản đơn đến phức
tạp, trạng thái cân bằng và hoàn hảo.
-
Ông
thành lập sơ đồ về biểu hiện xã hội: xã hội giản đơn-> xã hội hỗn hợp 1 ->xã
hội hỗn hợp 2 -> xã hội hỗn hợp 3. (Từ hái lượm -> nông nghiệp tự cung tự
cấp -> nông nghiệp có phân công lao
động xã hội -> công nghiệp)
Tương ứng với mỗi loại
xã hội là tập hợp các đặc trưng của hệ thống điều chỉnh, hệ thống vận hành và
hệ thống phân phối. Từ đó, ông tìm tác nhân của sự tiến hoá xã hội. Có 3 tác
nhân:
-
Biến
số chủ quan: thuộc về trí tuệ, thể lực, cảm xúc.
-
Biến
số bên ngoài: thuộc về khí hậu, đất, môi trường.
-
Biến
số tự sinh: thuộc về dân số, mối liên hệ các nhóm xã hội khác nhau.
·
Phân loại xã hội:
* Xã hội quân sự:
-
Hệ
thống điều chỉnh của xã hội quân chủ là tập trung và độc đoán.
-
Hệ
thống vận hành của cá nhân bị xã hội kiểm soát hết sức chặt chẽ, hệ thống phân
phối từ trên kiểm xuống.
-
Hệ
thống quân chủ là động lực thúc đẩy mâu thuẫn chiến tranh.
* Xã hội kỹ nghệ
-
Hệ
thống điều hành: mang tính dân chủ.
-
Hệ
thống vận hành: mang tính năng động cá nhân và xã hội rất cao.
-
Hệ
thống phân phối theo hai chiều: Chiều
ngang: cá nhân - cá nhân, nhóm xã hội - xã hội; Chiều dọc: cá nhân - các nhóm xã hội.
-
Hệ
thống quân chủ: là động lực thúc đẩy cạnh tranh.
Thiết
chế xã hội
-
Định nghĩa: là khuôn mẫu, kiểu tổ chức xã hội, đảm bảo đáp
ứng các yêu cầu, chức năng cơ bản của hệ thống xã hội, đồng thời kiểm soát hoạt
động của các cá nhân và các nhóm xã hội.
-
Phân loại: có 5 loại thiết chế:
+
Thiết chế gia đình – dòng họ:
nhằm thỏa mãn tái sản xuất con người, nó kiểm soát sinh hoạt tình dục và các
mối quan hệ bên trong gia đình...
+ Thiết chế nghi lễ: đáp ứng nhu cầu kiểm soát liên kết các
quan hệ sản xuất của con người.
+ Thiết chế chính trị: đáp ứng nhu cầu giải quyết mâu thuẫn,
xung đột xã hội, kiểm soát quyền lực của các nhóm xã hội, tổ chức xã hội.
+ Thiết chế tôn giáo: đáp ứng nhu cầu niềm tin vào lực lượng
siêu nhên, liên kết các cá nhân cùng tín
ngưỡng, kiểm soát và củng cố hệ thống chuẩn mực giá trị, niềm tin, tôn giáo.
+ Thiết chế kinh tế: nhằm thỏa mãn những nhu cầu về sản xuất
và dịch vụ.
(2) Phương pháp nghiên cứu:
Ông không đưa ra phương
pháp nghiên cứu cụ thể nào nhưng ông đòi hỏi trong quá trình nghiên cứu phải sử
dụng nhiều số liệu khác, thu thập số liệu vào nhiều thời điểm và nhiều nơi
khác, nắm vững những tri thức và phương pháp nghiên cứu của các ngành khoa học
khác nhau (tính chất liên ngành). Ông cho rằng, trong mọi ngành khoa học thì
nghiên cứu xã hội học là khó khăn nhất vì:
·
Yếu tố khác quan: do tính phức tạp của đời sống xã hội,
do tính đặc thù của xã hội: mỗi xã hội đều có những nét riêng biệt. Vì vậy, các
nhà Xã hội học cần phải hết sức thận trọng tìm ra đâu là khuynh hướng đặc biệt,
đâu là khuynh hướng phổ quát. Những tàn dư của xã hội ảnh hưởng đến xã hội
đương đại rất nặng nề, do đó phải đi sâu nghiên cứu để phân biệt cái cũ, cái
mới và để xem xét xã hội bên ngoài.
·
Yếu tố chủ quan: bản thân các nhà Xã hội học nghiên cứu
xã hội chịu nhiều áp lực, định kiến “làm xã hội học đầu phải nóng, trái tim
lạnh”, luôn ở trong trạng thái lạnh lùng để nhận xét một cách khác quan.
ð Tóm lại, lý thuyết xã hội học
của Spencer không đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của chủ nghĩa duy lý trong khoa
học nhưng các quan niệm tiến hóa xã hội của Spencer gợi ra nhiều ý tưởng quan
trọng, được tiếp tục phát triển trong các trường phái, lý thuyết xã hội học
hiện đại.
ð Ông đã phát triển hoàn
chỉnh học thuyết của Comte lên một trình độ cao hơn (Comte sử dụng thuật ngữ
“tĩnh học xã hội” và “động học xã hội” để nói tới các đặc điểm, tính chất xã
hội thì Spencer lại triển khai các khái niệm đó chủ yếu với ý nghĩa giá trị
học, tức là phân tích xem xã hội là gì, phải như thế nào).
ð Xã hội học của Spencer
đã đặt ra những ý tưởng lớn, trên nhiều lĩnh vực, trên nhiều trường phái
(trường phái Sinh thái học nhân văn, trường phái Chicago phát triển mạnh trong thế kỷ 20 ở xã
hội học Mỹ). Lý thuyết Xã hội học của ông in đậm nét trong cách tiếp cận hệ thống
xã hội và các nghiên cứu xã hội học về chính trị, tôn giáo, nhất là xã hội học
về các thiết chế xã hội. Quan niệm xã hội học của ông có ảnh hưởng lớn trong xã
hội học hiện đại kể cả về mặt lý luận và thực tiễn.
IV. Emile Durkheim
(1857- 1917)
Sơ lược về tiểu sử:
Ông sinh ra trong một
gia đình người Pháp, gốc Do Thái. Ông là người đặt nền móng xây dựng chủ nghĩa
chức năng và chủ nghĩa cấu trúc trong xã hội học hiện đại. Ông giảng dạy tại
trường Bordeaux ,
là kỹ sư xã hội học.
Các tác phẩm:
-
Phân
công lao động xã hội (1893 – luận án Tiến sĩ).
-
Quy
tắc của phương pháp Xã hội học (1895).
-
Tự
tử (1897)
-
Những
hình thức sơ đẳng của đời sống tôn giáo (1912).
Ông là người có công lao
lớn nhất, cụ thể nhất trong việc phát triển xã hội học ở Pháp cũng như trên
toàn thế giới
Những
đóng góp trong lĩnh vực Xã hội học
(1) Đối tượng của Xã hội học:
Xã
hội học nghiên cứu những sự kiện xã hội hình thành nên quan hệ xã hội. Tất cả
các quan hệ đều phụ thuộc vào ý thức tập thể, đó là luật tục và luật pháp.
(2) Các khái niệm Xã hội học.
·
Khái niệm về sự kiện xã
hội:
có hai ý nghĩa cơ bản:
-
Các
sự kiện xã hội có tính vật chất như: nhóm người, tổ chức xã hội, thiết chế xã
hội với tất cả các đặc điểm về chất và lượng của nó.
-
Các
sự kiện xã hội có tính phi vật chất: hệ thống giá trị, chuẩn mực, tập quán xã
hội.
* Sự kiện xã hội có các đặc điểm và tính chất:
+ Tính khách quan: thể hiện ở chỗ các cá nhân sinh ra trong
môi trường đã có sẵn các sự kiện như các thiết chế xã hội, chức năng xã hội,
chuẩn mực, giá trị, niềm tin...
+ Tính phổ biến: sự kiện xã hội là cái được cộng đồng chia sẻ,
chấp nhận coi chúng là của mình.
+ Tính cưỡng chế: Nó có sức mạnh kiểm soát, thậm chí hạn chế,
kiềm chế, gây áp lực đối với hành động, hành vi của các cá nhân.
·
Khái niệm khối lượng xã hội: là số lượng cá thể
thuộc về một tập thể cho sẵn.
·
Đậm độ vật chất: được hiểu là cơ cấu của các khối lượng
xã hội trong một đám đông cho sẵn.
·
Đậm độ về đạo đức: là cường độ giao lưu, hợp tác trao đổi
giữa các cá thể.
·
Khái niệm đấu tranh vì cuộc sống, sinhh tồn: Theo ông, càng đông số
cá thể sống trong một đơn vị xã hội thì độ đấu tranh trong cuộc sống càng tăng
cường.
·
Khái niệm tự tử: là cái chết do kết quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ họat động tích cực
hay tiêu cực của cá nhân chống lại chính bản thân mình mà cá nhân đó biết là
hành động đó sẽ tạo ra kết cục như vậy.
Ông coi nó là một áp lực xã hội chứ
không phải là một bệnh lý tâm thần. Tự tử có 4 loại: tự tử vị tha, tự tử vị kỷ,
tự tử phi chuẩn mức và tự tử cuồng tín.
·
Khái niệm đoàn kết xã hội.
-
Đoàn kết cơ giới: diễn ra trong xã hội
cổ truyền. Ở đó biểu hiện sự tuân thủ các nguyên tắc xã hội, các cá nhân không
khác biệt nhau bao nhiêu về giá trị đạo đức, tình cảm và giá trị bị chi phối
bởi ý thức tập thể.
-
Đoàn kết hữu cơ: tồn tại trong xã hội
hiện đại dựa trên sự đồng tình xã hội, thể hiện sự khác biệt nhau giữa các cá
nhân cũng như sự khác biệt trong bộ phận sống của con người. Các quan hệ xã hội chủ yếu mang tính chất chức năng ,
tính chất trao đổi và được luật pháp, khế ước tôn trọng và bảo vệ.
Khái
niệm ý thức tập thể: Được Durkheim đưa ra trong tác phẩm “Phân công lao động xã
hội” (1843) là “tổng thể những tín ngưỡng và tình cảm chung của đa số thành viên một
xã hội”.
Khái
niệm về tôn giáo:
tác phẩm “Những hình thức sơ đẳng của đời sống tôn giáo”, “Một tôn giáo là một hệ thống
liên đới của những tín ngưỡng và những thực hành liên quan đến các sự vật
thiêng, tức là [các sự vật] bị tách ra, bị cấm đoán; các tín ngưỡng và các thực
hành hợp nhất tất cả những ai gắn bó với chúng vào chung một cộng đồng tinh
thần gọi là Giáo hội”. Ông nói: “tôn
giáo bao giờ cũng cần thiết đối với xã hội” và phải xây dựng một tôn giáo
mới dựa trên cơ sở khoa học.
KL:
ð Học thuyết xã hội học của
ông quy tụ rất nhiều ngành xã hội học khác nhau. Ông là một trong những nhà
sáng lập xã hội học kinh nghiệm và hình thành xu hướng nghiên cứu xã hội học
kinh nghiệm của Pháp.
ð Với lý luận và phương
pháp khoa học, khách quan, ông đã xây dựng, phát triển những quy tắc phương
pháp xã hội và các khái niệm cơ bản của xã hội học như sự kiện xã hội và đoàn
kết xã hội. Lý thuyết của ông làm sáng tỏ nhiều chủ đề quan trọng như: chức
năng xã hội và cấu trúc xã hội, phân loại xã hội bình thường và sai lệch xã
hội, trật tự xã hội và biến đổi xã hội.
ð Điểm hạn chế của ông:
giải thích các vấn đề của xã hội học dựa trên cơ sở duy tâm khách quan.
V. Max Weber (
1864-1920)

Sơ lược
về tiểu sử.
(Theo ông: “Xã hội học
là khoa học cố gắng giải nghĩa những hành động xã hội và tiến tới giải thích
nhân quả về đương lối và hệ quả của hành động xã hội).
Ông
là giáo sư của nhiều ngành khoa học khác nhau: kinh tế học, chính trị học, xã
hội học. Ông sinh ra trong một gia đình đạo Tin lành ở nước Đức. Mẹ của ông có
ảnh hưởng lớn tới sự nghiệp của Weber, bà luôn cổ vũ và hỗ trợ Weber trong cuộc
đời và sự nghiệp của ông.
Các tác phẩm đáng lưu ý:
-
Tiểu
luận và phương pháp luận.
-
Đạo
đức tin lành và tinh thần CNTB.
-
Tính
khách quan trong khoa học xã hội.
-
Xã
hội học tôn giáo.
Các nhà xã hội học hiện
đại đánh giá Weber là một nhà xã hội học có thành tích dữ dội. Nội dung lý
luận, hiệu quả Xã hội học của ông quan tâm chủ yếu là những nghịch lý chính trị
của xã hội Đức, bởi vì Đức là một nước tư bản rất mạnh, giai cấp TS lại thất
bại trong việc củng cố quyền lực chính trị độc lập. Hậu quả Đức thiếu thể chế
dân chủ thay vào đó là có tầng lớp phong kiến truyền thống nắm giữ chính quyền
ở Đức.
Những
đóng góp của ông về lĩnh vực Xã hội học.
(1) Đối tượng của Xã hội học:
Xã
hội học là khoa học cố gắng giải nghĩa hành động xã hội và tiến tới cách giải
nghĩa nhân quả về đường lối và hệ quả của hành động đó. Như vậy, Xã hội học là
khoa học có nhiệm vụ lý giải thông hiểu động cơ, ý nghĩa của hành động xã hội
và theo ông nghiên cứu xã hội học mà chỉ xem xét, phân tích các hiện tượng bên
ngoài thì không đủ và không có ý nghĩa xã hội học mà phải nắm bắt lý giải ý
nghĩa bên trong của hành động xã hội. Có hai cách lý giải để xem xét ý nghĩa:
trực tiếp bằng cách quan sát bên ngoài và gián tiếp là giải thích ý nghĩa bên
trong của hành động.
(2) Lý
thuyết về hành động xã hội.
·
Khái niệm hành động xã hội: Được gọi là hành động
xã hội khi chủ thể gắn với hành vi của người khác trong quá khứ, trong hiện tại
và tương lai và ý nghĩa chủ quan ấy định nghĩa cho hành động. Hành động xã hội
nó tổ chức thành quan hệ xã hội quyết định hành vi, tập quán và phong tục hình
thành nên trật tự xã hội được quy định bởi hệ thống pháp luật hay các quy tắc
xã hội.
·
Phân
loại hành động xã hội
-
Hành
động hợp lý so với mục đích : đó là hành động được cân nhắc kỹ lưỡng, có sự lựa
chọn công cụ, phương tiện, mục đích sao cho có hiệu quả cao nhất.
-
Hành
động hợp lý so với giá trị: là hành động được thực hiện vì mục đích tự thân của hành động đó.
-
Hành
động hợp lý so với một cảm năng: hành động được truyền phán trực tiếp bởi ý
thức của chủ thể, hành động này xảy ra có sự xem xét cân nhắc của công cụ,
phương tiện, mục đích .
-
Hành
động hợp lý so với truyền thống: là hành động được truyền phán bởi những thói
quen, tập quán, tín ngưỡng... cũng là một hành động xã hội.
(3) Lý thuyết về sự phân tầng xã hội
·
Phân tầng xã hội, giai cấp: Marx phân loại phân
tầng do sự sở hữu TLSX khác nhau giữa các tập đoàn người còn Weber thì cho đây
là sự khác nhau về tài sản cá nhân (gắn với cơ may thị trường).
·
Nhóm vị thế và phân tầng xã hội - vị thế: Trong xã hội có những người mà cuộc sống của họ
và nhất là lối sống của họ không hoàn toàn phụ thuộc vào tình huống thị trường
mà phụ thuộc vào sự đánh giá của xã hội dành cho địa vị của họ.
·
Phân tầng xã hội quyền lực: Trong xã hội có những người mà cuộc sống của
họ và nhất là lối sống cùa họ không hoàn toàn phụ thuộc vào tình huống thị
trường mà phụ thuộc vào sự đánh giá của xã hội giành cho họ, mỗi đơn vị gắn một
quyền lực nhất định
(4) Lý thuyết về CNTB.
Khác với Marx coi kinh
tế là cơ sở vật chất của xã hội, Weber tập trung nghiên cứu tác động của các
yếu tố xã hội đối với cơ cấu kinh tế và quá trình kinh tế. Trong cuốn “Đạo đức
Tin lành và tinh thần của CNTB” ông đã giải quyết một cách hệ thống vấn đề mối
quan hệ giữa tôn giáo, kinh tế và xã hội.
·
Mối quan hệ kinh tế, đaọ đức: Weber cho rằng, Marx
quá cực đoan khi cho rằng kinh tế đóng vai trò số một, đạo đức đóng vai trò số
hai, kinh tế quyết định tất cả. Ông cho rằng, đôi khi đạo đức quyết định kinh
tế.
·
Chủ nghĩa quan liêu: Theo ông, trong xã hội
hiện đại (CNTB) mới xuất hiện chủ nghĩa quan liêu và có đặc trưng quan liêu thì
phải đi tìm bên trong cơ cấu xã hội đó.
KL:
ð Tóm lại, Weber là một
trong những người có công đầu xây dựng xã hội học với tư cách là một khoa học
có vị trí rõ ràng, độc lập. Nhưng khác với Durkheim thúc đẩy xã hội học phát
triển theo hướng duy lý - thực chứng - định lượng, thì Weber đẩy mạnh hướng
phát triển theo hướng duy lý – thông hiểu – định tính. Nhờ vậy, xã hội học hiện
đại ngay từ đầu có cơ sở cân bằng giữa định lượng và định tính.
ð Weber xây dựng lý thuyết
xã hội học đặc thù của mình trên cơ sở tổng hợp các ý tưởng và kiến thức bách
khoa về Sử học, Triết học, Luật học và nghiên cứu lịch sử so sánh, tạo cơ sở
cho sự phát triển của xã hội học vi mô, xã hội học định tính, thuyết tương tác
biểu trưng và một số trường phái lý thuyết khác.
ð Đóng góp quan niệm về
bản chất lý thuyết xã hội và phương pháp luận: đánh giá về vai trò của văn hóa,
tôn giáo đối với sự phát triển của xã hội phương Tây là rất to lớn.
ð Các khái niệm, phương
pháp luận xã hội học của ông đang được tiếp tục tìm hiểu, vận dụng và phát
triển trong xã hội hiện đại.
CHƯƠNG 3. CƠ CẤU XÃ HỘI
I. Một số quan niệm xã hội học về cơ cấu xã hội
Cơ cấu xã hội được coi
là một khái niệm cơ bản và then chốt của xã hội học, cho đến nay giữa các nhà
lý luận họ cũng đã đưa ra nhiều cách hiểu về khái niệm này.
a, Quan niệm của T. Parson[2]
Cơ cấu xạ hội là tổng
thể các mối quan hệ tiêu chuẩn hóa, bền vững của các chủ thể xã hội. Một đặc
điểm nổi bật của cơ cấu xã hội là chủ thể hành động thực hiện những vai trò xã
hội nào đó với nhau. Parson nhấn mạnh đến vị thế, vai trò và chức năng của các
phần tử tồn tại trong xã hội.
b, Quan điểm của J.H.Fischer[3]
Xã hội là tổng hòa các
đoàn thể xã hội, các đoàn thể xã hội được sắp xếp theo một chật tự nhất định
trong hệ thống xã hội và giữa chúng có sự lệ thuộc vào nhau. Xuất phát từ luận
điểm này Fischer coi cơ cấu xã hội của xã hội là sự sắp đặt các thành phần hoặc
các đơn vị xã hội, nghiên cứu cơ cấu xã hội phải xem xét các trạng thái tĩnh và
trạng thái động, nghĩa là xem xét sự sắp đặt các địa vị xã hội tạo nên sự biến
đổi bên trong của hệ thống xã hội.
c, Quan niệm của G.V. Oxipov[4]
Theo Oxipov, khái niệm
cơ cấu xã hội có quan hệ mật thiết với khái niệm hệ thống xã hội, khái niệm thứ
nhất là bộ phận của khái niệm thứ hai và bao hàm ở trong đó hai thành tố:
-
Các thành phần xã hội
-
Các liên hệ xã hội
+ Các thành phần xã hội
là tập hợp các bộ phận, các nhóm, các giai cấp, các cộng đồng xã hội… cấu thành
cơ cấu xã hội.
+ Liên hệ xã hội là tập
hợp những mối liên hệ, những mối liên hệ gắn kết các thành phần xã hội tạo nên
cơ cấu xã hội. Bởi vậy, một mặt cơ cấu xã hội bao hàm các thành phần xã hội,
hay tổng thể các kiểu cộng đồng trong xã hội; mặt khác nó bao hàm những liên hệ
xã hội, gắn kết tất cả các bộ phận khác nhau hợp thành phạm vi tác động và đặc
tính của cơ cấu xã hội ở một giai đoạn phát triển nhất định nào đó.
d, Quan niệm của Ian Robertsons[5]
Theo I.Robertsons, cơ
cấu xã hội là mô hình của các mối quan hệ giữa các thành phần cơ bản trong một
hệ thống xã hội. Những thành phần này tạo ra bộ khung cho tất cả xã hội loài
người mặc dù tính chất của các thành phần và các quan hệ giữa chúng biến đổi từ
xã hội này đến xã hội khác. Những thành phần quan trọng nhất của cơ cấu xã hội
là vị thế, vai trò, nhóm và các thiết chế.
Quan niệm của I.Robertsons
là khá hoàn thiện. Tuy nhiên, nếu nhóm xã hội đứng vị trí thứ ba trong trật tự
phân tích các thành tố cơ bản của cơ cấu xã hội thì sẽ gây ra những khó khăn
nhất định cho việc nhận diện những cơ cấu xã hội trong hiện thực. Bởi vậy, khái
niệm về cơ cấu xã hội của I.Robertsons cần thiết phải có những chỉnh lý nhất
định, nhằm tạo ra một logic thuận tiện hơn cho sự phân tích.
e, Quan niệm của W.E. Thompson và J.V. Hickey[6]
Thompson và Hickey coi
“cơ cấu xã hội là mô hình của các mối quan hệ giữa các thành phần cơ bản của hệ
thống xã hội… Những thành phần cơ bản của cơ cấu xã hội là vị thế xã hội, vai
trò, nhóm xã hội, mạng lưới xã hội và các thiết chế. Vị thế và vai trò tạo ra
mô hình của các mối quan hệ giửa các cá nhân; giữa các cá nhân với nhóm và mạng
lưới xã hội. Thiết chế xã hội là những tổ chức đặc thù tương đối bền vững của
các vị thế, vai trò và nhóm vận động xung quanh những nhu cầu cơ bản của xã
hội”.
Quan niệm của Fischer,
Thompson và Hickey có điểm tương đồng với định nghĩa của I. Robertson khi cùng
coi vị thế, vai trò, nhóm, thiết chế là những thành tố cơ bản của cơ cấu xã
hội. Điểm khác biệt là ở chỗ, Thompson và Hickey đã đưa thêm thành tố “mạng
lưới xã hội” vào khái niệm của cơ cấu xã hội, coi mạng lưới xã hội là một trong
những thành tố cơ bản của cơ cấu xã hội. Sự bổ sung này rất có ý nghĩa bởi sự
tồn tại của các mạng lưới xã hội trong cơ cấu xã hội là hiện thực khách quan.
Khi đưa mạng lưới xã hội vào các thành tố cơ bản của cơ cấu xã hội sẽ cho phép
chúng ta dễ dàng hình dung ra mô hình, bộ khung của những cơ cấu xã hội hiện
thực. Từ đó mà có điều kiện đi sâu vào tìm hiểu thực trạng cơ cấu, mô hình tổ
chức, sự sắp xếp, phân bố các yếu tố, các thành phần của cơ cấu cũng như những
mối quan hệ đan kết phức tạp giữa các thành tố trong cơ cấu xã hội. Trên cơ sở
đó chúng ta có thể nắm bắt được bản chất cũng như phân tích được đặc trưng và
xu hướng biến đổi của cơ cấu xã hội.
Khi
nghiên cứu về cơ cấu xã hội cần chú ý đến các phân hệ cơ bản của cơ cấu cấu xã
hội :
• Cơ cấu giai cấp –xã
hội
• Cơ cấu nhân khẩu –
xã hội
• Cơ cấu nghề nghiệp - hội
• Cơ cấu lãnh thổ - xã hội.
• Cơ cấu dân tộc - xã hội
II. Một số
lý thuyết xã hội học về cơ cấu xã hội
1. Từ góc độ lý thuyết cơ cấu – chức năng[7]
A.
Comte là người đưa ra nội dung khái quát của lý thuyết này sau đó nó được
Spencer phát triển; rồi những người khác kế thừa và xây dựng thành lý thuyết cơ
cấu – chức năng. Ban đầu, Comte nghiên cứu các cá nhân với tư cách là những
thành phần hay đơn vị cấu thành của cấu trúc xã hội. Cá nhân là một tập hợp,
một hệ thống bao gồm (1) các năng lực và nhu cầu đã có sẵn, bên trong cá nhân
và (2) các nhu cầu, năng lực đã tiếp thu từ bên ngoài qua quá trình tham gia
vào xã hội. Sau đó, ông cho rằng: “đơn vị đích thực” của cơ cấu xã hội không
phải là cá nhân mà là gia đình, vì gia đình là đơn vị xã hội cơ bản và sơ đẳng
nhất có mặt trong tất cả các đơn vị xã hội khác. Lý luận về gia đình mà ông nêu
ra là sơ lược và thiếu chính xác, nhưng điều quan trong hơn là ông đã nêu ra
được một quan niệm về cơ cấu xã hội. Theo ông, cơ cấu xã hội bao giờ cũng được
tạo nên từ các cơ cấu xã hội khác đơn giản hơn (gọi là tiểu cơ cấu xã hội). Như
vậy, A. Comte quan niệm: cơ cấu xã hội là những thành tố tạo nên một xã hội, là
cá nhân, gia đình. Sự phát triển của cơ cấu gắn liền với sự phát triển của xã
hội phụ thuộc vào sự tiến hóa xã hội. Sự phát triển của xã hội, một mặt làm
phân hóa và đa dạng hóa các chức năng; mặt khác, làm tăng mức độ liên kết của các tiểu cơ cấu xã hội.
2. Từ góc độ thuyết chức năng[8]
Thuyết chức năng xuất hiện
từ nửa đầu thế kỷ XX, người đặt nền móng cho
thuyết này là Durkheim và Malinowski. Khi nghiên cứu xã hội châu Âu và
các nước khác, hai ông tập trung giải quyết vấn đề được đặt ra là: xã hội châu
Âu vận hành như thế nào hoặc biến đổi và phát triển ra sao?
Học thuyết cơ cấu xã hội
của Durkheim được bắt đầu từ phạm trù: “sự kiện xã hội”, ông đưa ra định nghĩa
sau đây: “Sự kiện xã hội là mọi cách làm cố định hay không cố định, có khả năng
tác động lên cá nhân một sự cưỡng bức bên ngoài; hay là mọi cách làm có tính
chất chung trong phạm vi rộng lớn của một xã hội nhất định trong khi vẫn có sự
tồn tại riêng, độc lập với các biểu hiện cá biệt của nó”. Đặc trưng nổi bật của
sự kiện xã hội là sự cưỡng bách của nó
đối với hành vi của cá nhân. Sự cưỡng bức của các sự kiện xã hội không phải là
do ý chí cá nhân mà là do hiện thực xã hội quy định, là sản phẩm của nguyên
nhân nhất định. Bởi vậy, muốn làm cho con người hoàn toàn phục tùng nó, cần làm
cho họ nhận thức được tình trạng phụ thuộc vào xã hội (thông qua khoa học hoặc
tôn giáo). Sự cưỡng bức xã hội đối với cá nhân không đơn giản là sự cưỡng bức
vật chất mà là trí tuệ và đạo đức. Ý thức tập thể, tình cảm gắn bó với cộng
đồng xã hội và sự tôn trọng tập quán xã hội của cá nhân chỉ có thể hình thành
và củng cố khi họ đặt sự tồn tại của họ trong sự tồn tại phong phú, phức tạp và
lâu bền của xã hội. Theo ông, xã hội là tổng thể các sự kiện xã hội bình thường
và các sự kiện xã hội không bình thường (bệnh lý). Sự kiện xã hội bình thường
gắn liền với sự cưỡng chế bình thường. Đó là sự cưỡng bức phù hợp với ưu thế
của một xã hội nào đó, là ưu thế về chính trị hay đạo đức của một xã hội. Sự
kiện xã hội bình thường là các hiện tượng xã hội biểu hiện qua hình thức chung
có thể nhận thấy ở tuyệt đại đa số cá thể trong một xã hội cả về không gian và
thời gian tồn tại của nó. Trái lại, sự kiện xã hội khác thường (bệnh lý) là các hiện tượng xã hội biểu hiện qua các
hình thức ngoại lệ, thường gặp ở thiểu số người và xảy ra nhất thời, không tồn
tại trong toàn bộ cuộc sống cá thể. Một sự kiện xã hội có thể gọi là bình
thường hay bệnh lý cần phải xem xét trong quan hệ với một loại xã hội nhất
định. Nguyên tắc chung để xác định loại xã hội đã được Durkheim kế thừa của
Spencer: “Sự tiến hóa xã hội bắt đầu bằng những tổ hợp đơn giản, bé nhỏ, nó
tiến triển do sự kết hợp của một số tổ hợp nhỏ thành những tổ hợp lớn hơn và
sau đó, khi đã được củng cố, các nhóm đó lại kết hợp với các nhóm khác giống với chúng để tạo ra các tổ hợp càng lớn
hơn. Sự phân loại xã hội phải bắt đầu bằng những xã hội thuộc loại thứ nhất,
tức là đơn giản nhất”.
Theo Durkheim, xã hội
đơn giản nhất là Bầy. Bầy là một tổ hợp xã hội sơ đẳng nhất. Trong bầy, các cá
nhân như những nguyên tử phân bố bên cạnh nhau. Bầy là chất nguyên sinh của
giới xã hội, nó là cơ sở tự nhiên của mọi sự phân loại xã hội. Sự phát triển
của các Bầy trở thành phân đoạn xã hội, lúc đó ta có xã hội thị tộc, bộ lạc
đồng thời với việc xác định các phần tử hình thành nên cơ cấu của loại xã hội
nào đó, chúng ta phải quy về hình thái xã hội. Theo ông, hình thái xã hội là sự
kết hợp các yếu tố tạo thành xã hội giống như sự phân bố và kết hợp của yếu tố,
của nguyên tử, các yếu tố xã hội kết hợp với nhau tạo thành môi trường bên
trong xã hội, qui định trình độ phát triển xã hội. Có hai loại yếu tố tạo thành
môi trường xã hội: Các sự vật (bao gồm cả các dạng vật chất gia nhập xã hội, cả
hoạt động trước đó do con người tạo ra như luật pháp, phong tục, các công trình
văn học, nghệ thuật…) và con người. Sự kết hợp của các yếu tố bên trong này
(đặc biệt là số lượng các đơn vị xã hội và mức độ tập trung của các cá
thể) là điều kiện quyết định cho mọi
hiện tượng xã hội. Mặt khác chất keo để tạo nên sự liên kết các yếu tố xã hội
không phải là sức mạnh vật chất mà đó là tình cảm, đạo đức con người. Như vậy,
theo quan niệm của Durkheim, xã hội là xã hội tinh thần, đạo đức, lương tri và
trí tuệ.
3. Lý thuyết hệ thống xã hội của T. Parsons[9]
Lý thuyết chức năng xuất
phát điểm ở châu Âu, được phát triển ở Anh và thống trị trong xã hội học Mỹ.
Parsons, nhà lý luận chức năng người Mỹ những năm (1940 – 1950), đã phát triển
lý thuyết chức năng theo hướng phân tích xã hội với tư cách là hệ thống hữu cơ.
Theo Parsons, thế giới là một hệ thống lớn, mở rộng, trong đó có rất nhiều xã
hội khác nhau, giới hạn bởi đường biên giới lãnh thổ quốc gia. Mỗi xã hội có
đặc trưng và giới hạn riêng, khác với xã hội khác. Các xã hội tồn tại theo phương thức thích nghi với nhau. Xã hội
là một hệ thống mở, thường xuyên thực hiện sự trao đổi, biến đổi để tạo ra sự
cân bằng, trên cơ sở thích ứng, “cùng tồn tại” với xã hội khác. Trong mỗi xã
hội có các hệ thống nhỏ (tiểu hệ thống), tồn tại theo phương thức tích hợp với
nhau. Nghĩa là, mỗi một hệ thống thực hiện một chức năng nhất định trên cơ sở
phối hợp với các hệ thống khác. Sự hoạt động và phối hợp các tiểu hệ thống này
bảo đảm cho xã hội có khả năng thích ứng với các xã hội khác, tức là tạo ra sự
cân bằng cho hệ thống lớn. Các tiểu hệ thống này chia thành hai loại: thứ nhất,
tiểu hệ thống mang tính vật chất tồn tại tự nhiên (như gia tộc, dân tộc…); thứ
hai, tiểu hệ thống mang tính chức năng. Đó là những hệ thống do xã hội tạo ra
để thực hiện những mục đích quan trọng như Đảng phái, Công đoàn, cơ quan hành
chính… Có thể coi hệ thống tự nhiên là hệ thống sơ cấp (là hệ thống được tạo ra
ngay từ đầu), còn hệ thống chức năng là hệ thống thứ cấp (được tạo ra do sự
tích hợp của các mục đích của nó). Theo Parsons, bất kỳ xã hội nào cũng đều có
năm hệ thống chức năng cần thiết, bao gồm: tiểu hệ thống kinh tế, tiểu hệ thống
pháp luật, tiểu hệ thống chính trị, tiểu hệ thống làm nhiệm vụ tích hợp, tiểu
hệ thống văn hóa. Năm tiểu hệ thống trên là mô hình chung của các hệ thống xã
hội. Nó có thể biểu hiện ở các hình thức và kiểu dáng tùy thuộc vào mỗi hệ
thống xã hội. Các tiểu hệ thống này tồn tại tương đối độc lập với nhau, có thể
phối hợp và giao thoa nhau, nhưng không đồng nhất với nhau. Nếu nó trùng khớp
với nhau sẽ dẫn đến siêu tích hợp, do đó xã hội dẫn đến xung đột. Xã hội chỉ có
thể phát triển tốt nếu các tiểu hệ thống ở trạng thái cân bằng.
III. Tiếp cận xã hội học
về cơ cấu xã hội và hệ thống xã hội
Phương pháp tiếp cận xã
hội học về cơ cấu xã hội được thể hiện trên các khía cạnh sau:
- Cơ cấu xã hội là kết
cấu và hình thức tổ chức bên trong của một hệ thống xã hội nhất định, là sự
thống nhất của hai mặt: các thành phần xã hội và các quan hệ xã hội. Một xã hội
dù có phức tạp đến đâu chăng nữa thì suy cho cùng, những thành tố cơ bản của nó
vẫn là các thành phần xã hội và các quan hệ xã hội, đây là khía cạnh đầu tiên
của tiếp cận xã hội học về cơ cấu xã hội.
- Phân tích cơ cấu xã
hội của bất kỳ một hệ thống xã hội nào cũng đi từ sự phân tích các nhóm xã hội
với vai trò, vị thế, các thiết chế và mạng lưới xã hội. Đó là bộ khung, là mô
hình, khuôn mẫu cho sự phân tích cơ cấu xã hội.
- Cơ cấu xã hội cần được
xem xét cả trạng thái tĩnh và trạng thái động. Nghĩa là xem xét các thành phần
xã hội, sự sắp đặt địa vị xã hội của các thành phần xã hội đó và sự tương tác
giữa các thành phần, địa vị xã hội tạo
nên sự biến đổi bên trong của mỗi hệ thống. Nghiên cứu cơ cấu xã hội một mặt
phải chỉ ra được thực trạng, mặt khác chỉ ra được xu hướng vận động, biến đổi
của nó.
- Nghiên cứu cơ cấu xã
hội đòi hỏi phải phân tích các giá trị, thang giá trị, chuẩn mực xã hội cũng
như các yếu tố thuộc về văn hóa xã hội.
- Phân tích cơ cấu xã
hội cần đi sâu phân tích tính cơ động xã hội, từ đó tìm ra xu hướng của các quá
trình biến đổi và phát triển của xã hội, đồng thời phải phân tích sự phân
tầng xã hội và phân hóa xã hội.
Phân tích phân hóa xã
hội, phân tầng xã hội là lát cắt dọc, giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn kết
cấu xã hội và sự đa dạng phức tạp của nó. Trên thực tế, không có nhóm xã hội
nào mà không diễn ra sự phân hóa xã hội và phân tầng xã hội. Phân hóa xã hội và
phân tầng xã hội là hiện tượng mang tính
phổ biến trong lịch sử xã hội loài người, tuy phạm vi và mức độ ở mỗi giai
đoạn, mỗi hệ thống xã hội có khác nhau. Phân tích phân hóa xã hội và phân tầng
xã hội là một trong những nội dung làm sáng tỏ tính cơ động xã hội và xu hướng
biến đổi cơ cấu xã hội.
- Xã hội là một hệ thống
đa cơ cấu tự nhiên, chứa đựng trong nó nhiều phân hệ cơ cấu. Chỉ có thể làm rõ
cơ cấu xã hội khi nghiên cứu đầy đủ các chiều cạnh, các phân hệ cơ cấu của hệ
thống xã hội. Cơ cấu xã hội của một xã hội thường được phân tích theo nhiều lát
cắt khác nhau. Chẳng hạn, chúng ta có thể xem xét cơ cấu của một xã hội nhất
định dựa trên phân tích các phân hệ cơ cấu của nó như: cơ cấu xã hội – giai
cấp, cơ cấu xã hội – lãnh thổ, cơ cấu xã hội – dân tộc, cơ cấu xã hội – nghề
nghiệp… Các phân hệ cơ cấu xã hội phản ánh tính đa dạng và phong phú của cơ cấu
xã hội. Trong hệ thống xã hội, mỗi phân hệ đều có vị trí, vai trò và giữa chúng
có mối quan hệ, lệ thuộc lẫn nhau. Song vị trí, vai trò của các phân hệ cơ cấu
không ngang bằng nhau. Trong các phân hệ cơ cấu xã hội thì cơ cấu xã hội – giai
cấp giữ vai trò trung tâm, sự thay đổi của cơ cấu xã hội – giai cấp tất yếu sẽ
dẫn đến sự biến đổi của các tiểu cơ cấu khác.
Tiếp cận xã hội học về
cơ cấu xã hội đã đưa ra được quan niệm khoa học, cách nhìn biện chứng về cơ cấu
xã hội, khắc phục được những cách nhìn giản đơn, siêu hình về cơ cấu xã hội. Cơ
cấu xã hội ở đây được xem xét như là kết cấu, hình thức tổ chức bên trong của
một hệ thống xã hội, biểu hiện như là sự thống nhất tương đối bền vững giữa các
nhân tố, các mối quan hệ, các thành phần cơ bản của hệ thống xã hội.
Khái niệm cơ cấu xã hội
gắn bó một cách chặt chẽ với khái niệm hệ thống xã hội. Trong hai khái niệm
này, cơ cấu xã hội là khái niệm hẹp hơn so với khái niệm hệ thống xã hội, cơ
cấu xã hội chỉ là bộ khung, là mô hình của các mối quan hệ giữa các thành phần
cơ bản của hệ thống xã hội. Hệ thống xã hội là một khái niệm rộng hơn, nó là
một khối hoàn chỉnh, thống nhất, bao hàm trong đó những yếu tố có quan hệ mật
thiết với nhau và chính những yếu tố đó là cái cấu thành nên hệ thống.
Tuy nhiên, sự phân biệt
hai khái niệm này chỉ mang tính tương đối, giữa chúng không có một đường phân
ranh tuyệt đối, rạch ròi với nhau mà luôn có sự thống nhất biện chứng với nhau.
Cơ cấu xã hội được
xem xét như là sự thống nhất của hai
mặt: các thành phần xã hội và các quan hệ xã hội. Theo đó, tiếp cận hệ thống
cũng phân tích các yếu tố, những mối liên hệ cấu thành nên hệ thống đó.
Sự khác biệt giữa giác
độ tiếp cận cơ cấu và hệ thống thể hiện ở khía cạnh sau: tiếp cận cơ cấu nhấn
mạnh đến hình thức tổ chức, kết cấu, cách thức sắp xếp các bộ phận, các thành
tố trong nội bộ một hệ thống. Tiếp cận hệ thống lại nhấn mạnh đến tính chỉnh
thể, toàn vẹn và sự thống nhất bên trong của một kết cấu làm cho khối toàn vẹn
đó tồn tại tương đối độc lập với môi trường xung quanh. Tiếp cận hệ thống nhấn
mạnh đến những thuộc tính cơ bản của hệ thống như trật tự, cân bằng, ổn định,
tích hợp, thích nghi với môi trường. Nó không chỉ khảo cứu mối quan hệ bên
trong mà còn khảo cứu mối quan hệ bên ngoài.
Nghiên cứu cơ cấu xã hội
của mỗi hệ thống xã hội phải đi sâu vào phân tích kết cấu và các hình thức tổ
chức bên trong của hệ thống. Do vậy, khi nghiên cứu cơ cấu xã hội chúng ta
không thể không nghiên cứu hệ thống xã hội và ngược lại. Điều cần thiết rút ra
ở đây về mặt phương pháp luận là nghiên cứu cơ cấu xã hội trong mối liên hệ
biện chứng với hệ thống xã hội và nghiên cứu hệ thống xã hội cần hướng vào làm
rõ cơ cấu xã hội bên trong của nó. Đây là hai mặt của một cách tiếp cận hệ
thống - cơ cấu xã hội. Thừa nhận sự thống nhất biện chứng của cơ cấu xã hội và
hệ thống xã hội không có nghĩa là quy giản khái niệm này vào khái niệm kia,
đồng nhất cách tiếp cận này với cách tiếp cận kia hoặc đề cao một cách tiếp cận
này mà phủ nhận một cách tiếp cận khác. Nghiên cứu cơ cấu xã hội từ giác độ xã
hội học đòi hỏi phải uyển chuyển, mềm dẻo, linh hoạt trong tiếp cận với hệ
thống.
VI. Ý nghĩa của việc
nghiên cứu cơ cấu xã hội
Cùng với những biến đổi mạnh
mẽ cuả thế giới ngày nay, dưới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ,
chúng ta cũng đang chứng kiến những chuyển động sâu sắc trong nền tảng cấu trúc
của mỗi xã hội. Giống như những dòng nham thạch đang cuộn chảy dưới lòng sâu
của bề mặt xã hội, tái định lại một kết cấu mới cho sự phát triển xã hội, sự
biến đổi của cơ cấu xã hội cũng đang được coi là một dạng thức cách mạng. Cuộc
cách mạng về cơ cấu xã hội, các quan hệ xã hội và giá trị xã hội tuy không ồn
ào và bùng nổ như các cuộc cách mạng về khoa học và công nghệ nhưng trên thực
tế đã diễn ra không hề thua kém các cuộc cách mạng nói trên về mức độ mạnh mẽ.
Nó khiến cho con người ngày nay, phải đối diện không chỉ với những thách
thức về môi trường sống, về sự cạn kiệt tài nguyên mà còn cả với hệ quả của những
biến đổi trong kết cấu của các mối quan hệ tương tác giữa chính họ, với cách
thức mà họ đã, đang và sẽ sống bên nhau thành xh.[10]
Trên bình diện nhận thức khoa
học, nghiên cứu cơ cấu xã hội là một trong những nghiên cứu mang tính lý luận
và phương pháp luận cho toàn bộ những nghiên cứu về xã hội. Nhận thức đúng đắn
về cơ cấu xã hội cho ta cơ sở khoa học khách quan để nhận biết toàn bộ sự kiện
và hiện tượng xã hội, các chiều cạnh tương tác và quan hệ giữa chúng với nhau
trong tổng thể xã hội. Nghiên cứu về cơ cấu xã hội cũng là điều kiện cần thiết
để các nhà chiến lược và hoạch định chính sách có được những luận cứ khoa học
cần thiết trong quá trình xây dựng các phương thức và giải pháp phát triển xã
hội, hướng tới tương lai.
Sự biến đổi của cơ cấu
xã hội qua các thời kỳ khác nhau chính là phông nền để các biến đổi xã hội khác
diễn ra, sự biến đổi của cơ cấu xã hội tất yếu sẽ dẫn đến sự biến đổi của cấu
trúc xã hội và cả hệ thống xã hội. Nghiên cứu xã hội học về cơ cấu xã hội vì
vậy có một ý nghĩa quan trọng, thể hiện qua các khía cạnh sau:
- Nghiên cứu cơ cấu xã hội
cho phép chúng ta phác họa được một bức tranh tổng quát về các thành phần cơ
bản, các yếu tố cấu thành cũng như các mặt, các khía cạnh khác nhau của cơ cấu
xã hội tối ưu, phù hợp với thực tiễn xã hội, đảm bảo sự vận hành có hiệu quả,
thực hiện tốt các vai trò xã hội theo chiều hướng tiến bộ.
- Nghiên cứu cơ cấu xã
hội, đặc biệt là nghiên cứu sự phân hóa, phân tầng xã hội cho phép chúng ta đi
sâu vào phân tích thực trạng cấu trúc bên trong của xã hội, thực trạng của từng
mặt, từng tiểu cấu trúc, trong từng lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội. Qua đó
góp phần nhận diện một cách chân thực những đặc trưng và xu hướng biến đổi của
cấu trúc xã hội, khuynh hướng vận động và phát triển của một xã hội nhất định.
Kết quả đó sẽ là cơ sở khoa học quan trọng cho việc hoạch định chính sách để ổn
định và phát triển của xã hội.
- Việc nghiên cứu các
phân hệ của cơ cấu xã hội cung cấp cho chúng ta sự hiểu biết cặn kẽ về những sự
khác biệt trong mỗi tiểu cơ cấu. Qua đó giúp xã hội có thể tác động điều chỉnh
đến từng cơ cấu cụ thể, góp phần vào xây dựng một cơ cấu xã hội tối ưu cho sự
phát triển.
Ở Việt Nam hiện nay
với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với việc nghiên cứu và nhận diện cơ
cấu xã hội nước ta, thời gian qua đã có nhiều chương trình nghiên về cơ cấu xã
hội tạo ra những cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc hoạch định các chính sách
một cách đúng đắn và kịp thời, những chương trình nghiên cứu tập trung phân
tích những khía cạnh sau:[11]
- Nghiên cứu khái niệm
cơ cấu xã hội và các khái niệm khác có liên quan.
- Những vấn đề có tính
chất phương pháp luận và hệ thống lý thuyết về cơ cấu xhội.
- Những phân tích mang
tính chất thực nghiệm về các phân hệ cơ cấu xã hội cơ bản.
- Những hiện tượng như
phân tầng xã hội, tính cơ động xã hội, các đặc trưng và xu hướng chuyển đổi cơ
cấu xã hội nói chung.
- Những dự báo, đề xuất,
kiến nghị về việc xây dựng mô hình cơ cấu xã hội mới, những chính sách và biện
pháp quản lý, đổi mới, cải cách các loại thiết chế xã hội, đặc biệt là thiết
chế chính trị, pháp luật; những vấn đề chiến lược con người nói chung, chiến
lược về sự tuyển lựa cán bộ và nhân tài nói riêng.
CHƯƠNG 4. TỔ CHỨC XÃ HỘI
VÀ THIẾT CHẾ XÃ HỘI
I. Nhóm xã hội (Social group)
1. Quan niệm của xã hội
học về nhóm xã hội
Hiện nay có khá nhiều quan niệm, định
nghĩa, khái niệm khác nhau về nhóm xã hội. Khía cạnh chủ yếu mà xã hội học quan
tâm đến nhóm xã hội là sự tập trung vào phân tích cấu trúc nhóm, các vị thế,
các vai trò của nhóm trong cơ cấu xã hội, cũng như vị thế, vai trò xã hội của
các cá nhân thành viên của nhóm. Các nhà xã hội học đi đầu trong nghiên cứu
nhóm là G.Simmel, tiếp đến là T.Parsons, E. Mayo và những người khác.
Theo J.H. Fischer, nhóm là một tập hợp người có thể nhận thức được, có
cơ cấu tổ chức, có tính chất liên tục. Tập hợp đó bao gồm những con người có
những vị thế, vai trò nhất định, trong quan hệ tương tác qua lại với nhau, có
những quyền lợi và các giá trị chung, những mục tiêu xã hội chung cũng như đều
phải tuân theo những quy tắc, điều lệ chung của nhóm.[12]
Quan niệm của I. Robertsons, nhóm là một tập hợp người liên kết với nhau theo một
kiểu nhất định. Nói một cách khác, nhóm là một tập hợp người có liên hệ với
nhau về mặt vị thế, vai trò, những nhu cầu, lợi ích, trách nhiệm, quyền hạn và
những định hướng giá trị nhất định.[13]
Theo Gurvicth, nhóm là một đơn vị tập thể có sự thống nhất về tinh thần,
tình cảm, mục đích và phương thức hoạt động.[14]
Theo Barker
(1987), nhóm là “một tập thể người quy tụ lại với nhau do có cùng quyền lợi
hoặc mối quan tâm và có khả năng hành động chung một cách liền lạc và đồng bộ”.[15]
Trong ngành xã hội học, khái niệm
“nhóm” (group) hay “nhóm xã hội” (social group) được hiểu như là một tập hợp
người trong đó các cá nhân có những mối quan hệ tương tác lẫn nhau, và trong đó
tồn tại một kiểu cấu trúc nào đó. Như vậy, xét theo hai tiêu chuẩn đó, thì
những người tình cờ ngồi chung với nhau trên một chuyến xe buýt hay những người
cùng xem một bộ phim ở rạp đều không được coi là một nhóm xã hội.[16]
2. Phân loại nhóm xã hội
Có nhiều tiêu chí để phân loại nhóm xã
hội, tùy thuộc vào khía cạnh tiếp cận mà người ta có cách phân loại nhóm khác
nhau.
- Dựa trên cơ sở quy mô của số thành
viên người ta có thể phân loại thành nhóm lớn, nhóm vừa và nhóm nhỏ. Trong đó
các nhóm lớn được đặc trưng bởi những mối quan hệ gián tiếp, nhóm nhỏ đặc trưng
bởi mối quan hệ trực tiếp giữa các thành viên của nhóm.
- Dựa trên hình thức biểu hiện của mối
liên hệ giữa các thành viên người ta phân thành nhóm chính thức và nhóm phi
chính thức.
- Dựa trên cách thức gia nhập của
thành viên người ta có thể phân loại thành nhóm tự nguyện và nhóm áp đặt; nhóm
tự phát và nhóm có tổ chức.
- Dựa vào đặc điểm lao động, sản xuất
người ta cũng có thể phân loại nhóm theo những đặc trưng chung, chẳng hạn như
nhóm học sinh, nhóm giáo viên, nhóm công chức…
- Dựa vào tính chất tồn tại, người ta
cũng có thể phân chia nhóm thành nhóm quy ước và nhóm tự nhiên. Nhóm quy ước, là loại nhóm được hình
thành một cách nhân tạo do con người chủ định xây dựng hoặc phân chia các cá
nhân, các hộ gia đình thành những nhóm khác nhau để xem xét nhằm những mục tiêu
xác định. Nhóm tự nhiên, là những
nhóm có thực và tồn tại thực trong cuộc sống. Nền tảng của cơ cấu xã hội là
nhóm tự nhiên, tuy nhiên có thể nghiên cứu về nhóm quy ước để hiểu thêm về cơ
cấu của nhóm tự nhiên.[17]
- Mặt khác, từ lâu người ta đã phân biệt nhóm sơ
cấp và nhóm thứ cấp (Cooley, 1909). Cooley định nghĩa nhóm sơ cấp là những nhóm
tương đối nhỏ, có những quan hệ trực diện với nhau, cùng có mục tiêu chung, và
nhất là cùng có một cảm giác thân mật, thân thiện với nhau. Người ta có thể xếp
đây là những loại nhóm như gia đình, nhóm bạn bè, nhóm đồng nghiệp tại cùng nơi
làm việc… Nhóm sơ cấp là loại nhóm có nhiều ảnh hưởng tới đời sống tình cảm cá
nhân. Còn nhóm thứ cấp là loại nhóm có thể bao gồm số lượng người đông hơn,
trong đó các mối quan hệ giữa các cá nhân có thể không trực tiếp mà thường là
thông qua trung gian một số người khác, và nhất là thông qua những qui tắc tổ
chức và ứng xử rõ rệt. Nói cách khác, đây là loại nhóm xã hội trong đó các mối
quan hệ đã được định chế hóa, trong đó tuy cũng có thể có ý thức đoàn kết
chung, nhưng không mang tính chất gần gũi, gắn bó và tình cảm thân thiện giữa
từng cá nhân với nhau như một nhóm cơ bản.[18]
II. Tổ chức xã hội
1. Thế nào
là tổ chức?
Tổ chức có 2
ý nghĩa chính:
- Thiết lập cấu trúc của cơ sở: Tổ chức nghĩa là một
thể chế, một cơ quan, được thiết lập ra, nhằm những mục đích cụ thể (bệnh viện,
trường học,cơ quan nhà nước…). Nhiều nhà nghiên cứu tổ chức cho rằng sự ra đời
của tổ chức là một tất yếu nhằm để giải quyết những loại hình mục tiêu rất phức
tạp, nhằm bảo vệ những giá trị cần thiết của xã hội, nhằm giúp con người có thể
ra được sự thay đổi và quản lý được những thay đổi đó.
- Tiến trình làm cho cơ sở đó có tổ chức hơn. Theo ý
nghĩa này, tổ chức được hiểu là sự phân bố, phân công các thành viên của tổ
chức nhằm làm cho mục tiêu của tổ chức đó đạt được.
Theo Barnard (nhà nghiên cứu tổ chức) cho rằng tổ chức
hình thành khi con người giao tiếp với nhau và mong muốn hành động vì mục đích
chung.
Những yếu tố
của một tổ chức
Theo ông những yếu tố trong một tổ chức bao gồm:
- Sự giao tiếp (truyền thông, thông đạt)
- Quyết tâm phục vụ
- Vì một mục đích chung
Phân loại tổ
chức:
- Tổ chức chính thức
Đó là cơ cấu tổ chức được thừa nhận ở cơ sở trong đó
có ban điều hành, giám đốc và nhân viên
- Tổ chức không chính thức
Là sắp xếp ngoài cơ cấu chính thức, không thể quan sát
được, không vẽ sơ đồ tổ chức được, không thường xuyên, không có điều lệ và
không có kế hoạch.
+ Có xu hướng muốn lật đổ lãnh đạo nhóm chính thức
+ Tung tin đồn
+ Nói xấu
Tiến trình
tổ chức : Tổ chức theo chiều dọc và
theo chiều ngang
- Cấu trúc tổ chức theo chiều ngang bao gồm các phòng
ban chức năng.
- Cấu trúc tổ chức theo chiều dọc phân chia theo thứ bậc từ trên xuống hoặc từ dưới lên.
- Cấu trúc tổ chức theo chiều dọc phân chia theo thứ bậc từ trên xuống hoặc từ dưới lên.
2. Định nghĩa tổ chức chính thức[19]
Các tổ chức chính thức là những nhóm
người có cùng chung với nhau một mục đích cần phải đạt đến. Các thành viên
trong tổ chức phải tuân theo những nguyên tắc nhất định và các nguyên tắc này
được bảo hộ bởi một hệ thống thứ bậc rõ ràng.
Các tổ chức trong một quốc gia như nhà
máy, công ty, trường học, cơ quan hành chính sự nghiệp… là các tổ chức chính
thức và được tổ chức theo mô hình bộ máy Bureaucracy. Mô hình này trở nên phổ
biến khắp các quốc gia trên thế giới kể từ khi CNTB ra đời.
3. Khái niệm bộ máy “Bureaucracy”
Bộ máy Bureaucracy là một hệ thống bao
gồm thứ bậc quyền lực, nghĩa vụ và trách nhiệm. Hoạt động của bộ máy này có thể
hướng đến những mục đích riêng biệt. Trong hệ thống, hầu như tất cả các vị trí
của từng thành viên đã được chương trình hóa từ trước với nghĩa vụ và trách
nhiệm hết sức rõ ràng. Max Weber cho rằng hệ thống Bureaucracy hoạt động hiệu
quả hơn các tổ chức khác. Nó có thể huy động tối đa khả năng của người lao động
và giảm tối thiểu sức ép căng thẳng và sự va chạm xã hội, ngoài ra hệ thống này
còn tiết kiệm được thời gian.
4. Đặc tính của bộ máy Bureaucracy
M. Weber đã dành nhiều thời giaan
nghiên cứu về Bureaucracy và đã đưa ra một số đặc tính cơ bản sau:
Thứ nhất, chuyên môn hóa cao: Trong
hệ thống Bureaucracy mỗi cá nhân thực hiện một số nhiệm vụ hẹp được ấn định rõ
ràng theo quy chế. Trong hệ thống này các yêu cầu được chuyên môn hóa hơn các
tổ chức khác như hội đoàn. Do vậy nó tạo ra năng suất và hiệu quả cao, lợi thế
trong khâu đào tạo. Tuy nhiên, chuyên môn hẹp gây ra tâm lý nhàm chán do công
việc lặp đi lặp lại một cách đều đặn, đơn điệu trong một thời gian dài.
Thứ hai, tiêu chuẩn và chất lượng:
Mỗi một vị trí trong hệ thống đòi hỏi những tiêu chuẩn và chất lượng tương ứng.
Các cá nhân muốn được sắp xếp vào một vị trí nào đó trong hệ thống phải thỏa
mãn những tiêu chuẩn và chất lượng mà vị trí đó đòi hỏi. trước khi được đặt vào
một vị trí mỗi cá nhân buộc phải qua tuyển chọn và họ phải thõa mãn toàn bộ hay
phần lớn những yêu cầu tiêu chuẩn, chất lượng cơ bản mà công việc đòi hỏi.
Thứ ba, quy tắc và điều kiện thành văn:
Hoạt động của toàn bộ hệ thống, hay của từng bộ phận trong hệ thống cũng như
từng thành viên được thực hiện thao những quy tắc, quy chế, cơ chế hết sức rõ
ràng. Chúng được ghi thành văn bản và công khai. Các cá nhân lĩnh hội được
trách nhiệm, nhiệm vụ của mình qua các quy chế thành văn đó. Những nhân viên
mới khi thay thế cho nhân viên cũ sẽ dễ dàng tiếp nhận công việc qua một loại
quy định sẵn có.
Thứ tư, thứ bậc quyền lực: Trong hệ
thống Bureaucracy bao giờ cũng tồn tại một hệ thống thứ bậc quyền lực. Mỗi cá
nhân có một vị trí nhất định theo thứ bậc trên dưới. Cấp dưới phải chấp hành
cấp trên và chịu sự quản lý điều hành của cấp trên. Còn cấp trên có trách nhiệm
quản lý hiệu quả cấp dưới thông qua hệ thống kiểm soát, chấp hành, báo cáo,
điều chỉnh. Mỗi một vị trí trong hệ thống có một quyền hạn nhất định và kèm
theo đó là những trách nhiệm, nghĩa vụ, bổn phận và quyền lợi tương ứng. Tất cả
các tổ chức lớn hay nhỏ trong hệ thống Bureaucracy đều có sự ràng buộc, móc
xích với nhau.
Thứ năm, thờ ơ và lãnh đạm: Các qua
hệ diễn ra giữa các nhân công trong hệ thống Bureaucracy tương tự như các quan
hệ xã hội diễn ra ở trong nhóm thứ cấp (sự liên kết thông qua luật lệ và những
mục tiêu chung phải giải quyết của tổ chức). Trong hệ thống này, nhân công phải
sống và làm việc theo phận sự, nghĩa vụ với công việc diễn ra theo một chuyên
môn hẹp, ở trong một khoảng không gian chật hẹp, do vậy giữa họ ít có quan hệ
mặt đối mặt (face to face), thiếu cảm xúc, tình thân thiện. Người nhân công
luôn luôn đối mặt với các quy tắc, điều lệ và vật chất hữu hình của hệ thống
công chức hơn là với bằng hữu. Với họ chủ yếu là công việc. Chẳng hạn công nhân
trong một nhà máy có công việc tương tự nhau, số giờ làm việc như nhau, tiền
lương như nhau, cung cách làm việc giống nhau và ít có quan hệ với nhau. Mặc dù
kiểu quan hệ như thế mang tính chất thờ ơ và lãnh đạm nhưng trong một chừng mực
nhất định là cần thiết bởi vì nếu mọi người ứng xử với nhau thân thiết như nhóm
sơ cấp thì sẽ cản trở đến hoạt động của bộ máy.
Hiện nay trong công tác quản lý người
ta đang cố gắng làm cho hệ thống Bureaucracy cứng nhắc theo kiểu phương tây và
hệ thống quan lý theo kiêu gia đình ở châu Á xâm nhập vào nhau, học tập lẫn nhau.
III. Thiết chế
xã hội (định chế xã hội) [Social Institution]
1. Khái
niệm
Thiết chế, theo nghĩa đen, là cái gì đã được thiết lập, đã được đặt định
sẵn. Hiểu trong khuôn khổ xã hội học, thì thiết chế không phải là một nhóm
người, cũng không phải là một tổ chức hay một hiệp hội, như người ta thường
dung trong một số lĩnh vực khác. Ở đây, chúng ta hiểu thiết chế là một hệ thống
bao gồm những vai trò đã được thiết lập theo những chuẩn mực nhất định mà xã
hội thừa nhận.[20]
Theo I. Robersons, thiết chế là một tập hợp bền
vững các giá trị, chuẩn mực, vị thế, vai trò và nhóm vận động xung quanh một
nhu cầu cơ bản của xã hội. Ông cho rằng, một xã hội muốn tồn tại và phát triển
bình thường, phải tổ chức một cách có trật tự và hệ thống. Có nghĩa là, nó phải
được hình thành nên những mô hình hành vi, những khuôn mẫu, khuôn phép chung để
từ đó hành động cho phù hợp. Không thể nói đến sự tồn tại và phát triển của xã
hội mà lại không có thiết chế, tức là một xã hội không có kỷ cương, quy tắc đó.
I.Robersons còn cho rằng, thiết chế xã hội hay những mô hình hành vi của con
người được thiết chế hóa do những nhu cầu khách quan của các lĩnh vực hoạt động
xã hội khác nhau quy định.[21]
Theo
J.H. Fichter (1971), thiết chế xã hội chính là một đoạn của văn hóa đã được
khuôn mẫu hóa. Những khuôn mẫu tác phong của nền văn hóa đó được xã hội đồng
tình, khuyến khích sẽ có xu hướng trở thành các mô hình hành vi được mong đợi,
tức là các vai trò. Do vậy, thiết chế xã hội là một tập hợp các khuôn mẫu tác
phong được đa số chấp nhận nhằm thỏa mãn một nhu cầu cơ bản của nhóm xã hội.[22]
Theo N. Smelser, thiết chế là một tập hợp các vị thế và vai
trò có chủ định nhằm thỏa mãn những nhu cầu xã hội quan trọng.[23]
Theo G.V. Oxipov, thiết chế xã hội là tổ chức nhất định của
hoạt động xã hội và các quan hệ xã hội, được thực thi bằng hệ thống phối hợp
của những qui chuẩn về hành vi, chuẩn mực và giá trị, được định hướng một cách
hợp lý.[24]
Theo W.G. Sumner trong công trình Folkways đã định nghĩa
thiết chế là một khái niệm hay một cấu trúc hàm chứa một mục đích hay một chức
năng do một tổ chức có hệ thống gồm nhiều người tiến hành.[25]
Các thiết chế xã hội không bao giờ có thành viên, nhưng
chúng lại luôn luôn có những người thực thi. Đây là một sự phân biệt hết sức
quan trọng mà P.B. Horton nhấn mạnh, vì có nắm rõ được sự phân biệt này chúng
ta mới hiểu được thế nào là thiết chế.[26]
Như vậy, qua các định nghĩa trên ta có
thể thấy: thiết chế xã hội là hình thức cộng đồng và hình thức tổ chức của con
người trong quá trình tiến hành các hoạt động xã hội. Thiết chế xã hội chính là
các ràng buộc được mọi cá nhân, nhóm cộng đồng và toàn thể xã hội chấp nhận và
tuân thủ. Thiết chế xã hội biểu hiện là một tập hợp bền vững của các giá trị,
chuẩn mực, vị thế, vai trò và nhóm vận động xung quanh một nhu cầu cơ bản của xã
hội. Thực chất của thiết chế xã hội chính là hệ thống các quy định xã hội tạo
thành khuôn mẫu chuẩn mực cho hành động xã hội.
2. Các đặc
trưng của thiết chế xã hội
Để thực hiện vai trò trung tâm của sự
điều tiết xã hội, thiết chế xã hội phải có những đặc trưng cơ bản sau:
- Các thiết chế xã hội , đều không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của từng cá nhân, mà ngược lại đều được áp đặt lên cá
nhân qua quá trình xã hội hóa cá nhân.
- Mỗi vai trò, khi đã được thiết chế
hóa, đều bao gồm một loạt chuẩn mực mà xã hội đã đề ra và cá nhân phải tuân
theo, dù muốn hay không. Mục tiêu của thiết chế xã hội được đại đa số các thành
viên của xã hội thừa nhận, cho dù thành viên đó có tham gia trực tiếp hay không
vào trong thiết chế.
- Trong các thiết chế, ứng xử của mỗi vai
trò đều được lèo lái và quy định bởi những kỳ vọng xã hội đối với vai trò đó.
Các thiết chế xã hội phải thể hiện được các giá trị xã hội cơ bản được các
thành viên xã hội thừa nhận.
- Các quan hệ được thiết lập trong
thiết chế phải tương đối bền vững để các khuôn mẫu hành vi được hình thành
trong thiết chế trở thành một phần truyền thống văn hóa của một cộng đồng xã
hội.
- Khác với các tổ chức xã hội cụ thể thường sử
dụng văn bản nội quy hay điều lệ để điều phối hoạt động của mình, thì thiết chế
xã hội thường chỉ dựa trên những quy định và luật lệ bất thành văn, những cái
mà chúng ta thường gọi là phong tục, là truyền thống, là nề nếp… Phát triển ở
mức độ cao các thiết chế được luật hóa thành văn bản pháp luật để kiểm soát
hoạt động của xã hội.
- Mỗi một thiết chế xã hội có tính độc
lập tương đối, có tầm bao quát trong phạm vi hoạt động nhất định và trở thành
vị trí trung tâm trong phạm vi đó.
Mặc dù các thiết chế xã hội có tính
độc lập tương đối, nhưng giữa chúng có mối quan hệ tương tác với nhau rất chặt
chẽ. Khi có một sự thay đổi về cơ cấu tổ chức hay khuôn mẫu hành vi của một
thiết chế nào đó, có thể kéo theo sự thay đổi của các thiết chế ở lĩnh vực
khác.
3. Quá
trình thiết chế hóa[27]
Thiết chế là một sản phẩm của sinh
hoạt xã hội. Nó được định hình theo thời gian, khi mà một số ứng xử nào đó của
đời sống con người được lập đi, lập lại rồi dần dần biến thành tập quán, biến
thành cái mà chúng ta thường gọi là “phong tục” – tức là cái vô hình chung trở
thành những qui tắc và chuẩn mực của ứng xử.
Thiết chế hóa (institutionalization) chính là quá trình định hình của những chuẩn
mực mà con người ở mỗi vị trí và vai trò nhất định trong xã hội phải tuân theo
trong cung cách ứng xử của mình. Chuẩn
mực (norm) là điều mà xã hội mong
đợi và đòi hỏi cá nhân phải tôn trọng khi ứng xử trong tư thế của một vị trí và
vai trò nào đó.
Các mối quan hệ có thể được thiết chế
hóa khi (a) một hệ thống các vị trí và vai trò đã được phát triển, và (b) hệ
thống các chuẩn mực tương ứng với các vị trí và vai trò đó được đại đa số mọi
người trong xã hội thừa nhận.
Một thiết chế xã hội được hình thành
khi các vị trí và vai trò đã được “thiết
chế hóa” bằng các chuẩn mực. Nói cách khác, mỗi vai trò, một khi đã được
thiết chế hóa, đều được quy định bởi một loạt chuẩn mực về ứng xử (từ đó mới có
khái niệm “khuôn mẫu ứng xử” – behavior
pattern).
4. Chức
năng của thiết chế xã hội
Thiết chế xã hội có hai chức năng chủ yếu
Thứ nhất, khuyến khích, điều chỉnh, điều hòa hành vi của con người phù hợp với quy
phạm và chuẩn mực của thiết chế và tuân thủ thiết chế;
Thứ hai, ngăn chăn, kiểm soát, giám sát những hành vi lệch lạc do thiết chế quy
định.
Các chức năng của các thiết chế xã hội được thực hiện thông qua các nhiệm
vụ:
Thiết chế xã hội vốn là
những mô hình hành vi được đa số thừa nhận là chuẩn và thực hiện theo, do đó
các cá nhân sẽ không mất thời gian để suy tính, đắn đo xem cách thức hành động
đó là đúng hay sai để thực hiện hay không thực hiện. Nói cách khác, thiết chế
đã đơn giản hóa tác phong hành động, lề lối tư duy của cá nhân. Mọi thành viên
hành động theo thiết chế một cách tự động hóa.
Thiết chế xã hội cũng là tập
hợp các vai trò đã được chuẩn hóa - đó chính là các vai trò mà mọi cá nhân cần
phải học để thực hiện thông qua quá trình xã hội hóa. Nghĩa là, thiết chế cung
cấp cho cá nhân những vai trò có sẵn.
Thiết chế xã hội là yếu tố phối hợp và ổn định cho toàn thể nền văn hóa.
Nhìn chung, cá nhân ít khi hành động ngược lại các thiết chế; bởi lẽ, cung cách
tư duy và phong cách hành động đã được thiết chế hóa có ý nghĩa quan trọng đối
với con người. Thiết chế mang lại cảm giác yên tâm và an toàn cho các thành
viên tuân thủ nó, vì nó chính là cái mà xã hội cho là đúng, là chuẩn - thực
hiện theo nó tức là thực hiện theo đám đông, chỉ những thành viên không thực
hiện mới cảm thấy bất an vì bị xã hội lên án. ví dụ, đại đa số "trai lớn
lấy vợ, gái lớn gả chồng" là việc làm hết sức bình thường - đó là một
thiết chế.
Thiết chế xã hội luôn bao gồm những mong đợi của xã hội. Nhờ có những mong
đợi này của thiết chế mà cá nhân biết được mình sẽ phải hành động và suy nghĩ
thế nào trước những người khác. Trường hợp thiết chế xã hội thực hiện các chức
năng điều hòa và kiểm soát xã hội không đúng cách thức có thể dẫn đến các tác
động tiêu cực đối với xã hội - khi sự điều hòa và đặc biệt là, sự kiểm soát của
thiết chế quá mạnh sẽ triệt tiêu mọi sự sáng tạo của cá nhân, đồng thời thiết
chế sẽ mang tính bảo thủ. Tính bảo thủ này thể hiện ở chỗ nó cố gắng duy trì
những khuôn mẫu tác phong đã lạc hậu, lỗi thời. Các thiết chế này sẽ cản trở sự
tiến bộ của xã hội. Nhưng, khi sự kiểm soát và điều chỉnh các quan hệ xã hội
quá yếu của thiết chế có thể dẫn tới tình trạng các cá nhân, nhóm xã hội không
thực hiện tốt vai trò, thậm chí trốn tránh trách nhiệm của mình. Kết quả là
hoạt động từng phần hoặc toàn bộ xã hội bị đình trệ.
Giữa các thiết chế đôi khi có xảy ra sự di chuyển chức năng. Sự di chuyển
đó xảy ra khi xuất hiện một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau:
(1) Thiết chế không đáp ứng được nhu cầu;
(2) Các thiết chế đều có khả năng đáp ứng được yêu cầu, nhưng một trong số
đó nổi trội hơn, có khả năng đáp ứng ở mức cao hơn so với các thiết chế khác.
5. Các loại
thiết chế xã hội
Căn cứ để phân loại
- Tính phổ quát của thiết chế;
- Sự cần thiết của thiết chế;
- Tầm quan trọng của thiết chế.
Căn cứ vào ba đặc điểm trên, các nhà xã hội học chia các thiết chế xã hội
thành hai loại:
Thiết chế
chủ yếu - thiết chế cần thiết nhất cho xã hội và được coi là
quan trọng nhất cho lợi ích cá nhân và xã hội, và bao gồm các thiết chế sau:
(1) - Thiết chế kinh tế, mang chức năng sản xuất phân phối các sản phẩm và
dịch vụ.
(2) - Thiết chế chính trị, điều tiết việc nắm giữ và sử dụng quyền lực.
(3) - Thiết chế gia đình, liên quan đến hôn nhân, gia đình, họ hàng thân
tộc và quá trình xã hội hóa trẻ em.
(4) - Thiết chế giáo dục, liên quan đến quá trình xã hội hóa và khoa học.
(5) - Thiết chế văn hóa, liên quan đến các hoạt động văn hóa, tôn giáo,
truyền thông đại chúng, nghệ thuật.
Thiết chế
phụ thuộc - những thiết chế nhỏ và khác biệt nhau, nằm trong
thiết chế chủ yếu.
IV. Lệch lạc xã hội và kiểm soát xã hội
1. Chuẩn mực xã hội
Là những quy tắc ứng
xử. Mỗi nhóm đều có những chuẩn mực chung
và có những chuẩn mực riêng đối với các thành viên thực hiện các vai trò. Nó
được coi là những kì vọng vai trò gắn với những địa vị cụ thể.
2. Lệch lạc xã hội (lệch chuẩn xã hội)
2.1. Khái niệm
Người ta gọi bất kỳ hành
vi nào không phù hợp với mong đợi của một nhóm hoặc của xã hội là hành vi lệch
chuẩn. Nói cách khác, hành vi lệch chuẩn là hành vi lệch khỏi các quy tắc chuẩn
mực của nhóm hay xã hội. Nó là hậu quả của quá trình xã hội hoá không hoàn
toàn. Các ví dụ điển hình về hành vi lệch chuẩn trong xã hội ta hiện nay: giết
người, trộm cắp, điên loạn, tâm thần, tham ô, nghiện nghập, mãi dâm… Tuy nhiên, thế nào là lệch lạc vẫn còn là một
vấn đề tranh cãi. Bởi lẽ như đã định nghĩa, lệch lạc tùy thuộc vào quan điểm và
góc đứng nhìn vấn đề. Như trường hợp Nelson Mandela trước đây, đối với những
người da trắng Nam Phi ông là một người lệch lạc, đã bị bỏ tù vì chống lại luật
lệ của người Nam phi, nhưng đối với những người da đen ông ta lại là một người
anh hùng.
Để xác định một hành vi
có lệch chuẩn hay không, trước hết phải xác định các quy tắc văn hoá của xã hội
(nhóm) mà chủ thể hành vi đang sống. Trên cơ sở đó xác định mức độ phù hợp giữa
hành vi của cá nhân, nhóm với quy tắc đó. Một hành vi cá nhân, nhóm bao giờ
cũng là một hành vi xã hội. Nó có thể là bình thường hay lệch chuẩn, tuỳ thuộc
vào giá trị của nó đối với xã hội. Nó có thể được thừa nhận là đúng đắn trong
nền văn hoá xã hội này nhưng lại bị coi là lệch chuẩn so với văn hoá xã hội
khác. Đối với người Việt chúng ta ăn thịt heo hay thịt bò không thành vấn đề,
nhưng ăn thịt bò đối với người Chăm theo đạo Bàlamôn hay ăn thịt heo đối với
người Chăm theo đạo Hồi giáo là những hành vi lệch lạc.
2.2. Các
loại lệch lạc xã hội:
Không có một phương thức đơn giản hay phổ quát để phân loại
các hành vi lệch lạc. Tuy nhiên có thể phân biệt sự lệch lạc ở cấp độ cá nhân,
sự lệch lạc của một nhóm và sự lệch lạc ở cấp độ định chế:
- Lệch chuẩn cá nhân: Hành động của cá nhân không phù hợp với quy tắc
văn hoá của nhóm đã được xác lập trong thực tế đã bác bỏ các quy tắc đó gọi là
lệch chuẩn cá nhân. Ví dụ hành vi hư hỏng, trộm cắp…. trong gia đình có nền nếp
văn hoá. Hành vi hư hỏng này một mặt lệch ra khỏi chuẩn mực của giáo dục gia
đình, mặt khác đã phủ nhận giá trị của văn hoá gia đình.
- Lệch chuẩn nhóm:
Một nhóm thành viên có hành động trái với quy tắc mà đã được xã hội thừa nhận
là lệch chuẩn nhóm. Chẳng hạn, nhóm trẻ em hư, bụi đời, băng đảng Mafia… hành
động trái với những quy tắc, giá trị văn hoá chung nhưng họ còn định ra và hành
động theo một giá trị riêng (văn hoá nhóm) được mọi thành viên trong nhóm tán
thành. Điều đáng lưu ý là các quy tắc này của nhóm không phù hợp với các tiêu
chuẩn chung của xã hội.
2.3. Thành phần và nguyên nhân của lệch chuẩn xã hội
a. Thành phần cơ bản
trong các lệch chuẩn xã hội bao gồm 4 yếu tố:
- Giá trị xã hội:
là yếu tố của ý thức xã hội bao hàm và tích tụ các quan niệm, quan điểm chính
trị, đạo đức, tôn giáo, văn hóa …của con người, định hướng nhận thức và hành
động của con người nó được coi là nguồn gốc của động cơ và việc hình thành cơ
chế hành động. Đồng thời làm mẫu kiểm tra khi hành động trong thực tế. Giá trị
là cơ sở để chỉ ra cho con người hiểu cái gì là phù hợp và cái gì là không phù
hợp với cá nhân với cộng đồng xã hội.
- Thiết chế xã hội:
các thiết chế xã hội được hình thành và tác động trong các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội (như chính trị, kinh tế, tôn giáo….) Nó chính là tổng hợp
của các môi trường quan hệ xã hội đã được hợp thức hóa thành các chuẩn mực đã
được ổn định và được đảm bảo bằng những phương tiện nhân lực và vật chất nhằm
thực hiện một chức năng xã hội nhất định. Tuy nhiên trong thực tế sự rối loạn các
thiết chế xã hội là nguyên nhân gây ra những lệch chuẩn xã hội. Điều đó được
thể hiện như sau:
·
Biến
dạng các thiết chế gây ra sự căng thẳng xã hội và tạo ra xung đột vì thiết chế
xã hội không thực hiện được chức năng xã hội của nó.
·
Trong
thực tế có những thiết chế xã hội đã bị vô hiệu, do đó có ý muốn thay thế nó
bằng những quy định khác, chủ yếu là không chính thức.
·
Sự
rối loạn các thiết chế kéo dài, ảnh hưởng xấu đến đạo đức và hệ thống định
hướng xã hội
·
Sự
suy yếu các chức năng kiểm tra của thiết chế dẫn đến những kẻ vi phạm chuẩn mực
xã hội.
- Chuẩn mực xã hội:
chuẩn mực xã hội quy định những mục tiêu cơ bản, những điều kiện và những hình
thức ứng xử trong những lĩnh vực quan trọng nhất của đời sống xã hội hoặc đối
với nhóm xã hội. Do đó chuẩn mực xã hội giữ một vị trí rất quan trọng của lệch
chuẩn xã hội. Chuẩn mực xã hội không còn phù hợp hoặc bị thay đổi sẽ dẫn đến
những hành vi sai lệch.
- Quan hệ xã hội:
Quan hệ xã hội chính là quan hệ giữa người và người đã được hình thành và phù
hợp với bản chất kinh tế - xã hội của một xã hội nhất định. Khi các quan hệ xã
hội bị biến dạng có thể dẫn đến hành vi sai lệch của cá nhân.
Chúng ta có thể biểu diễn vai trò và các mối quan hệ giữa
các yếu tố trên theo sơ đồ sau:
|
|
|
|

- Nguyên nhân bên trong: bao gồm các yếu tố tâm lý cá nhân,
các yếu tố tâm lý xã hội và các yếu tố sinh học .
- Nguyên nhân bên ngoài: Bao gồm các yếu tố và điều kiện
kinh tế - xã hội, lối sống và quan hệ xã hội của con người.
3. Kiểm soát xã hội
3.1. Khái niệm
Kiểm soát xã hội là quá
trình mang lại sự đảm bảo cho mỗi cá nhân được quyền thực hiện các quy tắc xã
hội, duy trì sự tuân thủ các quy tắc đó, phát hiện và ngăn chặn, điều chỉnh các
hành vi lệch chuẩn và các nguyên nhân dẫn đến hành vi đó. Hay nói cách khác
kiểm soát xã hội là những phương thức mà một xã hội ngăn ngừa sự lệch lạc và
trừng phạt những người lệch lạc thường được gọi là sự kiểm soát xã hội. Kiểm
soát xã hội được xem như những phương cách mà xã hội thiết lặp và cũng cố những
chuẩn mực xã hội. Theo Janovitz kiểm soát xã hội là khả năng của một nhóm xã
hội, hay của cả xã hội trong việc điều tiết chính mình.
3.2. Các
hình thức kiểm soát xã hội:
- Tự kiểm soát (kiểm soát bên trong): Kiểm soát bên trong là quá
trình chủ thể xã hội (cá nhân, tổ chức, xã hội) tự theo dõi, kiểm tra, suy xét,
đối chiếu và đánh giá hành vi của mình so với các chuẩn mực và quy tắc xã hội.
- Kiểm soát xã hội (kiểm soát bên ngoài): là quá trình duy trì các
điều kiện đảm bảo cho việc tuân thủ các quy tắc xã hội và duy trì sự tuân thủ
đó của mọi cá nhân. Đồng thời bảo vệ trật tự xã hội, phát hiện ngăn chặn và phê
phán các cá nhân không thể hoặc không muốn nội tâm hoá các chuẩn mực giá trị xã
hội.
- Kiểm soát không chính thức: là sự kiểm soát xã hội không phải do
một thiết chế và tổ chức xã hội có chức năng rõ ràng tiến hành. Nó được thực
hiện như các nhóm sơ cấp như gia đình, bạn bè, nhóm làm việc hay các nhóm nhỏ
khác. Phạm vi của kiểm soát không chính thức rất lớn, bao quát toàn bộ các lĩnh
vực hoạt động và sinh hoạt của cá nhân.
- Kiểm
soát chính thức: Thường do một số thiết chế và tổ chức xã hội có chức năng
xã hội hoá đảm nhận. Chẳng hạn cảnh sát, toà án, nhà tù, các trung tâm giáo dục
thanh thiếu niên hư, trại phục hồi nhân phẩm, cai nghiện…. Hệ thống kiểm soát
chính thức bao giờ cũng có các điều luật, quy tắc thành văn do các tổ chức đảm
nhận, thực thi các điều luật đó bằng các hình phạt theo quy định ứng với từng
loại hành vi lệch lạc.
3.3. Tội
phạm và sự kiểm soát xã hội
Việc nghiên cứu phạm vi
ảnh hưởng của tội phạm thường được bắt đầu bằng những dữ kiện thống kê về tỷ lệ
tội phạm, bằng sự nghiên cứu về sự thay đổi, biến chuyển của các loại hình tội
phạm qua thời gian. Các phương pháp được sử dụng đẻ kiểm soát tội phạm cũng thay
đổi khi xã hội trở nên phức tạp hơn. Khác với xã hội cổ truyền, ở đó việc kiểm
soát tội phạm được giao cho gia đình và công xã, trong các xã hội rộng lớn,
phúc tạp hơn như các xã hội hiện đại người ta có xu hướng giảm thiểu khả năng
của các định chế địa phương trong việc kiểm soát tất cả các thành viên của xã
hội. Để giải quyết vấn đề những người lệch lạc, những xã hội phức tạp có xu
hướng phát triển những định chế được tiêu chuẩn hóa và ít nhiều có tính cách
cưỡng bức, ví như cảnh sát, tòa án, nhà tù, trung tâm cai nghiện, trung tâm phục
hồi nhân phẩm…
CHƯƠNG 5: XÃ HỘI HÓA CÁ NHÂN
I.
Vị thế xã hội và vai trò xã hội
1. Vị thế xã hội (địa vị xã hội – Social status)
1.1. Khái niệm
Vị thế xã hội hay địa vị xã hội là một
trong những khái niệm cơ bản trong nghiên cứu xã hội học, ở đó là việc xác định
hay định vị một cá nhân trong một đơn vị xã hội nhất định. Các nhà xã hội học
đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về định nghĩa, khái niệm thế nào là “vị thế
xã hội”.
- Khái niệm “vị trí” hay “vị thế” (status) được R. Linton (1936) định
nghĩa như một “vị trí trong hệ thống xã hội”. Hay chúng ta có thể nói ngược lại
là: xã hội là một mạng lưới được dệt nên
bởi các vị trí và vai trò.[28]
- Trong xã hội học Mỹ, thuật ngữ “social status” (vị thế xã hội) thường được hiểu theo hai nghĩa: (1) một vị trí “position” cụ thể nào đó trong cấu trúc
xã hội, chẳng hạn như vị trí người cha, vị trí một luật sư (mỗi vị trí này
tương ứng với một vai trò, như đã nói trên); (2) một vị thế xã hội bao quát hơn
(global status), theo nghĩa là toàn
bộ những đánh giá của xã hội (social
evaluations) đối với một cá nhân hay một nhóm – đánh giá về mặt uy tín, thế
lực, trọng vọng, danh dự (có lẽ tương với khái niệm “công danh sự nghiệp”).
Hiểu theo nghĩa thứ hai này, chữ “social
status” có lẽ cần được dịch chính xác hơn là “địa vị xã hội”. Như vậy, địa
vị xã hội [vị thế xã hội] của một
người là cái mà xã hội công nhận nơi người này một cách tương đối tồng quát xét
trong thang bậc xã hội. G.Lenski, cho rằng có bốn nhân tố quan trọng nhất cấu
tạo nên địa vị xã hội trong xã hội Mỹ, đó là: thu nhập, uy thế nghề nghiệp,
trình độ học vấn và chủng tộc.[29]
- Theo I. Robertsons, vị thế là một vị
trí xã hội. Mỗi vị thế quyết định chỗ đứng của một cá nhân hay nhóm xã hội
trong kết cấu xã hội cung như phương thức quan hệ, ứng xử của cá nhân và nhóm
xã hội đó với xã hội xung quanh.[30] - Theo J.H. Fischer, vị thế là vị trí của một người đứng
trong cơ cấu tổ chức xã hội theo sự thẩm định, đánh giá của xã hội. Vị thế xã
hội là vị trí (địa vị) hay thứ bậc mà những người đang sống chung với một người
nào đó dành cho anh ta một cách khách quan.[31] Ngoài ra Fischer đã chỉ
rõ rằng “Vị trí then chốt chính là “cửa
sổ” lớn nhất mà cá nhân mở ra cho bên ngoài tìm hiểu về mình và chính qua cái
cửa sổ đó mà xã hội sẽ quan sát và giải thích về những vị thế khác của anh ta”.[32]
Như vậy, ở đây ta thấy địa vị xã hội hay vị thế xã hội là một khái niệm khách quan, nó không phụ thuộc vào
chủ thể nắm giữ vị thế ấy trong tổ chức của hệ thống xã hội mà anh ta đang sinh
sống. Ở đó là sự sắp xếp, thẩm định hay đánh giá của xã hội dành cho cá nhân và
nói đến vị thế xã hội là nói đến vị trí, thứ bậc cao thấp trong thang bậc xã
hội của cộng đồng mà cá nhân đó tương tác.
1.2. Đặc điểm của vị thế
xã hội
Một số đặc điểm cần lưu ý khi nghiên
cứu vị thế xã hội:[33]
- Vị thế xã hội không nhất thiết gắn
với người có uy tín và địa vị xã hội cao.
- Vị thế không thuần túy phụ thuộc vào ý kiến chủ quan
của mỗi người về chính mình.
- Vị thế của mỗi người cần đối chiếu
hay gắn với những tiêu chuẩn khách quan của xã hội.
- Vị thế của mỗi người là vị trí xã
hội mà những người đang sống trong cộng đồng với người đó dành cho họ, đánh giá
hay suy tôn họ. Đây là tiêu chuẩn khách quan nằm ngoài mong muốn chủ quan của
con người.
- Vị thế xã hội của mỗi người có tính ổn định
tương đối; nó không đơn giản phụ thuộc vào những ý kiến đánh giá thay đổi thất
thường của những người xung quanh.
Ba đặc trưng cơ bản mà thông qua đó vị thế xã
hội của mỗi người được thể hiện, đó là: quyền lực xã hội, quyền lợi và trách
nhiệm.[34]
- Quyền lực xã hội là quyền lực của một vị thế
xã hội nào đó được xã hội thừa nhận hoặc trao cho cá nhân để thực hiện vai trò
của mình trong xã hội.
- Quyền lợi xã hội là những điều kiện vật chất
và tinh thần mà mỗi vị thế xã hội có được từ xã hội.
- Trách nhiệm xã hội là những quy định của xã
hội đối với kết quả và hậu quả của việc thực hiện quyền lực xã hội ở mỗi vị thế
xã hội nhất định.
1.3. Nguồn gốc và các
yếu tố tạo thành vị thế xã hội
- Dòng dõi
- Của cải
- Nghề nghiệp
- Chức vụ và quyền lực do chức vụ đó
mang lại
- Trình độ học vấn
- Cấp bậc, chức sắc trong tôn giáo,
dòng họ, làng bản…
- Những đặc điểm về sinh lý, giới tính
Ở Mỹ người ta cho rằng có bốn yếu tố
cấu thành nên vị thế xã hội của cá nhân, bao gồm:
- Thu nhập
- Uy thế nghề nghiệp
- Trình độ học vấn
- Chủng tộc
1.4. Các loại vị thế xã
hội
Trong việc phân loại vị thế xã hội tùy
thuộc vào lát cắt mà người ta có thể phân chia khác nhau, sau đây là cách phân
chia theo một vài lát cắt cơ bản:
- Căn cứ vào tình trạng tự nhiên và xã
hội chúng ta có hai loại vị thế: vị thế có sẵn [hay còn gọi là vị thế xuất thân, vị thế chỉ định] và vị
thế giành được.
+ Vị
thế có sẵn [hay còn gọi là vị thế
xuất thân, vị thế chỉ định], đó là loại vị thế xã hội mà bất kỳ cá nhân nào
cũng nhận được ngay khi mới chào đời do nguồn gốc xuất thân từ cha mẹ của đứa
trẻ quyết định như tôn giáo, chủng tộc, sắc tộc, dòng dõi, gia thế, nghề
nghiệp…
+ Vị
thế giành được, đó là những vị trí mà cá nhân có được khi đã trưởng thành.
Cá nhân giành được chúng bằng sự nỗ lực không ngừng, bằng tài năng, học vấn,
bằng sự chịu khó chăm chỉ và không thể không tính đến cả cơ may và những thủ
đoạn mà cá nhân dung để đạt được vị thế xã hội đang nắm giữ.
- Căn cứ vào vai trò và tầm ảnh hưởng
của từng vị thế mà người ta cũng có thể phân chia thành vị thế then chốt và vị
thế không then chốt.
+ Vị
thế then chốt, còn gọi là vị thế chủ đạo (phụ thuộc vào hai yếu tố: Do
chính bản thân con người tạo ra và phụ thuộc vào trật tự ưu tiên trong thang
giá trị hiện hành), vị thế then chốt luôn đóng vai trò chi phối, chế ước lên
chính toàn bộ nhân cách xã hội của cá nhân như J.H. Fischer đã từng đề cập và
ông coi nó như “cửa sổ” để cá nhân,
xã hội đánh giá về vị thế xã hội của cá nhân đó.
+ Vị
thế không then chốt, là những vị thế không giữ vai trò cơ bản, chủ đạo
trong việc quy định đặc điểm và hành vi xã hội của cá nhân.
Bản thân mỗi cá nhân tồn tại trong xã
hội đã là sự tổng hòa của nhiều loại vị thế khác nhau và các vị thế này thường
là hòa hợp với nhau, tác động và bổ sung cho nhau. Tuy nhiên, vẫn có thể diễn
ra tình trạng xung đột, mâu thuẫn giữa các vị thế trong một cá nhân.
Ở tình trạng hòa hợp các vị thế sẽ là
điều kiện thuận lợi để cá nhân hoàn thành được vai trò xã hội của mình.
Ở tình trạng mâu thuẫn vị thế sẽ gây
ra những rào cản để cá nhân hoàn thành các vai trò được mong đợi của mình. Và
người ta thường dung thuật ngữ “status
inconsistency”(mâu thuẫn giữa các vị thế) để chỉ tình trạng không ổn định
về mặt địa vị hay vị thế xã hội. Từ điểm này G. Lenski đưa ra khái niệm “status crystallization” (kết tinh vị thế) để
chỉ tình trạng tương hợp giữa các vị thế. Khi gặp tình trạng mâu thuẫn giữa các
vị thế, người ta hoặc là mong muốn thay đổi về cơ bản hệ thống phân tầng xã
hội, hoặc là cố gắng “kết tinh” các vị thế của mình lại với nhau cho nhất quán.
Thông thường tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp là ba loại vị thế dễ xảy ra mâu
thuẫn nhất trong một xã hội.[35]
Công trình nghiên cứu của Miyamoto và Dornbusch (1956), đã chứng
minh cho thấy là việc tự đánh giá của mỗi người về địa vị xã hội của mình thực
ra cũng phản ánh lại cách đánh giá của người khác về mình. Họ đề nghị người
điều tra lượng giá về chính mình và về những người xung quanh trong nhóm của
mình xét về mức thông minh, tính dễ mến, sự thu hút và về mức độ tin cậy. Kết quả
cho thấy cách lượng giá của mỗi người về chính mình có hệ số tương quan rất
chặt chẽ với cách đánh giá của người khác về mình.[36]
1.5. Vị thế xã hội và
địa vị tổng quát, phân lớp xã hội, cơ động xã hội[37]
- Vị thế xã hội và địa vị tổng quát,
liên quan đến vị thế tổng quát, đó là sự tổng hòa của các vị thế, địa vị của
một cá nhân, vị thế tổng quát tạo thành đặc trưng nổi bật về mặt nhân cách của
mỗi cá nhân. Tuy nhiên, không nên đồng nhất địa vị tổng quát với vị thế then
chốt.
- Vị thế và phân lớp xã hội, trong
phân lớp xã hội, tầng xã hội là thứ bậc của một nhóm người có cùng chung một vị
thế. Vị thế có thể là vị thế của một người, nhưng tầng xã hội luôn là tổng thể
của nhiều người có cùng vị thế, địa vị và hoàn cảnh xã hội.
- Vị thế và cơ động xã hội, do sự
không ngang bằng nhau giữa các cá nhân trong xã hội (cả mặt tự nhiên và xã hội)
mà luôn luôn tồn tại sự chênh lệch nhau về thang bậc của những cá nhân trong
một xã hội. Tuy nhiên, những vị thế này không phải là bất biến mà luôn có sự
biến đổi, thay thế cho nhau, gọi là cơ động xã hội. Sự thăng tiến hay tụt xuống
về thang bậc xã hội gọi là sự cơ động xã hội theo chiều dọc. Mặt khác, cũng có
sự dịch chuyển vị trí xã hội song chưa có sự thay đổi về mặt vị thế gọi là cơ
động xã hội theo chiều ngang.
1.6. Cơ chế sắp đặt vị
thế xã hội[38]
Mỗi
xã hội đều có cơ chế sắp đặt vị thế xã hội, tức là mỗi cá nhân có được vị thế
xã hội cho bản thân bằng các cơ chế nhất định. Hiện nay có ba cơ chế cơ bản sau
để sắp đặt vị thế xã hội. Đó là, cơ chế tiến cử, cơ chế bầu cử và cơ chế thi
cử.
- Cơ
chế tiến cử, là cơ chế trong đó một cá nhân được một cá nhân hay tổ chức đề
bạt với cấp trên bổ nhiệm vào một vị thế xã hội nào đó.
- Cơ
chế bầu cử, là cơ chế trong đó cộng đồng lựa chọn một cá nhân hoặc một nhóm
người lãnh đạo cộng đồng bằng các hình thức bỏ phiếu lựa chọn.
- Cơ
chế thi cử, là cơ chế trong đó người được bổ nhiệm vào vị thế xã hội phải
trãi qua một kỳ thi giám định khả năng làm việc hoặc qua một hội đồng giám định
khả năng làm việc.
Trong bất kỳ xã hội nào người ta cũng
sử dụng ba cơ chế trên, song khuynh hướng sử dụng cơ chế ở các loại vị thế xã
hội khác nhau có khác nhau tùy thuộc vào bản chất của xã hội đó và tùy thuộc
vào ưu nhược điểm của mỗi loại cơ chế.
2. Vai trò xã hội (Social role)
2.1. Khái niệm
G.H. Mead (nhà xã hội học người Mỹ, thuộc trường phái lý thuyết tương tác biểu
trưng của trường Đại học Tổng hợp Chicago ),
là người đầu tiên đưa thuật ngữ Vai trò
xã hội (Social role) vào trong
khoa học lần đầu tiên vào năm 1934. Thuật ngữ này bắt nguồn từ việc người diễn
viên đóng vai và diễn trò trên sân khấu. Có thể nói vai trò xã hội là khái niệm
để chỉ sự mong đợi xã hội đối với hành vi diễn xuất của một cá nhân trong một
tình huống xã hội cụ thể và trong một khung cảnh xã hội nhất định.
- Theo Ralph Linton (1936), coi vai
trò là những lối ứng xử đã được qui định sẵn và áp đặt, tương ứng với những vị
trí cụ thể nhất định.[39]
- Theo Jean Stoetzel, “Vai trò như là tập hợp ứng xử của mỗi cá
nhân mà mọi người khác chờ đợi”.[40]
- Theo I. Robertsons, vai trò là tập hợp
các chuẩn mực, hành vi, nghĩa vụ và quyền lợi gắn với một vị thế nhất định.[41]
- Theo J.H. Fischer, sự phối hợp và
tương tác qua lại của các khuôn mẫu được tập trung thành một nhiệm vụ xã hội
gọi là vai trò. Nói một cách khác, vai trò là những hành động, hành vi ứng xử,
những khuôn mẫu tác tác phong mà xã hội chờ đợi, đòi hỏi một người hay một nhóm
xã hội nào đó phải thực hiện trên cơ sở vị thế của họ.[42]
Vai trò xã hội của một người có nghĩa
là người đó phải đảm nhận hay thể hiện đầy đủ các hành vi, nghĩa vụ, hệ thống
chuẩn mực trên cơ sở vị thế của người đó. Đồng thời họ cũng nhận được những
quyền lợi xã hội tương ứng với việc thực hiện vai trò của họ. Như vậy ta thấy
rằng, khái niệm vai trò xã hội có sự liên hệ gắn bó chặt chẽ với khái niệm vị
thế xã hội, hay có thể nói vị thế nào thì
vai trò ấy. Trong suốt cuộc đời của mình các cá nhân chiếm giữ nhiều vị thế
khác nhau do đó họ cũng phải diễn nhiều vai trò khác nhau, trong một thời điểm
nào đó cá nhân nắm giữ cùng lúc nhiều vị thế thì họ cũng đồng thời phải diễn
nhiều vai trò cùng một lúc.
Chúng ta có thể coi mỗi cá nhân hiện hữu trong
xã hội chính là hiện hữu qua các vai trò xã hội, và rằng các cá nhân khi thực
hiện hành vi giao tiếp với nhau chính là giao tiếp qua các vai trò xã hội và
chỉ qua các vai trò xã hội chúng ta mới có thể thực hiện được cái gọi là “quan hệ xã hội”.[43]
2.2. Những vấn đề cần
lưu ý khi nghiên cứu vai trò xã hội
- Một vai trò xã hội có thể có nhiều
mức độ biểu hiện, hay những sắc thái khác nhau về khuôn mẫu tác phong.
- Vai trò không chỉ bao gồm những
khuôn mẫu tác phong biểu hiện ra bên ngoài mà còn bao hàm cả những khuôn mẫu
nội dung tinh thần ở bên trong.
- Nội dung của bất kỳ vai trò xã hội
nào cũng luôn được liên hệ với những vai trò xã hội khác.
- Giới hạn của sự co giãn trong mức độ
biểu hiện của vai trò. Mức độ biểu hiện của vai trò có sự co giãn nhất định,
nhưng mức độ co giãn chỉ được chấp nhận đến một giới hạn nhất định, vượt khỏi
giới hạn đó thì sẽ dẫn đến sai lệch; có nghĩa là người ta sẽ không làm đúng vai
trò của mình nữa.
- Căng thằng và xung đột vai trò. Căng
thẳng vai trò xảy ra khi khi cá nhân thấy rằng vai trò không thích hợp và họ
khó khăn trong việc thực hiện vai trò đó, nhất là những vai trò được nhiều
người mong đợi, kỳ vọng quá nhiều. Xung đột vai trò xảy ra khi cá nhân cùng lúc
chiếm giữ hai hay nhiều vị thế, vai trò và khi cá nhân tham gia nhiều nhóm xã
hội khác nhau, họ phải đáp ứng những mong đợi của những nhóm xã hội khác nhau,
nhiều khi những mong đợi đó xung đột với nhau về lợi ích.
- Vai trò và nhân cách. Theo J.H.
Fischer, trên phương diện xã hội học, nhân cách xã hội là toàn bộ những vai trò
của cá nhân, nhân cách xã hội chính là hệ thống toàn vẹn của những vai trò làm
trung gian trong những nhóm, những đoàn thể, những tổ chức xã hội mà cá nhân
thực hiện những vai trò của mình.
- Một người không chỉ có một vai trò
mà có nhiều vai trò. Một người nào đó tham gia vào bao nhiêu đoàn thể xã hội
thì có bấy nhiêu vai trò. Mức độ nhiều hay ít các vai trò phụ thuộc vào mức độ
tham gia nhiều hay ít của một người nào đó vào các đoàn thể, tổ chức xã hội.
- Nghiên cứu vai trò cũng cần phân
biệt giữa những vai trò chung trừu tượng với vai trò cụ thể.
2.3. Những kỳ vọng nơi
vai trò và sự cưỡng chế của xã hội[44]
Khi đảm nhận một vai trò nào đó, người
ta luôn chú ý đáp ứng lại những điều mà người khác kỳ vọng hay mong đợi nơi
mình. Quá trình xã hội hóa chính là quá
trình mà mỗi cá nhân học cách đóng các vai trò của mình trong xã hội, để gia
nhập vào xã hội.
Trong cuộc sống, do những vai trò đều
có những kỳ vọng riêng mà xã hội đòi hỏi, nên mỗi khi phải đảm nhận một vai trò
mới, nhân cách của mỗi người cũng có thể thay đổi theo.
Vấn đề kiểm soát và cưỡng chế của xã
hội đối với cá nhân đó là những kỳ vọng và đòi hỏi của xã hội nơi mỗi vai trò
có phải là những điều hoàn toàn áp đặt đối với mỗi cá nhân chúng ta hay không?
Người ta thường phân biệt ba loại kỳ vọng mà xã hội và các nhóm xã hội thường
có để thúc đẩy cá nhân tuân thủ các qui tắc xã hội. Đó là:
- Kỳ vọng tất yếu (attentes nécessaire), là loại kỳ vọng mà xã hội buộc cá nhân phải
tuân thủ bằng mọi giá. Thường gắn với luật pháp.
- Kỳ vọng mang tính chất nghĩa vụ (attentes obligatoires), trong nhiều nhóm
xã hội, các kỳ vọng đối với thành viên trong nhóm tuy cũng là điều bắt buộc,
nhưng không mang tính chất cưỡng bức và không dẫn tới những biện pháp gắt gao
như trong trường hợp trên.
- Kỳ vọng không cưỡng chế (attentes facultatives), trong một số
nhóm xã hội, khi một thành viên đi ngược lại kỳ vọng của nhóm hoặc vi phạm nội
quy của nhóm, người này sẽ không bị đe dọa hứng chịu biện pháp cương bức cụ thể
nào. Nhóm chỉ áp dụng những áp lực tinh thần để tác động vào các thành viên.
Bên cạnh những biện pháp chế tài mang
tính chất trừng phạt như nói trên xã hội còn có những biện pháp chế tài tích
cực: khen ngợi và thưởng. Đối với những kỳ vọng bắt buộc, thì khi làm đúng theo
kỳ vọng này, cá nhân làm tròn nhiệm vụ của mình. Nhưng còn đối với những kỳ
vọng không bắt buộc, thì thường kèm theo những hình thức khen thưởng tích cực.
Áp lực xã hội thực ra được thực hiện
chủ yếu thông qua những biện pháp tích cực hơn là tiêu cực. Những biện pháp về
mặt hành chính hay pháp lý thường chỉ được áp dụng nhằm đạt được một trật tự xã
hội tối thiểu nào đó; trong khi đó, toàn bộ xã hội muốn vận hành tốt đòi hỏi
nhiều biện pháp mang tính chất tích cực hơn.
2.4. Các loại vai trò xã
hội
Tùy theo những dấu hiệu phân tích khác
nhau mà có những vai trò khác nhau. Trong nghiên cứu người ta thường phân ra
các loại vai trò sau:
- Vai trò chế định, đây là loại vai
trò mà khi cá nhân thực hiện nó buộc phải tuân theo những diễn xuất theo những
cách thức nhất định do một tổ chức chính thức nào đó quy định và kèm theo đó là
những biện pháp, chế tài. Các cá nhân phải hành động theo những khuôn mẫu đã
được vạch sẵn. Để đóng được các vai trò chế định cá nhân thường phải trãi qua
những khóa học tập, huấn luyện để có được những kiến thức và kỹ năng cần thiết
mà vai trò đó đòi hỏi.
- Vai trò thường nhật, đây là loại vai
trò mà chúng ta thường xuyên đóng và liên tục thay đổi chúng trong đời sống thường
ngày. Đối với loại vai trò này cá nhân không cần phải trãi qua học tập, tập huấn mà chỉ cần bắt chước,
học hỏi một cách đơn giản là có thể đóng được. Vai trò thường nhật là loại vai
trò chiếm đại đa số trong tổng số vai trò mà chúng ta đóng trong suốt cuộc đời.
- Vai trò kỳ vọng, là loại vai trò khi
mà cá nhân đóng nó sẽ nhận được rất nhiều sự mong đợi, niềm tin và hy vọng từ
rất nhiều cá nhân, nhóm xã hội khác gửi gắm vào vai trò đó và cá nhân có trách
nhiệm đáp lại sự mong mỏi đó. Có những vai trò mà khi cá nhân đóng nhận được sự
mong đợi của cả một cộng đồng, một quốc gia, một dân tộc.
- Vai trò gán, là loại vai trò mà các
cá nhân có được do một tổ chức xã hội chính thức hay một nhóm người nào đó gán
cho qua kết quả của một lựa chọn, bình xét hay tôn vinh.
- Vai trò chỉ định, là loại vai trò
gán cho một người nào đó từ bên ngoài mang tính chất tự nhiên “tự động” mà
người đó dù muốn hay không muốn cũng không thể tự mình lựa chọn được.
- Vai trò tự chọn, là loại vai trò mà
cá nhân có thể lựa chọn theo ý muốn để đi đến quyết định là đóng hay không
đóng.
- Vai trò cao: tổng thống, bộ trưởng….
- Vai trò thấp: gác cổng, lao công….
- Vai trò phức tạp và vai trò ít phức
tạp
- Vai trò then chốt và vai trò không
then chốt
- Vai trò tổng quát, đó là sự phối hợp
của các vai trò khác nhau trong một con người tạo ra bộ mặt chung – đặc trưng
cho người đó, hay có thể gọi nó là nhân cách của cá nhân đó.
Theo T. Parsons, thì có 5 dạng biểu
hiện của vai trò, đó là:[45]
+ Một số vai trò đòi hỏi sự kiềm chế
tình cảm khi thực hiện, trong khi một số khác thì không.
+ Một số vai trò dựa trên vị thế, vị
trí đã có sẵn.
+ Một số vai trò định hẹp còn một số
khác lại được xác định rộng.
+ Một số vai trò đòi hỏi các cá nhân
có thái độ ứng xử với mọi người theo quy tắc chung. Ngược lại một số vai trò
khác đòi hỏi phải đối xử với người khác theo cách đặc thù vì những mối quan hệ
xã hội đặc biệt với họ.
+ Các vai trò xã hội khác nhau thì có
động cơ xã hội khác nhau.
2.5. Sự khác biệt giữa
vị thế và vai trò
Giữa vị thế xã hội và vai trò xã hội
có sự khác nhau tương đối. Nếu vị trí xã hội (ở đây xét theo khía cạnh địa vị
xã hội) thường mang tính ổn định khá cao trong một thời gian dài, thường được
một tổ chức xã hội nào đó thừa nhận, thì vai trò xã hội lại không ổn định mà luôn
luôn có sự thay đổi tùy theo từng tình huống xã hội và khung cảnh xã hội. Nếu
địa vị xã hội trả lời cho câu hỏi: anh là ai?, thì vai trò xã hội trả lời cho
câu hỏi: anh cần diễn xuất như thế nào? Cần phải làm gì? trong tình huống đó,
khung cảnh đó. Địa vị xã hội có thể xem như một cái trục định vị cá nhân thì
vai trò xã hội có thể được xem như những biểu hiện đa dạng, phong phú quanh nó.
Trong một số thời điểm địa vị và vai trò chồng lên nhau, nhưng số đó không
nhiều lắm, bởi vì địa vị xã hội hữu hạn hơn nhiều so với vai trò xã hội.[46]
2.6. Mối quan hệ giữa vị
thế và vai trò[47]
Vị thế và vai trò luôn gắn bó mật
thiết với nhau. Không thể nói tới vị thế mà không nói tới vai trò và ngược lại.
Vai trò và vị thế là hai mặt của một vấn đề.
Vai trò phụ thuộc vào vị thế (vị thế
nào vai trò ấy). Theo lý thuyết Nho giáo của Khổng Tử, mối quan hệ giữa vị thế
và vai trò chính là vấn đề “chính danh định phận”, có nghĩa là con người luôn
phải vận động, ứng xử theo cái danh, cái phận tức là vị trí xã hội của họ.
“Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” – Vua phải hành động ra vua, bề tôi phải
hành động ra bề tôi, cha ra cha, con ra con, vợ ra vợ, chồng ra chồng.
Trong xã hội hiện đại ngày nay, chúng
ta có thể chỉ ra vô số những ví dụ minh chứng cho mối quan hệ này.
Một vị thế có thể có nhiều vai trò. Ví
dụ: giáo sư đại học là một vị thế, nhưng có thể thực hiện nhiều vai trò khác
nữa.
Trong mối quan hệ giữa vị thế và vai
trò thì vị thế thường ổn định hơn, ít biến đổi hơn, còn vai trò thì động hơn
hay biến đổi hơn.
Sự biến đổi của vai trò phụ thuộc vào
sự biến đổi của vị thế, vị thế biến đổi thì vai trò cũng biến đổi… Sự biến đổi
của vai trò phụ thuộc vào sự biến đổi của vị thế qua mỗi giai đoạn cụ thể của
từng cá nhân cũng như nhóm xã hội.
Vai trò và vị thế thường thống nhất
với nhau, song đôi khi cũng gặp phải những mâu thuẫn, gây ra tình trang xung
đột giữa vị thế và vai trò.
II.
Xã hội hóa cá nhân
Xã hội hóa là
một trong nhưng khái niệm cơ bản của xã hội học. Trong lý thuyết đồng cảm, các
nhà xã hội học đã sử dụng khái niệm này cùng với khái niệm văn hoá để giải
thích đời sống xã hội. Nhờ quá trình xã hội hoá, chúng ta có khả năng giao tiếp
với nhau, nắm vững các vai trò xã hội nhất định của mình và thậm chí xã hội tạo
điều kiện cho sự duy trì bản thân xã hội.
Vậy xã hội hoá
là gì? Bằng cách nào xã hội hoá mang lại cho chúng ta khả năng hành động qua
lại và bảo đảm sự giữ gìn, duy trì xã hội trong quá trình thay thế các thế hệ.
Có những điều kiện gì để tồn tại xã hội hoá và ảnh hưởng của xã hội hoá tới cấp
độ vi mô và vĩ mô của xã hội như thế nào?
1. Một số
quan niệm về “con người xã hội”
a)
Quan niệm khác nhau về con người xã hội
Trong lịch sử tư tưởng, có rất nhiều
cách tiếp cận về vấn đề con người:
- Theo quan
niệm duy tâm, con người được giải thích từ sáng tạo và chi phối của thánh thần
và từ ý thức trừu tượng. Việc giải thích con người theo quan điểm này không đem
lại ý nghĩa tích cực trong cuộc sống.
- Theo quan
niệm duy vật, từ thời Arixtốt đến các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII đều cho
rằng, con người là một sinh vật – xã hội, “sinh ra đã có tính xã hội”. Quan
điểm này cho rằng, bản chất con người chỉ ở mặt tự nhiên của nó. Ngay cả
Phơbách cũng chỉ mới dừng lại ở chủ nghĩa nhân bản tự nhiên, bởi vì theo nhận
thức của ông, con người chỉ là một cá nhân trừu tượng, một sinh vật thuần tuý
về sinh học.
- Theo quan
điểm mácxít, xuất phát từ hoạt động thực tiễn của con người, C.Mác cho rằng,
bản chất con người chính là nhân cách. Nhân cách ấy tìm thấy bản chất trong các
mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Mác vẫn thừa nhận tính sinh vật
trong chỉnh thể người.
Con người là đối tượng nghiên cứu
của nhiều ngành khoa học:
+ Là một đơn
vị sinh lý, con người là đối tượng được nghiên cứu của các nhà sinh học và y
học…
+ Những giá
trị trong cuộc sống tình thần của con người được nghiên cứu trong đạo đức học,
triết học, luật học…
+ Là đơn vị
tâm lý có những nhu cầu và trạng thái tâm lý phức tạp, con người là đơi tượng
tìm hiểu của các nhà tâm lý học, phân tâm học, thần kinh học…
Xuất phát từ
những lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, các nhà khoa học có những quan điểm khác
nhau về bản chất con người. Hiện nay có ba loại quan điểm khác nhau về vai trò
của yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người.
b) Quan niệm của các nhà xã hội học về con người xã hội.
Do nghiên
cứu từ nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội, các nhà xã hội học cũng
có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất con người.
- Quan niệm
của các nhà xã hội học theo thuyết sinh hoá:
Quan niệm
này cho rằng, yếu tố sinh học quyết định sự hình thành hành vi, tích cách của
con người. Tính di truyền ảnh hưởng lớn tới hành vi của con người. Họ tin ở sự
tồn tại của cái gọi là bản năng con người. Họ cho rằng, sự tổng hoà của những
tố chất di truyền hay những khuynh hướng di truyền xác định hành vi của con
người cụ thể. Phrớt đại diện cho quan điểm này cho rằng, con người như là cá
thể sinh vật đối lập với xã hội và xem sức mạnh của con người là sức mạnh khả
năng vô thức, trong đó, đam mê tình dục giữ vai trò chủ đạo. Quan điểm này
không thấy được khả năng của con người sử dụng những biểu tượng và lập luận
lôgíc, thích nghi cao để nắm được những kiểu hành vi nhất định, tạo nên thể chế
xã hội, điều hoà việc sử dụng hoặc vượt qua những nhân tố sinh học.
- Quan niệm
của các nhà xã hội học theo thuyết quyết định luận xã hội học:
Quan niệm
này cho rằng, nhân cách được hình thành trên cơ sở đa số những sự tác động của
con người với thế giới xung quanh. Nó là sản phẩm của xã hội và được hình thành
trên cơ sở của mối quan hệ qua lại giữa con người với con người. Đại biểu cho quan
niệm này là C. H. Cooley ; G. Mead…
- Bên cạnh
quan niệm sinh học hoá cũng như quyết định luận xã hội, nhiều nhà xã hội học đã
nhìn nhận con người như một chỉnh thể trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và
mặt xã hội của nó. Theo Tsunesaburo Makiguchi: “khái niệm người không chỉ bao
hàm một thực thể vật chất, cảm quan, hữu hình mà còn bao gồm một khía cạnh tâm
linh khác với thể chất, nhưng lại tồn tại trên cơ sở thể chất ấy”.
Theo Giôhan
Gôtlíp Phíchtơ: “Con người khác với loài vật ở chỗ, có khả năng suy tư trừu
tượng, có thể quyết định và lựa chọn. Con người là con vật tự điều khiển lấy
mình. Con người có thể làm các dự án, trù liệu, tính toán cho tương lai, suy
nghĩ về những hoạt động và những phản ứng của mình, chịu chách nhiệm về hành vi
của mình và có khả năng phát triển ý thức trách nhiệm với người khác”.
+Nếu trong
định nghĩa của Makiguchi, tác giả lấy chỉnh thể sinh học – xã hội làm điểm xuất
phát cho khái niệm con người thì trong định nghĩa của Phíchtơ, điểm xuất phát
lại nặng về những gì con người khác với động vật, vượt lên động vật.
+ Con người
xuất hiện chỉ có thể trên cơ sở những quy luật tiến hoá hữu cơ và đồng thời với
những quy luật xã hội, vận động sinh học gắn liền với vận động xã hội trong
chỉnh thể người. Đối với quá trình phát sinh, phát triển và hoàn thiện ở một cá
thể thì những yếu tố sinh học và yếu tố xã hội tác động không giống nhau ở từng
thời kỳ trưởng thành. “Yếu tố sinh học và yếu tố xã hội không phải là song song
tồn tại trong con người mà làm môi giới cho nhau, thâm nhập vào nhau và in dấu
lên toàn bộ hoạt động sống của con người”.
Tuy nhiên
khi nghiên cứu con người, nhà xã hội học mặc dù thừa nhận mặt sinh học của con
người nhưng cái chính vẫn tập chung tìm hiểu khía cạnh mang tính xã hội của con
người. Song khác với các nhà khoa học khác, các nhà xã hội học xem xét con
người trong mối tương tác giữa con người với con người, giữa con người với nhóm
xã hội và xã hội nói chung. Chính vì vậy mà Phíchtơ cho rằng, “Con người được
gọi là con người xã hội theo nghĩa một con người vừa có khuynh hướng kết hợp
với người khác mà cũng có nhu cầu tương quan với người khác”. Có nghĩa là, nhà
xã hội học đã xem xét cách thức con người liên lạc với đồng loại của nó như thế
nào.
2. Khái
niệm xã hội hoá
Có rất nhiều
định nghĩa khác nhau của các nhà xãhội học khi bàn về xã hội hoá:
- Xã hội hoá
bao gồm tất cả quá trình tiếp diễn văn hoá giao tiếp, học hỏi, qua đó cá nhân
con người phát triển bản chất xã hội và có khả năng tham gia vào đời sống xã
hội.
- Xã hội hoá
là quá trình trong đó cá nhân con người học hỏi và nhập tâm suốt đời vào các
yếu tố của môi trường văn hoá, xã hội, hoà nhập chúng vào cấu trúc nhân cách
của anh ta dưới ảnh hưởng của các tác nhân xã hội quan trọng và những kinh
nghiệm cá nhân. Do đó làm anh ta thích nghi với môi trường xã hội, nơi anh ta
sinh sống.
- Xã hội hoá
là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội, trong đó những cá nhân học hỏi
và thực hành những tri thức, kỹ năng và phương pháp cần thiết để hội nhập với
xã hội.
- Xã hội hoá
là quá trình theo đó con người học cách thích ứng với xã hội và tuân thủ các
quy tắc xã hội. Quá trình này cho phép xã hội luân chuyển nền văn hoá của mình
từ thế hệ này sang thế hệ khác.
- Xã hội hoá
là quá trình mà qua đó cá nhân học hỏi được cách sống và phát triển khả năng
đóng các vai trò xã hội vừa với tư cách là một cá thể vừa với tư cách là thành
viên của nhóm.
- Xã hội hoá
tức là những con đường mà bằng cách đó con người có được những kinh nghiệm và
hiểu biết, nắm vững những mục đích phù hợp với những vai trò xã hội của mỗi con
người. Có hai mục đích: tạo ra những mối liên hệ xã hội của chúng ta trên cơ sở
những vai trò xã hội và đảm bảo sự tồn tại xã hội nhờ sự lĩnh hội những quan
niệm và mâu thuẫn hành vi bởi những thành viên mới của xã hội.
Tất cả những
định nghĩa trên đều có điểm chung như sau:
Xã hội hoá
trước hết là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội, qua đó cá nhân học
hỏi, lĩnh hội, tiếp nhận nền văn hoá của xã hội như khuôn mẫu tác phong xã hội,
chuẩn mực giá trị văn hoá xã hội để hoà nhập vào xã hội cũng như đáp ứng các kỳ
vọng của xã hội
Trong thực
tế, xã hội hoá là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội. Nhưng khi nói đến
xã hội hoá người ta nhấn mạnh quá trình con người tự học hỏi, thực hành một
cách tích cực những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của xã hội để từ đó hội nhập với
xã hội và giữ đúng vai trò nhất định của cá nhân do xã hội phân công.
3. Một số
nội dung nghiên cứu cơ bản về xã hội hoá
3.1. Các học thuyết khác nhau về xã
hội hoá trong quá trình phát triển nhân cách
Để biết xã
hội hoá diễn ra như thế nào trong mức độ cá thể, chúng ta bắt đầu từ câu hỏi:
nhân cách phát triển như thế nào? Nhân cách được phát triển, hình thành trong
quá trình tương tác xã hội giữa con người với nhau. Trong thế kỷ trước, các nhà
tâm lý học, xã hội học đưa ra hàng loạt những cách giải thích khác nhau về sự
hình thành nhân cách, trên cơ sở tác động qua lại của những nhân tố khác nhau
như tính chất lý tính, môi trường xung quanh, kinh nghiệm cá nhân và văn hoá.
a) Học thuyết phát triển nhân cách
Sự tác động
của những nhân tố môi trường xung quanh v.v.. tạo nên nhân cách. Cooley cho
rằng, nhân cách được hình thành nhờ “Cái tôi lăng kính” do chúng ta hiểu được
tình cảm của những người xung quanh. Họ đặt ra ra vấn đề là làm thế nào để mỗi
cá nhân phát hiện ra “cái tôi” của mình. Quá trình này chỉ thực hiện được thông
qua sự tương tác. Họ đề ra lý thuyết “ Soi gương tự phản thân”
Theo quan
điểm Mead, quá trình hình thành nhân cách bao gồm ba giai đoạn khác nhau: sự
bắt trước những mẫu hành vi của người lớn, giai đoạn trò chơi khi trẻ em tiếp
nhận hành vi của mọi người như là thực hiện đóng vai trò và trò chơi tập thể
khi trẻ em hiểu được sự mong chờ của toàn thề nhóm người đối với chúng.
b) Học thuyết phân tích tâm lý
Theo học
thuyết phát triển nhân cách của S. Freud, nhân cách bao gồm ba yếu tố: “Id” -
nguồn gốc của năng lượng được nuôi dưỡng bằng sự cố gắng thoả mãn, “Ego” - sự
thực hiện kiểm tra hành vi cá nhân trên cơ sở của “ nguyên tắc thực tiễn” và
“Super-ego”- thực hiện chức năng đạo đức và đánh giá. Sự hình thành ba yếu tố
nhân cách này đưa ra giả thiết có sự xuất hiện liên tục của bốn giai đoạn,
trong đó mỗi giai đoạn gắn liền với với từng bộ phận nhất định của cơ thể, được
gọi là vùng cảm giác.
c) Học thuyết phát triển nhận thức
Theo
học thuyết phát triển tư duy của Pít, trẻ em trải qua hàng loạt
những giai đoạn liên tục, trong quá trình đó chúng lĩnh hội được những thói
quen mới xác định giới hạn khả năng nhận thức của chúng. Những giai đoạn này
trao đổi cho nhau trong một sự liên tục triệt để.
d) Học thuyết phát triển đạo đức
Kôlơbéc
đưa học thuyết về sự phát triển nhân cách vào những quá trình của sự hoàn thiện
đạo đức được tạo thành từ sáu giai đoạn. Ở những giai đoạn sớm hơn, trẻ em cố
gắng thoát khỏi sự trừng phạt hoặc nhận phần thưởng. Ở giai đoạn giữa, mọi
người hiểu được những ý kiến của người khác về họ, sự mong đợi của xã hội và
những quy tắc hành vi trong đó họ được khẳng định. Ở giai đoạn cuối, diễn ra sự
hình thành những nguyên tắc đạo đức về nhân cách, không phụ thuộc vào những giá
trị được thừa nhận.
3.2. Quá trình xã hội hoá và các dạng thức xã hội hoá
a) Xã hội hoá như là diễn tiến xã hội liên tục
Theo
Joseph H. Fischer, Xã hội hoá mô tả theo hai quan niệm:
-
Quan niệm khách quan: xã hội ảnh hưởng tới cá nhân.
-
Quan niệm chủ quan: cá nhân đáp ứng lại xã hội.
Theo
quan niệm thứ nhất, xã hội hoá là diễn tiến theo đó xã hội truyền văn hoá của
mình từ thế hệ này qua thế hệ tiếp theo và làm cho cá nhân thích ứng với
những nếp sống sinh hoạt được chấp nhận và được tán thành trong một đời sống có
tổ chức. Có nghĩa là, nhiệm vụ của xã hội hoá là truyền thống và phát triển
những kỹ năng, kiến thức mà cá nhân cần tới, truyền đạt những hệ thống giá trị
văn hoá xã hội và trang bị cho cá nhân vai trò nhất định bảo đảm cho sự duy trì
xã hội và văn hoá.
Theo
quan niệm thứ hai, xã hội hoá là một quá trình cá nhân đang thích ứng với những
người xung quanh, liên tục thực hiện để dần dần nhập vào xã hội trong một nền
văn hoá và xã hội nhất định. Có nghĩa đó là quá trình con người học hỏi khi
tiếp xúc với xã hội trong mối tương quan xã hội.
Từ
các quan niệm trên, chúng ta thấy xã hội hoá là sự thống nhất đối lập giữa hai
khuynh hướng:
-
Tiêu chuẩn hoá, được thể hiện trong sự cố gắng của cá nhân muốn giống như những
người khác, để thể hiện trong sự nắm vững những phương pháp giao tiếp chung và
hoạt động chung.
-
Cá thể hoá, được thể hiện trong sự cố gắng để hình thành “cái tôi của mình”, để
triển khai những phương pháp độc đáo của sự giao tiếp và hoạt động.
Vậy xã hội hoá diễn ra như thế nào?
Xã
hội hoá thành công được xác định bởi ba yếu tố: sự chờ đợi, sự thay đổi hành
vi, sự cố gắng đến khuôn phép:
-
Sự chờ đợi thể hiện ở chỗ những người trong nhóm gia đình, bạn bè, nhà trường… mong đợi ở cá nhân có phương thức ứng sử phù hợp với những mô hình, tác phong
của họ. Đồng thời, trong quá trình tương tác xã hội, cá nhân cũng mong muốn học
hỏi những mô hình tác phong trong đó nó cho là phù hợp với vai trò của nó.
Như
vậy, trong quá trình tương tác xã hội, các cá nhân dần dần thay đổi hành vi của
mình sao cho phù hợp với chính vai trò của mình.
Xã
hội như là lực lượng mạnh mẽ và hùng hậu. Các cá nhân cố gằng vươn tới sự khuôn
phép, loại trừ bớt đi những hành vi ứng xử không phù hợp với đòi hỏi của xã
hội. Điều này được giải thích bởi hai nguyên nhân:
-
Khả năng sinh học hạn chế của con người.
-
Những hạn chế do nền văn hoá.
Theo
bản chất của mình, xã hội hoá là quá trình tác động nhiều hướng khác nhau mang
tính hai mặt, phản ánh sự tác động qua lại giữa nhân tố sinh học và văn hóa,
giữa những ai thực hiện xã hội hoá và những ai bị xã hội hoá.
b) Các dạng thức xã hội hoá
-
Xã hội hoá trẻ em
Theo
Joseph H.Fichter, hai diễn tiến quan trọng nhất của học hỏi xã hội là sự bắt
chước và sự ganh đua. Sự bắt chước không chỉ là hành vi của trẻ em mà còn thể
hiện ở người lớn. Sự ganh đua là một diễn tiến kích thích trong quá trình tương
tác xã hội cho thấy con người có khuynh hướng học hỏi theo khuôn mâu tác phong
đã được xã hội chấp nhận và loại bỏ cái không được chấp nhận.
-
Xã hội hoá người lớn
Gold.R.L
cho rằng, xã hội hoá người lớn gắn liền với sự từ chối dần dần những quan niệm
ấu trĩ trẻ thơ.
Sau
này, các nhà xã hội học bắt đầu nghiên cứu xã hội hoá người già. Nhưng một số
người lại cho là, những người già không có những vai trò nhất định một cách rõ
ràng. Chẳng hạn ở Mỹ, Rozốp không công nhận xã hội hoá người già ở Mỹ, và coi
đó là không có hiệu quả.
-
Những đặc điểm khác nhau của xã hội hoá người lớn và trẻ em
Brim
phân biệt xã hội hoá người lớn và trẻ em bằng những đặc điểm sau:
+
Xã hội hoá người lớn – đó là sự thay đổi hành vi bên ngoài, còn trong xã hội
hoá trẻ em diễn ra hình thành định hướng giá trị.
+
Những người lớn có khả năng đánh giá những chuẩn mực, còn trẻ em có thể lĩnh
hội được chúng.
+
Xã hội hoá người lớn có mục đích của mình là giúp cho con
người lĩnh hội được những thói quen nhất định, xã hội hoá trẻ em ở mức độ động
chạm đến môi trường lý do hoá.
Như
vậy, xã hội hoá chính là quá trình con người học cách thể hiện vai trò xã hội
của mình trong quá trình gia nhập vào xã hội. Quá trình xã hội hoá phải xử lý
mối tương tác giữa yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan của con người và xã
hội. Qúa trình xã hội hóa là qúa trình bản thân cá nhân tác động vào xã hội
diễn ra trên lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, nhu cầu của cá nhân
và nhu cầu xã hội. Qúa trình xã hội hoá luôn luôn nảy sinh sự
thống nhất và xung đột giữa cá nhân và xã hội. Quá trình xử lý nó là quá trình
đào tạo ra con người. Quá trình xã hội hoá diễn ra từ thấp đến cao qua các giai
đoạn nhất định từ giai đoạn đâu khi đứa trẻ bước vào đời cho đến khi con người
ra đi giai đoạn cuối. Qúa trình đó là qúa trình con người học cách thích ứng
với xã hội, tuân thủ các nguyên tắc, phong tục tập quán, là quá trình luân
chuyển nền văn hoá từ thế hệ này đến thế hệ khác để giữ gìn xã hội và văn
hoá.
3.3. Những yếu tố tác
động đến xã hội hoá
a) Môi trường cơ bản của xã hội hoá.
Gia đình là
môi trường xã hội hoá có tầm quan trọng chính yếu, bởi vì quá trình xã hội hoá
của một người từ những năm tháng đầu tiên của cuộc đời có ảnh hưởng quyết định
tới những thái độ và hành vi khi đã lớn. Cho nên gia đình được coi là nhóm
người đầu tiên mà mỗi cá nhân xã hội phải phụ thuộc vào. Gia đình là khuôn khổ
cần thiết cho sự phát triển của đứa trẻ, làm cho sự trưởng thành sinh học và
những mối liên hệ của nó phù hợp với môi trường xã
hội. Đó là giai đoạn xã
hội hoá tự nhiên đầu tiên. Xã hội hoá thông qua tình cảm và bằng tình cảm là
đặc trưng riêng của gia đình. Ở những đứa trẻ sơ sinh, những mối quan hệ với
người lớn – những người quan tâm đến chúng, được thiết lập một cách chặt chẽ
hơn. Đó là cha mẹ, anh chị em, những người thân và bạn bè của gia đình. Những
người này là những đại diện cơ bản của xã hội hoá trong cuộc sống đứa trẻ. Mục
đích của xã hội hoá trong giai đoạn này là sự hình thành ở đứa trẻ lý do hoá
trong mối ràng buộc với những người khác, thể hiện ở lòng tin, sự vâng lời và
mong muốn làm họ vui lòng.
Nhà trường là
cơ quan, môi trường xã hội hoá chính yếu đối với tuổi trẻ. Đây là thiết chế
được lập ra một cách có chủ định để phổ biến những kỹ năng và kiến thức môn học
mà còn tiếp thu cả những quy tắc và cách thức quy định hành vi, cả cách ứng xử
quan hệ với giáo viên và các bạn học.
Quá
trình xã hội hoá mà học sinh tiếp thu ở trường do vậy không chỉ liên quan đến
việc tiếp thu những kỹ năng quy định mà còn cả những kỹ năng xã hội khác. Thí
dụ, ở đó trẻ học được cách sống của nhóm bạn và làm sao đáp ứng được những
người có uy quyền.
Hiện
nay đang có sự bất cập giữa những yêu cầu xã hội và nội dung giáo dục của
trường học. Thông thường, trường học chủ yếu chỉ truyền thụ những tri thức khoa
học hơn là truyền thụ những kỹ năng lao động cho trẻ; và những tri thức và kỹ
năng của trẻ nhận được ở trường học có khi không ăn khớp với yêu cầu cuộc sống
độc lập sau này của chúng. Xã hội hoá đặc biệt chú trọng đến vai trò của sự
giao tiếp giữa thầy và trò ở trường vì đó là cơ sở của những trao đổi làm phong
phú tri thức và nhân cách của đứa trẻ, trong đó người thầy giáo giữ vị trí chủ
đạo không phải như một quyền uy độc đoán mà như một người hướng dẫn các giá trị
xã hội.
Các phương tiện thông tin đại chúng. Trong xã hội hiện đại, ở một mức độ nhất định, trẻ
em lĩnh hội được vai trò và những quy định hành vi trong xã hội từ những chương
trình truyền hình, báo chí, phim ảnh và những phương tiện thông tin đại chúng khác.
Tác dụng đển hình thể hiện trong những phương tiện thông tin đại chúng là sự
tác động sâu sắc tới quá trình xã hội, tạo điều kiện cho sự hình thành những
giá trị nhất định và hình mẫu nhất định của hành vi.
Tuy
nhiên, truyền hình cũng có thể gợi nên những kết quả tiêu cực đến quá trình xã
hội hóa. Một số chương trình tác động tai hại đến thế hệ trẻ, kích động những
hành vi không được kiềm chế của trẻ em, lôi kéo trẻ em bỏ những giờ học bổ ích.
b) Sự khác nhau về giai cấp, chủng tộc, dân tộc và
văn hoá tác động đến quá trình xã hội hoá.
Công
trình nghiên cứu văn hoá những gia đình ở Mỹ và Italia do Mellen Kon tiến hành
năm 1969 đã chỉ ra rằng, sự khác nhau về giai cấp có ảnh hưởng quan trọng đến
quá trình xã hội hoá. Những cha mẹ ở tầng lớp trung lưu khích lệ sáng kiến và
sự tự do tư duy của con cái mình. Trong lúc đó, những đứa trẻ của những công
nhân được giáo dục trong sự khuôn phép. Trong những gia đình theo Đạo thiên
chúa, người mẹ đánh giá tính khuôn phép cao hơn so với gia đình theo Đạo tin lành.
Khuôn phép của những người bố da đen ảnh hưởng đến con cái mình nhiều hơn so
với những ông bố da trắng.
CHƯƠNG 6. PHÂN TẦNG XÃ HỘI
VÀ DI ĐỘNG XÃ HỘI
I. Bất bình đẳng xã hội
I.1. Khái niệm bất bình đẳng
- Bất bình đẳng là một
vấn đề trung tâm của xã hội học, nó là cơ sở tạo nên sự phân tầng xã hội. Bất
bình đẳng không phải là hiện tượng tồn tại một cách ngẫu nhiên giữa các cá nhân
mà nó xuất hiện khi có một nhóm xã hội kiểm soát và khai thác các nhóm xã hội
khác.
- Con người trong xã hội
mang nhiều đặc điểm khác nhau về giới tính, tuổi tác, chủng tộc, tôn giáo, tài
sản và uy tín xã hội, quyền hành… chúng ta gọi những sự khác biệt này là bất
bình đẳng xã hội. Ở đây bất bình đẳng xã hội chưa mang một phê phán giá trị tốt
hay xấu.
Nhà xã hội học nổi tiếng
người Pháp Pierre Bourdieu quan niệm rằng trong cuộc chơi của chúng ta trong xã
hội, chúng ta đã thừa hưởng và mang theo bên mình ba loại vốn (cappitaux) –
trong nghĩa đen cũng như nghĩa bóng: vốn liếng kinh tế, vốn liếng xã hội và vốn
liếng văn hóa. Chính những khác biệt về vốn liếng đã đặt mỗi cá nhân vào những
vị trí khác nhau trong các tầng lớp xã hội khác nhau. Và đây là những cơ sở đầu
tiên đặt nền móng cho sự bất bình đẳng xã hội và phân tầng xã hội.
Các nhà xã hội học đã cố
gắng khám phá nguồn gốc những bất bình đẳng trong cơ cấu và trong văn hóa của
chính các xã hội này. Họ thấy rằng những khác biệt bẩm sinh giữa những cá nhân,
và sự phát triển của từng cá nhân cũng đào sâu những khác biệt này, nhưng mặt
khác các nhà xã hội học cũng quan niệm nền văn hóa và cơ cấu xã hội có thể cũng
cố và duy trì những khác biệt, những bất bình đảng của cá nhân đó. Hơn thế nữa,
mỗi xã hội có những phương cách khác nhau trong việc sở hữu các tư liệu sản
xuất và các tư liệu này đế lượt chúng chi phối quá trình tái sản xuất và đào
tạo các thế hệ kế tiếp. Do đó, nhà xã hội học cần nghiên cứu xem những sự khác
biệt trên hình thành nên những mô thức bất bình đẳng khác nhau như thế nào
trong các xã hội cụ thể.
Nhưng sự bất bình đẳng
chỉ trở thành phân tầng xã hội khi các cá nhân được sắp xếp theo các vị trí cao
thấp theo những thuộc tính của mình như lợi tức, của cải, quyền hành uy tín,
tuổi tác, dân tộc… Như vậy, khái niệm phân tầng xã hội ám chỉ những phương thức
mà xã hội sắp xếp các thành viên của mình trên cơ sỡ sự giàu có, quyền lực hay
uy tín xã hội.
- Khái niệm bất bình
đẳng: bất bình đẳng là sự không
ngang bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích đối với những cá nhân khác nhau
trong một nhóm hoặc nhiều nhóm.
- Bất bình đẳng xã hội gồm 2 loại:
·
Bất
bình đẳng mang tính tự nhiên: đó là sự khác biệt giữa các cá nhân về các đặc
điểm sẵn có như: giới, tuổi, chủng tộc, trí lực, phẩm chất sẵn có…
·
Bất
bình đẳng mang tính xã hội: Đó là sự phân công xã hội dẫn đến cá nhân có sự
phân tầng, từ đó tạo ra lợi ích khác
nhau giữa các cá nhân.
- Nhìn trên quan điểm của các nhà xã hội học
nghiên cứu về cơ cấu xã hội thì:
+ Bất bình đẳng được xem
như là điều kiện để tổ chức xã hội.
+ Bất bình đẳng là cơ sở
cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
+ Bất bình đẳng đảm bảo
cho đời sống và phát triển xã hội.
1.2. Cơ sở tạo nên sự
bất bình đẳng
- Bất bình đẳng thường xuyên tồn tại với những nguyên nhân
và kết quả cụ thể liên quan đến giai cấp xã hội, giới tính, chủng tộc, tôn
giáo, lãnh thổ..
- Tất cả các nguyên nhân đa dạng của bất bình đẳng được quy
về 3 dạng: những cơ hội trong cuộc sống, địa vị xã hội, ảnh hưởng chính trị.
·
Những cơ hội trong cuộc
sống: Gồm tất cả thuận lợi về
vật chất có thể cải thiện chất lượng cuộc sống. Thuận lợi vật chất: của cải,
thu nhập, tài sản và những điều kiện như lợi ích chăm sóc sức khoẻ, an sinh xã
hội… Cơ hội trong cuộc sống là cơ sở khách quan của bất bình đẳng xã hội.
·
Cơ sở địa vị xã hội: Bất bình đẳng về địa vị xã hội là do những thành viên của
các nhóm trong xã hội tạo nên và thừa nhận chúng. Cơ sở địa vị ở đây có thể là
bất cứ cái gì mà một nhóm xã hội cho là ưu việt và được nhóm xã hội khác thừa
nhận.
·
Bất bình đẳng trong ảnh
hưởng chính trị: có được do có ưu thế vật chất hoặc địa vị cao. Thực tế, bản
thân chức vụ chính trị là cơ sở đạt được địa vị và những cơ hội trong cuộc
sống. Như vậy, có thể nói gốc rễ của sự bất bình đẳng nằm trong mối quan hệ
kinh tế, địa vị xã hội và quan hệ chính trị.
II. Phân tầng xã hội
2.1. Khái niệm phân tầng xã hội
Phân
tầng xã hội là một trong những khái niệm cơ bản của xã hội học. Tuy nhiên, ở
nước ta khái niệm này mới chỉ được
đề cập và nghiên cứu trong thời gian cách đây không lâu. Để hiểu được khái niệm
phân tầng, cần thiết phải hiểu khái niệm Tầng
xã hội.
a, Tầng xã hội (Stratum of society)
Tầng
xã hội là tổng thể, tập hợp các cá nhân có cùng một hoàn cảnh xã hội, họ giống
nhau hay bằng nhau về địa vị kinh tế (tài sản), địa vị chính trị (quyền lực),
địa vị xã hội (uy tín), về khả năng thăng tiến cũng như giành được những ân huệ
hay vị trí trong xã hội.
b. Phân tầng xã hội (Social stratification)
Phân
tầng xã hội là một thuật ngữ của địa chất được các nhà xã hội học mượn để mô tả
một hệ thống dọc được tạo bởi các hạng người trong xã hội nhất định được sắp
xếp theo một hệ thống thứ bậc dựa trên một loại tiêu chí nào đó. Mỗi tầng như
vậy là một hạng gồm có nhiều đơn vị từ khởi đầu cho đến hết và các hạng trong
hệ thống có cùng chủng loại.
Khái niệm phân tầng xã hội (social
stratification): Phân tầng xã hội là sự bất bình đẳng mang tính cơ cấu của xã
hội loài người (trừ xã hội sơ khai). Đó là sự phân chia xã hội thành các tầng
xã hội khác nhau về địa vị chính trị, kinh tế và xã hội, cũng như những sự khác
nhau về trình độ học vấn, nghề nghiệp, phong cách sinh hoạt, kiểu ăn mặc, nơi
cư trú, thị hiếu nghệ thuật, mức độ tiêu dùng…
- Từ định nghĩa trên
chúng ta có thể hiểu phân tầng xã hội theo ba đặc trưng:
·
Thứ nhất: phân tầng xã hội là sự
phân hoá các cá nhân thành những tầng lớp, thứ bậc khác nhau trong cơ cấu xã
hội (phân chia thành lớp trên, dưới).
·
Thứ hai: phân tầng xã hội luôn
gắn với bất bình đẳng xã hội và phân công lao động.
·
Thứ ba: phân tầng xã hội được
lưu truyền qua thế hệ và có sự thay đổi nhất định.
Quan niệm của một số nhà xã
hội học về phân tầng xã hội
Quan niệm của Max Weber:
Weber
là người đầu tiên đề cập đến khái niệm phân tầng. Ông đưa ra nguyên tắc tiếp
cận ba chiều đối với vấn đề phân tầng, coi khái niệm phân tầng xã hội bao hàm
cả việc phân chia xã hội thành các giai cấp. Ba chiều hay ba khía cạnh là địa
vị kinh tế (tài sản), địa vị chính trị (quyền lực), địa vị xã hội (uy tín) cấu
thành các tầng lớp xã hội. Theo Weber tài sản, quyền lực và uy tín có thể độc
lập với nhau song trong thực tế chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng có
thể chuyển hóa cho nhau, củng cố hoặc chi phối lẫn nhau. Người có tài sản có
thể dễ dàng sử dụng để đạt được quyền lực, uy tín; ngược lại, người có quyền
lực, uy tín lại có thể sử dụng để nhận được những bổng lộc và quyền lợi kinh tế
do xã hội mang lại.
Quan niệm của P.A.Sorokhin:
Sorokhin
coi phân tầng xã hội là sự phân hóa của tổng thể các cá nhân thành những giai
cấp trong thang bậc của đẳng cấp. Phân tầng xã hội thể hiện rõ nhất trong sự
tồn tại của tầng lớp cao nhất và tầng lớp thấp nhất.
Quan niệm của I. Robertsons:
I.
Robertsons (nhà xã hội học người Mỹ) coi phân tầng xã hội là sự bất bình đẳng
mang tính cơ cấu của tất cả các xã hội loài người, là sự khác nhau về khả năng
thăng tiến xã hội bởi địa vị của họ trong thang bậc xã hội.
2.2. Đặc tính
chung của phân tầng xã hội
Nhà
xã hội học Mỹ J.Macionis đã chỉ ra hệ thống phân tầng xã hội có một vài đặc
tính chung sau đây:
·
- Có tính phổ quát trên
toàn cầu .
·
- Tồn tại dai dẳng theo
thời gian.
·
- Tồn tại trong tất cả các
tầng lớp dân cư, các giai cấp và tầng lớp.
·
- Được duy trì bền vững
trước hết do điều kiện vật chất xã hội, thể chế chính trị và niềm tin xã hội.
2.3. Nguyên nhân của hiện tượng phân tầng: Có thể xác định hiện tượng phân tầng qua
hai nguyên nhân:
·
Thứ nhất: đó là do sự bất bình
đẳng mang tính cơ cấu của tất cả các chế độ xã hội (trừ giai đoạn đầu của thời
kỳ nguyên thuỷ). Thực tế, mỗi con người trong mỗi một xã hội luôn có sự khác
biệt về thể chất, trí tuệ (có người khoẻ, yếu, thông minh, kém cỏi, người gặp
những cơ may thăng tiến, người chịu rủi ro, thiệt thòi…). Chính sự khác biệt
một cách tự nhiên, khách quan này tạo ra những khả năng chiếm giữ các địa vị xã
hội cao thấp, khác nhau.
·
Thứ hai: do sự phân công lao
động đưa đến sự khác nhau về nghề nghiệp, thu nhập, các điều kiện làm việc… đó
cũng là những yếu tố tạo nên sự khác nhau về địa vị xã hội. Ngoài ra, còn có
những yếu tố chủ quan cá nhân tác động vào quá trình phân tầng xã hội. Ví dụ:
trong xã hội cực quyền, sự lạm dụng và thao túng quyền lực của các lãnh chúa
(xã hội cũ) và giáo hội cũng tạo ra sự phân tầng hoặc làm gay gắt hơn, làm biến
dạng những trật tự vốn có.
2.4. Các loại phân tầng
- Khi xét đến hậu
quả của phân tầng ta có thể phân chia phân tầng thành hai loại: phân tầng xã
hội hợp thức, phân tầng xã hội không hợp thức.
·
Phân tầng xã hội hợp
thức: dựa trên cơ sở đạo đức,
tài năng, mức độ đóng góp trong thức tế cho xã hội. Sự phân tầng này đưa đến
công bằng xã hội, là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội, góp phần tạo
nên trật tự và ổn định xã hội. Do đó, ta thừa nhận sự tồn tại và thiết chế hoá
sự phân tầng hợp thức.
·
Phân tầng xã hội không
hợp thức: dựa trên cơ sở sự tham nhũng, làm ăn phi pháp, lười biếng,
thủ đoạn, trộm cướp. Nó đưa đến bất công xã hội, kìm hãm, cản trở sự phát triển
xã hội, tạo ra sự bất bình đẳng xã hội, đưa đến xung đột, mâu thuẫn và mất ổn
định xã hội. Chúng ta không chấp nhận sự tồn tại của hiện tượng phân tầng này,
kiên quyết phê phán, kiểm soát, quản lý, trừng phạt và xoá bỏ chúng.
2.5. Hệ thống phân tầng xã hội:
- Phân
tầng xã hội theo tuổi:
·
Là
hiện tượng phổ biến trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ (thời kỳ tiền giai cấp).
Đến xã hội có giai cấp, vẫn tiếp tục có sự bất bình đẳng về lứa tuổi. Lứa tuổi
thể hiện sự khác nhau về uy tín xã hội và kinh nghiệm. Người cao tuổi có quyền
dạy bảo người ít tuổi hơn (chứ không có sự ngược lại).
·
Trong
xã hội truyền thống (dựa trên kinh tế nông nghiệp với các công xã nông thôn),
quyền lực của các công lão được coi là chuẩn mực. Ở xã hội hiện đại “sống lâu lên lão làng” không còn là con
đường thăng tiến địa vị xã hội chủ yếu nữa nhưng vẫn là dấu ấn đậm nét trong
nhiều sinh hoạt cộng đồng khác nhau.
- Phân tầng đóng:
·
Tồn
tại trong xã hội có sự phân chia đẳng cấp. Ở chế độ này con người rất khó có
thể thay đổi địa vị của mình. Vị thế của họ được ấn định bởi dòng dõi, nguồn
gốc của cha mẹ, hầu như là bất biến nếu không có những biến động xã hội to lớn.
·
Quan
hệ hôn nhân mang tính “nội giao”, cấm
sự kết hôn giữa những người thuộc đẳng cấp khác. Sự cấm đoán này diễn ra hết
sức nghiêm ngặt, nếu vi phạm điều này có thể bị trừng phạt rất nặng nề.
·
Hệ
thống phân tầng đóng kìm hãm, níu kéo sự phát triển của xã hội. Hiện nay vết
tích của hệ thống phân tầng đóng vẫn còn ở một số vùng như Bắc Phi, Trung Đông
và Châu Á (vào năm 1981 vẫn còn hơn 1 triệu người sống trong cảnh nô lệ).
- Phân tầng mở:
·
Đó
là hệ thống phân tầng trong xã hội có giai cấp. Địa vị cá nhân thường phụ thuộc
trực tiếp vào nghề nghiệp và thu nhập của họ. Vị thế con người có được phần lớn
là do chủ quan đạt được chứ không phải là vị thế sẵn có.
- Phân tầng dựa theo trình độ phát triển xã hội,
gồm có:
·
Phân tầng xã hội hình
chóp: Phản ánh xã hội có sự
bất bình đẳng ở mức cao, dù cho kinh tế rất phát triển hay lạc hậu (Hoa Kì).
·
Phân tầng xã hội hình
thoi:
Hai nhóm xã hội giàu và nghèo đều chiếm tỷ lệ nhỏ, nhóm trung lưu ở giữa chiếm
đại đa số (Nhật Bản). Tuy vậy khoảng cách giũa giàu và nghèo còn rất cao, điều
đó cho thấy sự bất bình đẳng còn lớn.
·
Phân tầng xã hội hình
quả trứng: Trung lưu chiếm đa số, bất bình đẳng vẫn còn cao song không
còn những người quá nghèo hoặc tình trạng một số ít nắm tuyệt đại bộ phận tài
sản của xã hội (Bắc Âu)
·
Phân tầng hình giọt nước: Khoảng cách giàu nghèo
vẫn còn nhưng không đáng kể. Đại bộ phận nhân dân có mức sống trung bình và khá
(các nước Đông âu cũ).
Ví
dụ về mô hình về tháp phân tầng ở Việt Nam năm 1992.

2.6. Một số
lý thuyết về sự phân tầng
Theo Jean
Cazênuve, có thể xếp học thuyết về phân tầng xã hội làm hai loại:
- Lý thuyết xung đột: đây là lý
thuyết của những người chịu ảnh hưởng bởi quan niệm tiếp cận về hình thái kinh
tế - xã hội và quan niệm về giai cấp của Mác, những người này chủ yếu nhấn mạnh
đến vấn đề quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Họ coi đó là đặc trưng chủ
yếu của sự phân tầng xã hội hay là dấu hiệu chủ yếu nhận biết hoặc sự phân chia
xã hội ra thành những giai cấp này hay giai cấp khác.
Họ cũng nhấn
mạnh đến đấu tranh giai cấp, đến xung đột xã hội, coi đó là nguồn gốc và động
lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.
- Lý thuyết chức năng: những người
theo thuyết chức năng nhấn mạnh đến trạng thái cân bằng, đến cơ cấu hơn là đến
những biến đổi của cơ cấu ấy. Theo họ, phân tầng là một hiện tượng khách quan
và có tính chức năng, nhằm đáp ứng những nhu cầu cần thiết của xã hội và đặt ra
vấn đề là làm sao phải có một xã hội đẳng cấp. Theo Parsons, một đại biểu của
thuyết chức năng, phân tầng được coi là sự sắp xếp cá nhân vào trong một hệ
thống xã hội trên cơ sở những tiêu chuẩn của một hệ thống chung về giá trị,
phân tầng là kết quả trực tiếp và cũng là phương tiện của hoạt động xã hội.
- Lý thuyết dung hoà: G.Lenski cho
rằng, trong xã hội luôn có những động cơ thôi thúc người ta giữ các vị trí xã
hội, đồng thời cũng diễn ra các qúa trình xung đột và đấu tranh giành quyền
thống trị.
Max Weber
đặt ra nguyên tắc nghiên cứu “ba chiều” về xã hội, coi khái niệm xã hội bao hàm
cả việc phân chia xã hội thành các giai cấp. Ông đã tách một luận điểm về giai
cấp thành ba phần riêng biệt nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, đó là: địa vị
kinh tế hay tài sản, địa vị chính trị hay quyền lực, địa vị xã hội hay uy tín.
III. Di động xã hội (tính cơ động xã hội)
Nghiên cứu
cơ cấu xã hội đòi hỏi phải gắn liền với nghiên cứu tính “cơ động xã hội”. Theo
quan niệm của các nhà xã hội học, đặc trưng nổi bật của xã hội là có tính linh hoạt, linh động,
thường biến đổi vì chúng phụ thuộc vào tính cơ động xã hội.
3.1. Định nghĩa
Tính
cơ động xã hội là tính linh hoạt của các cá nhân và các nhóm xã hội trong kết
cấu xã hội. Nó là sự chuyển đổi vị trí của một người hay một nhóm xã hội này
cho một người, một nhóm xã hội khác trong cùng một tầng hay khác tầng trong bậc
thang giá trị xã hội.
3.2. Các loại cơ động xã hội
Cơ
động xã hội theo “chiều ngang”. Đó là sự chuyển đổi vị trí của một người hay
một nhóm người sang vị trí xã hội khác cùng nằm trên một cấp độ xã hội như nhau
(có nghĩa là chỉ có sự thay đổi về vai trò xã hội mà không thay đổi vị thế xã
hội).
Cơ
động xã hội theo “chiều dọc”. Đó là sự chuyển dịch vị trí của cá nhân hay một
nhóm xã hội sang một vị trí xã hội khác không cùng một tầng với họ. Sự cơ động
xã hội theo chiều dọc nhấn mạnh đến sự vân động về chất lượng cua cá nhân trong
các nhóm xã hội có liên quan đến sự thăng tiến hay sút giảm vị thế xã hội của
mỗi người.
Cơ
động chuyển đổi. Đó là sự thay đổi địa vị xã hội của một số người vì họ trao
đổi vị trí cho những người khác tại tầng lớp xã hội khác nhau trong bậc thang
xã hội.
Thí
dụ: những người thiếu năng lực ở vị trí cao có thể mất việc hoặc tụt xuống địa
vị thấp hơn, trong khi đó những người có khả năng ở vị trí thấp hơn được tiến
cử vào những vị cao. Số lượng của loại cơ động xã hội này phụ thuộc vào mức độ
“đóng” hay “mở” của xã hôị. Trong hệ thống xã hội “đóng” hay “đẳng cấp”, loại
cơ động xã hội này ít xảy ra, nhưng trong hệ thống “mở” có nhiều tiềm năng cho
loại cơ động này.
Cơ
động theo cơ cấu. Đó là sự thay đổi địa vị của một số người do kết quả của
những thay đổi trong cơ cấu kinh tế. Loại cơ động theo cơ cấu này xuất hiện
nhiều vào thời kỳ cách mạng kỹ thuật, cách mạng trong cơ cấu kinh tế hoặc cách
mạng chính trị.
Ngoài
ra, còn có các loại cơ động “thô”, cơ động “tinh”, cơ động do ý trí. Cơ động
trong cùng thế hệ liên quan đến sự vận động của cá nhân trong suốt cuộc đời
họ. Cơ động giữa các thế hệ xác định quá trình tiếp nối vị trí xã hội giữa ông
bà, cha mẹ, con cái (tức là cha truyền con nối).
3.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ động xã hội
-
Nguồn gốc giai tầng xã hội:
-
Trình độ học vấn.
-
Lứa tuổi và thâm niên nghề nghiệp.
- Giới
tính.
-
Điều kiện sống (hay nơi cư trú).
-
Ngoài những yếu tố nói trên, còn phải kể một số yếu tố khác như chủng tộc, chế
độ dinh dưỡng tuổi thơ, sức khoẻ, tuổi kết hôn, địa vị của người bạn đời, ý chí
kiềm chế sự thoả mãn nhất thời, chiều cao, hình thức bề ngoài, trí tuệ và lĩnh
vực công danh, những thiên chức về sự sắc sảo, ý tưởng, sáng tạo, sự tế nhị,
khéo léo trong giao dịch, ý chí dám mạo hiểm ..v..v..
Sau cùng,
cũng cần phải xem xét tính cơ động xã hội như là một hiện tượng xã hội, có
logíc bên trong và các quy luật phát triển của mình. Cần phải tính đến sự lệ
thuộc của tính cơ động xã hội đối vơi các điều kiện lịch sử - xã hội như: quan
hệ sản xuất, phân công lao động xã hội, cơ sở vật chất, kỹ thuật, các yếu tố
thiết chế xã hội, hệ thống giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng và chính sách sử dụng
cán bộ. Tính cơ động xã hội cần được nghiên cứu như là một qúa trình phức tạp
có cơ cấu riêng và ngày càng được mở rộng cùng với sự phát triển của thời gian.
Nghiên cứu
tính cơ động xã hội “hướng tới lối vào” đòi hỏi phải phân tích xuất xứ của các
nhóm xã hội – nghề nghiệp, xem họ đã tận dụng bản năng và trình độ nghề nghiệp
của thế hệ trước đó ra sao. Nghiên cứu tính cơ động xã hội “hướng tới lối ra”
cần phải xem xét tuổi trẻ sẽ rời vào nhóm xã hội nào khi họ rời khỏi những nhóm
xã hội của cha mẹ. Như vậy khi nghiên cứu, ta cần đặt tính cơ động xã hội trong
từng thế hệ và bối cảnh chung của toàn bộ tính xu hướng của sự vận động xã hôi.
Khi nghiên
cứu tính cơ động xã hội, chúng ta còn bắt gặp phạm trù “cơ động xã hội phụ
thêm” hoặc “cơ động xã hội thặng dư”, có nghĩa là một người nào đó đã vận động
ra khỏi nhóm xã hội xuất thân và nhập vào nhóm xã hội khác. Và phạm trù “cơ
động xã hội hồi quy” có nghĩa là quá trình cơ động của một người nào đó quay về
với nhóm xã hội xuất thân.
CHƯƠNG 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
XÃ HỘI HỌC
I. Các khái niệm
1. Khoa học
Đó là một phương pháp phát triển khối lượng
kiến thức thông qua việc sử dụng kỹ thuật logic và khách quan.
+ Mục tiêu của phương pháp này là tri
thức khoa học.
+ Cái mà ta chú ý là phương pháp khoa
học nó sẽ là điều kiện, tiền đề để chúng ta tìm ra chân lý khác.
2. Logic
Mỗi
ý kiến, mỗi bước đi đều gắn chặt chẽ với ý kiến, bước đi trước đó. Một nhận
định khoa học không thể chứa những mâu thuẫn chưa được giải quyết.
3. Tính khách quan
Phản
ánh đúng sự thật vốn có trong hiện thực, điều này có nghĩa là nhà khoa học phải
dựa vào các thủ thuật có khả năng giảm thiểu ảnh hưởng của những phỏng đoán,
trực giác, thiên kiến trong lúc quan sát và lý giải.
4. Lý thuyết
Khái niệm: Lý thuyết là những tập hợp những lời phát biểu được xắp xếp một cách có
logic, mà ở đó người ta cố gắng miêu tả, dự đoán hay giải thích một sự kiện.
Những trình bày có hệ thống này giúp
chúng ta hình thành các ý kiến của chúng ta về sự kiện đang nghiên cứu.
Mục đích của các lý thuyết nhằm giới
thiệu cho chúng ta những biến lượng có ý nghĩa về mặt phương thức, phương cách
và các nhân tố, yếu tố có liên quan đến hiện tượng và vấn đề mà chúng ta đang
nghiên cứu.
5. Giả thuyết
Các giả thuyết là những nhận định dựa
trên sự tin tưởng chưa được kiểm chứng. Các nhà xã hội học đưa ra những giả
thuyết, những nhận định về bản chất ứng xử của con người, bản chất của xã hội
và cách thức mà cả hai tác động lẫn nhau.
II. Các bước trong quá trình nghiên cứu xã
hội học thực nghiệm
Bước 1: Xác định chủ đề nghiên cứu.
- Trong một đề cương nghiên cứu phải
phát họa được rõ ràng lĩnh vực xã hội có liên quan đến chủ đề nghiên cứu.
- Trong nghiên cứu muốn xác định chủ
đề phải qua 3 tiêu chuẩn sau:
+ Tính khả thi: căn cứ vào năng lực
thực hiện và tính khả thi của nó đối với đời sống xã hội.
+ Được các nhà nghiên cứu quan tâm, xã
hội quan tâm: Vấn đề nghiên cứu có tính áp dụng vào thực tế cao hơn giúp tạo ra
hiệu quả cao của nghiên cứu.
+ Góp phần mở rộng được tri thức xã
hội.
Bước 2: Nêu ra được những tư liệu có liên
quan đến chủ đề nghiên cứu
Bước 3: Định nghĩa các khái niệm và những
số đo của chúng.
Tính chính xác của các khái niệm là
điều hết sức quan trọng trong các ngành KHXH và không dễ để đạt được điều đó.
Trong đề cương nghiên cứu xã hội học
phải đưa ra những định nghĩa rõ ràng các khái niệm. Phải diễn giải cách đo
lường để chứng tỏ các vấn đề tìm ẩn trong việc đo các khái niệm đã được suy
nghĩ thảo luận thấu đáo.
Bước 4: Xác định phương pháp thu thập
thông tin thích hợp.
+ Thu thập số liệu bằng bảng Anket.
+ Thu thập số liệu bằng phỏng vấn sâu.
+ Thu thập số liệu bằng điện thoại.
+ Thu thập số liệu bằng thư tín.
+ Thu thập số liệu bằng phỏng vấn
nhóm.
+ Phương pháp quan sát.
+ Các phương pháp nghiên cứu đồng tham
gia (Biểu đồ venn, cây vấn đề, thảo luận nhóm, mạng xã hội,…)
Bước 5: Thao tác hóa các khái niệm và
thiết kế các công cụ.
Trong cuộc điều tra các khái niệm được
thao tác sẽ thể hiện ngay trong bảng hỏi. Nếu các khái niệm được thao tác không
tốt thì cho dù các khâu khác có thực hiện tốt, các số liệu thu thập được cũng
sẽ trở nên vô nghĩa hoặc có rất ít ý nghĩa đối với đề tài.
Bước 6: Chọn mẫu đối tượng nghiên cứu.
Chọn mẫu là phương pháp mà chúng ta
làm sao cho số mẫu được lấy ra khảo sát phải mang được tính đại diện cho tổng
thể mẫu khảo sát. Việc chọn mẫu giúp cho nhà nghiên cứu tiết kiệm được thời
gian, nguồn lực mà vẫn đảm bảo được độ tin cậy của nghiên cứu.



![]() |
![]() |
||||
![]() |
Bước 7: Xem xét mục tiêu, giá trị và đạo
đức của công trình nghiên cứu.
Bước 8: Thu thập số liệu
+ Thu thập số liệu định lượng.
+ Thu thập dữ liệu định tính.
Bước 9: Xử lý số liệu
+ Xử lý thủ công.
+ Xử lý bằng máy vi tính (SPSS, SATA,
…)
Bước 10: Phân tích số liệu
Bước 11: Trình bày kết quả nghiên cứu
III. Cách thức tiến hành một cuộc nghiên
cứu xã hội học
Trong bất kỳ một cuộc nghiên cứu xã
hội học nào, dù lớn hay nhỏ cũng thường phải trãi qua 3 giai đoạn chính sau:
+ Giai đoạn chuẩn bị.
+ Giai đoạn tiến hành điều tra.
+ Giai đoạn xử lý và giải thích thông
tin.
Một số nguyên tắc trong quá trình tiến hành
một cuộc điều tra xã hội học:
- Duy trì tính khách quan.
- Tôn trọng sự toàn vẹn và kín đáo của
đối tượng nghiên cứu.
- Có cái nhìn tổng quát từ nhiều góc
độ khi giải thích bản chất của các hiện tượng.
- Những hiện tượng nghiên cứu phải
mang tính đặc trưng, đáng tin cậy.
1. Giai đoạn chuẩn bị
a,
Xác định chủ đề nghiên cứu.
Vd: Vấn đề nghiên cứu (lối
sống, định hướng, giá trị, nhu cầu văn hóa,…)
b,
Thu thập và phân tích những thông tin sẵn có.
Tìm hiểu thêm về vấn đề nghiên cứu,
làm rõ chủ đề nghiên cứu. (kế thừa? phát triển? à tránh trùng lặp với các nghiên cứu trước).
c,
Xác định nội dung nghiên cứu và khách thể nghiên cứu.
Từ những vấn đề đã được xác định trong
nội dung đi đến xác định ai là người được hỏi – căn cứ trên những tiêu chí nào.
Vd: Đề tài “Tìm
hiểu lối sống của sinh viên trường Đại học Đà Lạt”
Nội dung nghiên cứu: Lối sống của sinh viên.
Khách thể nghiên cứu: Sinh viên trường
ĐH Đà Lạt.
d,
Xác định giả thuyết nghiên cứu.
- Giả thuyết là giả định chủ quan của
người điều tra.
- Giả thuyết cho chúng ta biết chúng
ta cần thu thập những loại thông tin nào cho đề tài nghiên cứu.
- Giả thuyết được công nhận hay bác bỏ
thì cuộc nghiên cứu đều thành công.
e,
Xây dựng mô hình lý luận.
Việc xây dựng mô hình lý luận giúp
chúng ta khái quát hóa vấn đề, đưa ra các lý giải có tính khoa học, mô hình lý
luận là cái nền cho sự lý giải một vấn đề.
Mô hình lý luận chính là khuôn mẫu,
cái khung để chúng ta có thể xắp xếp các số liệu rời rạc thành một hệ thống
nhất.
f,
Thao tác hóa khái niệm.
Là quá trình chúng ta chẻ nhỏ các khái
niệm, các quan điểm, các giả thuyết, việc làm này là vô cùng quan trọng và khó
khăn. Nếu chúng ta thao tác hóa khái niệm không tốt thì các thông tin mà chúng
ta thu thập được sẽ rời rạc và có rất ít giá trị, dẫn đến mục tiêu nghiên cứu
của đề tài không đạt.
Vd: Thao tác hóa khái niệm Xã hội hóa
|

…….…………. ……………
g,
Xác định phương pháp, công cụ nghiên cứu và thang đo.
Ngoài các phương pháp nghiên cứu ra
còn việc chọn người (cộng tác viên, điều tra viên,…), cách thức xử lý thông
tin.
h,
Chọn mẫu.
i,
Điều tra thử.
Điều tra thử giúp chúng ta khắc phục
các sai sót của bảng hỏi, mà khi thiết kế không thấy được.
2. Giai đoạn tiến hành điều tra
a,
Thủ tục xin phép
Là khâu rất quan trọng trước khi tiến
hành điều tra.
b,
Huấn luyện điều tra viên
Tập huấn cho các điều tra viên (nếu
có) để đảm bảo thống nhất cách hỏi giống nhau, thông tin thu thập được là nhất
quán.
c,
Tiếp xúc với những người cung cấp thông tin và thu thập thông tin
3. Giai đoạn xử lý và giải thích thông tin
a,
Xử lý thông tin
Việc xử lý thông tin, số liệu ngày nay
đã được giao cho máy vi tính, nhưng các phương án xử lý thông tin phải được
chuẩn bị từ trước (các phân tổ, tương quan giữa các biến,…).
b,
Phân tích, viết báo cáo
So sánh, nhận xét, đánh giá về những
kết quả thu được à đối
chiếu với giả thuyết nghiên cứu, mục tiêu, mục đích nghiên cứu à Viết báo cáo kết quả nghiên cứu.
IV. Các phương pháp thu thập thông tin
trong nghiên cứu xã hội học
1. Các phương pháp thu thập thông tin định
lượng
1.1. Phỏng vấn (bảng Anket)
a,
Khái niệm
Anket là một bảng câu hỏi được sử dụng
để thu thập thông tin sơ cấp. Những câu hỏi đó được trình bày theo những nguyên
tắc nhất định nhằm mục tiêu khai thác thông tin từ đối tượng.
Bảng anket được coi là hình thức thu
thập thông tin nhanh nhất, thuận tiện, ít tốn kém tính trên đầu người, thực
hiện được trên một số đông người trong một khoảng thời gian hạn chế, thông tin
nhận được có thể được xử lý nhanh chóng. Tuy nhiên đối với các cuộc nghiên cứu
quan trọng và có quy mô lớn thì đòi hỏi người nghiên cứu phải có trình độ tay
nghề cao.
Với bảng anket người ta có thể sử dụng
để:
+ Trưng cầu ý kiến: Đây là hình thức
mà người ta muốn thu nhận nhiều ý kiến đóng góp từ nhiều phía để thay đổi,
chỉnh lý một kế hoạch, đề án, chương trình chuẩn bị đưa ra thực hiện hoặc đã
thực hiện nhưng bên trong gặp phải vấn đề không ổn.
+ Nhận diện và mô tả: để nhận diện một
thực trạng xã hội nào đó hay mô tả các nguyện vọng và nhu cầu trong một cộng
đồng dân cư rộng lớn phục vụ trực tiếp cho việc ra chính sách các nhà nghiên
cứu thường sử dụng phương pháp này, chẳng hạn nhận diện tình trạng ly hôn,…
+ Thăm dò dư luận xã hội: Trong xã hội
có nhiều vấn đề bức xúc, nhưng do một lý do tế nhị nào đó người ta không muốn
phát ngôn, trong trường hợp như thế nhà xã hội học tiến hành “khoan thử” vài
mũi xem thực tế như thế nào. Trong trường hợp này người ta gọi là dư luận chìm.
+ Điều tra dư luận xã hội: Đây là hình
thức được sử dụng để nghiên cứu về một vấn đề gì đó đã trở nên ồn ào, thu hút
sự chú ý của nhiều người trong xã hội, mà ta gị là dư luận nổi. Lúc này nhà
nghiên cứu sử dụng bảng anket để định lượng thông tin và chất lượng thông tin.
Với phương pháp thu thập thông tin
bằng bảng anket người ta có thể sử dụng vào rất nhiều mục đích đa dạng khác
nhau như: thăm dò thị hiếu khách hàng, trưng cầu ý kiến các vấn đề trong đời
sống xã hội, bảng anket được thực hiện theo 3 dạng thức:
+ Bảng anket đăng báo.
+ Bảng anket gửi qua đường bưu điện.
+ Bảng anket phân phối tại chỗ, được
điều tra viên trực tiếp hỏi hay gửi cho người được hỏi trả lời và thu lại.
b, Các loại câu hỏi được sử dụng
Câu
hỏi đóng:
+ Câu
hỏi đóng giản đơn: Chỉ bao gồm câu trả lời khẳng định hay phủ định về
một vấn đề.
+ Câu
hỏi đóng lựa chọn: Đây là dạng câu hỏi người trả lời chọn các phương án
đã được lập sẵn trên mẫu phiếu.
Câu
hỏi mở: Người trả lời sẽ trả lời các câu hỏi theo ý kiến của mình mà không
phụ thuộc vào bất cứ điều kiện ràng buộc nào.
Câu
hỏi kết hợp: Là sự kết hợp của câu hỏi đóng và mở. Nhà nghiên cứu thiết lập
sẵn các phương án trả lời có sẵn, đồng thời cũng để ngõ phương án cho người
được hỏi trả lời thêm nếu họ thấy cần thiết.
c, Bố cục một bảng anket: thường thì một bảng anket có 3 phần chính
sau:
+ Phần mở đầu: giới thiệu mục đích,
mục tiêu của cuộc nghiên cứu, cơ quan (cá nhân) chủ trì, lời cảm ơn,…
+ Phần thông tin về nhân khẩu: tùy
thuộc vào tính chất của cuộc nghiên cứu mà nhà nghiên cứu yêu cầu các thông tin
nhân khẩu khác nhau: giới tính, tuổi, nghề nghiệp, học vấn, thu nhập,… đối với
phần này có thể để trước hay cuối cùng của bảng hỏi tùy thuộc ý đồ của nhà
nghiên cứu.
+ Phần nội dung: Bao gồm những câu hỏi
để thu thập thông tin của cuộc nghiên cứu. Lưu ý, nên bố trí các câu hỏi theo
mức độ khó, phức tạp tăng dần để tạo đà tốt cho việc lấy thông tin.
1.2. Phân tích các số liệu thống kê.
Ngoài việc thu thập các số liệu định
lượng từ các cuộc nghiên cứu bằng các bảng anket, nhà nghiên cứu cũng có thể sử
dụng lại kết quả của các cuộc điều tra trước đó có liên quan để phân tích lại
theo ý đồ của mình, hay có thể sử dụng kết quả của các cuộc điều tra dân số,
mức sống, nhà ở để phân tích những vấn đề mà mình quan tâm.
2. Các phương pháp thu thập thông tin định
tính.
2.1. Thu thập các tư liệu có sẵn về đối
tượng nghiên cứu.
a,
Khái niệm về tài liệu:
Tài liệu là một hiện vật mà con người
tạo ra dùng để lưu truyền các thông tin, để truyền thông. Trong khái niệm của
xã hội học thì tài liệu gồm có:
- Tài liệu viết hay còn gọi là hồ sơ:
chúng bao hàm tài liệu lưu trữ, báo chí, ấn phẩm văn hóa, tài liệu cá nhân (thư
từ, nhật ký),…
- Tài liệu thống kê: Đó là những biểu
mẫu, biểu đồ, đồ thị, số liệu thống kê nhằm phản ánh lại các mặt lượng của các
sự kiện, hiện tượng, quá trình xã hội,…
- Tài liệu tạo hình và ngữ âm: chúng
gồm có phim, ảnh, tranh, băng đĩa các loại,…
b,
Phương pháp phân tích tài liệu:
- Phương pháp phân tích bên ngoài: Khi
tiếp xúc với tài liệu trước tiên là tiếp xúc với cái võ bên ngoài của nó, những
câu hỏi được đặt ra ở đây: tài liệu là cái gì? (hình thức, chất liệu), thời
gian và địa điểm xuất hiện? ai là tác giả? Tài liệu được xây dựng với mục đích
gì và văn cảnh của nó ra sao? Nó đến tay nhà nghiên cứu bằng con đường nào và
độ tin cậy của nó tới đâu? Thật hay giả?
- Phương pháp phân tích bên trong: đây
là quá trình đi sâu vào nội dung bên trong của tài liệu. Qua tài liệu nhà
nghiên cứu có thể hình dung được toàn bộ hay một phần sự kiện, hiện tượng đã
xảy ra. Đồng thời xác định được quan điểm của tác giả về vấn đề được đề cập đến
trong tài liệu. Trên cơ sở đó xác định xem tài liệu này sẽ được khai thác như
thế nào là phù hợp, những gì có thể sử dụng được ngay, những gì cần có sự làm
rõ ở đây.
c,
Sưu tầm tài liệu.
Sưu tầm tài liệu là một công việc vô
cùng quan trọng không thể thiếu đối với các nghiên cứu, nó phục vụ cho mục đích
sau:
+ Gợi ý cho những ý tưởng mới nảy
sinh.
+ Phục vụ trực tiếp cho đề tài đã được
định trước.
+ Lưu trữ trong kho tư liệu cá nhân theo
dạng phiếu đã được phân nhóm để tiện lấy ra khi cần thiết.
2.2. Phỏng vấn sâu.
a,
Khái niệm.
Phỏng vấn là cách thu thập thông tin
sơ cấp thông qua việc hỏi và trả lời, các câu hỏi được dùng là các câu hỏi mở.
Phỏng vấn có thể được thực hiện dưới
các hình thức sau:
- Phỏng vấn mặt đối mặt.
- Phỏng vấn qua điện thoại.
- Phỏng vấn qua thư tín.
b,
Các kiểu phỏng vấn.
- Phỏng vấn cơ cấu hóa: đây là cuộc
phỏng vấn diễn ra theo kế hoạch đã được vạch sẵn tỷ mỉ và chu đáo. Người phỏng
vấn dựa vào một bảng câu hỏi đã được soạn sẵn và in đồng loạt, có thể người trả
lời cũng có sẵn một bản ở trên tay. Người thực hiện phỏng vấn phải tuân thủ một
số nguyên tắc:
+ Không đảo lộn thứ tự các câu hỏi.
+ Đọc đúng câu hỏi trong bảng hỏi,
không thêm bớt, không gợi ý.
Kiểu phỏng vấn này thường được dùng
khi tiến hành phỏng vấn tập trung hoặc phỏng vấn hàng loạt cá nhân với cách
thức mặt đối mặt trong một khoảng thời gian hạn chế với cùng một nội dung đã
được ấn định.
- Phỏng vấn bán cơ cấu hóa: cũng tương
tự như phỏng vấn cơ cấu hóa, trong phỏng vấn bán cơ cấu hóa bảng câu hỏi được
thiết kế chỉ là các chủ đề mà nhà nghiên cứu quan tâm, tùy thuộc vào điều kiện
bên ngoài mà khai thác thông tin cho phù hợp, có thể đảo thứ tự các câu hỏi,
gợi mở cho người trả lời.
- Phỏng vấn không cơ cấu: cuộc phỏng
vấn được dựa trên một số chủ đề mà nhà nghiên cứu quan tâm, các chủ đề được
vạch ra trên giấy, trong quá trình hỏi người phỏng vấn có thể hỏi bất cứ chủ đề
nào mà mình quan tâm. Quan trọng là làm sao lấy được thông tin mà mình quan
tâm. Lối phỏng vấn này có nhiều tên khác nhau như: phỏng vấn tự do, phỏng vấn
sâu, phỏng vấn mở, hay phỏng vấn mạn đàm.
c,
Cách thức ghi thông tin.
- Thực hiện ghi chép.
- Sử dụng máy ghi âm, máy quay phim,…
(phải có sự xin phép trước)
2.3. Quan sát.
a,
Khái niệm.
Là phương pháp thu thập thông tin sơ
cấp về đối tượng bằng cách tri giác trực tiếp và ghi chép thẳng mọi nhân tố có
liên quan. Quan sát khác với cách nhìn thông thường ở chỗ quan sát có sự chủ
định trước, hướng vào mục đích mà nhà nghiên cứu quan tâm.
b,
Các kiểu quan sát.
- Quan sát không cơ cấu hóa: Đây là
kiểu quan sát mà người nghiên cứu không chủ định trước về các nhân tố sẽ được
quan sát, sự quan sát không có kế hoạch, chương trình chi tiết, chỉ có đối
tượng được quan sát là được xác định trước.
- Quan sát cơ cấu hóa: Đây là kiểu
quan sát được lên kế hoạch tỉ mỉ. Trong chương trình quan sát có xác định rõ
những yếu tố, tình huống sẽ được quan sát và ghi chép lại, cái gì là chính, cái
gì là bổ trợ. Tất cả chương trình quan sát phải được lên kế hoạch một cách tỉ
mỉ, chính xác và phải bằng văn bản.
c,
Các phương pháp quan sát.
- Quan sát không tham dự: Đây là
hình thức quan sát mà người quan sát đứng bên ngoài với tư cách là quan sát
viên chứ tuyệt nhiên không tham gia vào tiến trình đang xảy ra. Họ chỉ đơn
thuần ghi chép lại những gì đang xảy ra trước mắt mà thôi.
- Quan sát có sự tham dự: Là hình
thức quan sát trong đó người nghiên cứu trực tiếp tham gia vào quá trình đang
diễn ra ở một mức độ nào đó. Trong lối quan sát này người ta thường phân ra
thành một số hình thức sau.
+
Sự tham gia đầy đủ: Lúc này người nghiên cứu gia nhập thực sự vào tập thể
và hoạt động như các thành viên khác. Anh ta tiến hành quan sát theo chiều sâu
từ bên trong đối tượng, chỉ có điều quan trọng là anh ta giấu mình đi để tập
thể được quan sát đó không hề hay biết là nhà nghiên cứu.
+
Tham gia công khai: Là hình thức mà người nghiên cứu tham gia vào trong tập
thể bị quan sát, nhưng không giấu giếm vai trò của mình. Được sự đồng ý của tập
thể, anh ta quan sát mọi diễn biến trong tập thể đó trong một thời gian nhất
định. Anh ta không chỉ thuần túy quan sát mà còn kết hợp với các phương pháp
khác nữa như phỏng vấn, sử dụng bảng hỏi.
- Quan sát tại hiện trường: Là hình
quan sát đối tượng trong hoàn cảnh tự nhiên với các tình huống thực đang diễn
ra mà không có sự sắp xếp, chủ động nào cả.
- Quan sát trong phòng thí nghiệm:
Là hình thức quan sát trong đó bản thân đối tượng và khung cảnh do nhà nghiên
cứu sắp xếp, bố trí theo ý đồ, kịch bản đã ấn định từ trước
- Quan sát theo chu kỳ: Là hình thức
quan sát được tiến hành trên cùng một đối tượng và được lặp lại theo những thời
gian định kỳ.
- Quan sát ngẫu nhiên: Là sự quan
sát các hiện tượng, sự kiện, tình huống không hề xác định trước mà chỉ là tình
cờ bắt gặp, nhưng chúng gây ấn tượng buộc nhà nghiên cứu lưu tâm bỏ thời gian
quan sát.
V. Xử lý thông tin, kiểm định
giả thuyết, trình bày báo cáo và xã hội hoá kết quả điều tra thực nghiệm
Giai đoạn
này gồm ba công đoạn sau:
1. Tập hợp
tài liệu, phân nhóm và miêu tả, giải thích.
2. Kiểm tra
giả thuyết nghiên cứu
3. Trình bày
báo cáo và xã hội hoá kết quả.
1.
Tập hợp tài liệu, phân nhóm và miêu tả, giải thích
Kết hợp giai
đoạn hai, có thể thu được một khối lượng lớn các thông tin; nhưng chủ yếu vẫn
tồn tại dưới dạng thông tin cá biệt, chưa được phân loại. Các thông tin này
thường bao gồm phiếu điều tra ankét, nhật ký ghi chép biên bản hoặc phiếu phỏng
vấn sâu, tài liệu thống kê, sách báo, văn bản, tranh ảnh, băng ghi âm, đĩa
hình..v..v
Nhiệm vụ đầu
tiên của nhà nghiên cứu trong giai đoạn này là:
- Tập hợp
các tài liệu, sắp xếp chúng vào các nhóm dấu hiệu riêng. Thí dụ:
+ Tài liệu
kinh tế, chính trị, pháp luật.
+ Tài liệu
thống kê hay các văn bản báo cáo.
+ Tài liệu
về mức sống hay các dấu hiệu khác về học vấn, nghề nghiệp.
Trong giai
đoạn xử lý thông tin bước đầu, có thể sử dụng cả các biện pháp đơn giản để phân
loại đối với các tài liệu kết hợp với xử lý bằng máy vi tính.
Xử lý bằng
máy vi tính theo ba bước:
- Lập sơ đồ
lôgíc, xử lý và phân tích thông tin
+ Mẫu tài
liệu thu thập thông tin.
+ Thống kê
các phương pháp xử lý bảo đảm kiểm tra được giả thuyết.
+ Lập sơ đồ
phân tích kết quả thu được. Nêu hướng phân tích chính.
- Lập trình
để xử lý trên máy vi tính (do chuyên gia vi tính đảm nhiệm)
Người lãnh
đạo cuộc điều tra phải đưa ra những yêu cầu cụ thể để các chuyên gia vi tính
lập trình theo phương án tối ưu, đáp ứng được tối đa yêu cầu của giả thuyết
nghiên cứu.
- Chuẩn bị
tài liệu để đưa vào máy vi tính (thông thường là các phiếu ankét)
+ Đánh số,
làm sạch số liệu (xử lý thô)
+ Thống nhất
các biến số thu thập được của các câu hỏi mở, mã hoá chúng thành các nhóm dấu
hiệu. Theo kinh nghiệm, khâu này phải làm trước lúc lập trình, hoặc nến đã lập
trình rồi phải xử lý, chỉnh lý bổ sung vào số liệu.
Công việc
tiếp theo là do chuyên gia vi tính đảm nhiệm. Như vậy, nhiệm vụ của giai đoạn
này là chuyển các thông tin cá biệt thành các thông tin tập hợp. Trên cơ sở của
những thông tin tập hợp (lại được đặt trong các bảng phân nhóm liên hợp) ta mới
có thể có cơ sở lựa chọn phương tiện quan trọng để tiếp tục phân tích hoặc áp
dụng các phương pháp thống kê tinh vi hơn.
Sau khi đã
tiến hành xử lý, sàng lọc thông tin, phân nhóm các tài liệu thì bước tiếp theo
là phân tích thông tin. Có hai cách phân tích thông tin: miêu tả và giải thích.
Miêu tả: là sự ghi lại những kết quả
nghiên cứu xã hội học kinh nghiệm bằng hệ thống các ký hiệu đã được lựa chọn và
biểu đạt những kết quả đó trong những khái niệm khoa học. Nó là khâu trung gian
từ kinh nghiệm đến giải thích khoa học, có nghĩa là nó chưa vạch ra được bản
chất và mối liện hệ có tính quy luật của các sự kiện, do vậy nó vẫn nằm trong
khuôn khổ của kinh nghiệm. Thành phần của miêu tả thường có ít nhất ba thành
tố:
+ Những tài
liệu nghiên cứu có tính chất kinh nghiệm.
+ Hệ thống
ký hiệu đem lại cho các miêu tả (các đồ thị, biểu bảng, các sơ đồ…..)
+ Những khái
niệm có liên quan đến hệ thống ký hiệu. Người ta thường tiến hành miêu tả hay
lý giải các kết quả của công việc nghiên cứu xã hội học kinh nghiệm bằng các
biểu đồ của các chuỗi biến phân như lược đồ tổ chức, đa giác phân chia, lược đồ
tích luỹ, đường cong phân chia…v..v..
Ưu điểm
chính của sự mô tả bằng biểu đồ là tính trực quan của nó.
Giải thích: là sự phát
hiện ra bản chất của đối tượng quan sát trên cơ sở những tài liệu kinh nghiệm
và lý thuyết xã hội học bằng cách chỉ ra ở đối tượng những vấn đề mà giả thuyết
của cuộc nghiên cứu đặt ra. Nó xác nhận hoặc loại bỏ một giả thuyết nào đó hay
toàn bộ hệ thống giả thuyết.
2.
Kiểm tra giả thuyết nghiên cứu
Theo quan
điểm lôgíc học, kiểm tra là một quá trình xác nhận bằng kinh nghiệm những kết
quả rút ra từ giả thuyết đưa ra ban đầu. Có thể tiến hành kiểm tra giả thuyết
bằng thực nghiệm xã hội học, phương pháp thống kê hoặc biện pháp áp dụng các
biến số kiểm tra.
Theo quan
điểm duy vật khoa học, hoạt động thực tiễn xã hội của con người là tiêu chuẩn
cao nhất và có uy tín để kiểm tra tính chân thật của một kết quả nghiên cứu nào
đó. Bởi vậy, việc kiểm tra giả thuyết một cách toàn diện và có sức thuyết phục
cao đòi hỏi nhà nghiên cứu phải vượt ra khỏi khung cảnh của những suy luận
lôgíc đơn thuần (chỉ từ kết quả đến sự luận chứng). Ở đây, sự khẳng định bằng
kinh nghiệm hệ thống những giả thuyết là rất có ý nghĩa.
Điều quan
trọng là phải biết kết hợp sự kiểm tra giả thuyết bằng chính các thao tác lôgíc
với những tri thức có được bằng kinh nghiệm; đồng thời không nên coi là sai lầm
nghiêm trọng nếu như một giả thuyết nào đó đã bị kết quả của cuộc điều tra phủ
nhận. Trong thực tế, chính sau những sự kiện như vậy thì đồng thời lại là điểm
khởi đầu của một giả thuyết nghiên cứu đúng đắn hơn: hơn nữa, chính sự bác bỏ
các giả thuyết bằng những kết quả kinh nghiệm của cuộc nghiên cứu, tự nó cũng
có giá trị nhất định.
3.
Trình bày bản báo cáo và xã hội hoá kết quả
a) Báo cáo
và tờ trình có thuyết minh:
Kết quả điểu
tra xã hội học thực nghiệm thường được trình bày dưới dạng báo cáo. Kèm theo nó
là tờ trình có thuyết minh về việc giải quyết những nhiệm vụ đã đặt ra và các
phụ lục kèm theo. Trong tờ trình có thuyết minh quá trình thực hiện chương
trình của cuộc nghiên cứu, có thông báo các tư liệu tính toán, luận chứng.
Trong phụ lục kèm theo có các chỉ tiêu, bảng số, đồ thị, các bảng ankét, những
mẫu, những phiếu ghi, những phép thử. Sau các bản báo cáo là những cuốn sách
chuyên khảo, những bài báo, tuyển tập, các bản luận..v..v..
b) Những yêu
cầu đối với bản báo cáo:
-
Chỉ ra mục đích, nhiệm vụ của cuộc điều tra (tương quan giữa mục đích lý luận
và mục đích thực hiện) - Làm sáng tỏ tình trạng nghiên cứu (vấn đề hiện nay và
những quan điểm hiện có đối với đề tài)
-
Phần đặc biệt của bản báo cáo cần trình bày những vấn đề có tính chất phương
pháp luận cho việc lựa chọn và luận chứng bộ công cụ phương pháp của cuộc
nghiên cứu, phân loại việc lựa chọn, các phương pháp thu thập thông tin xã hội.
-
Trình bày một cách đầy đủ mọi giai đoạn nghiên cứu đã được tiến hành với đối
tượng, sự liên kết lẫn nhau giữa tất cả các khâu của nó và lôgíc của bản thân
sự tìm kiếm khoa học, chỉ ra được vị trí và vai trò của thể thức nghiên cứu..v..v..
-
Chỉ ra mức độ thích ứng của kế hoạch nghiên cứu so với nhiệm vụ và sự phù hợp
của giả thuyết nghiên cứu so với những kết quả của cuộc nghiên cứu mang lại độ
tin cậy của hệ thống mã hoá thông tin và sự tái hiện của nó trong bản báo cáo.
-
Bản báo cáo cũng cần chỉ ra được mức độ của việc giải quyết các nhiệm vụ, nội
dung khoa học và khả năng có thể suy rộng các kết luận từ cuộc nghiên cứu sang
các lĩnh vực khác có hoàn cảnh tương đồng.
-
Cuối cùng là việc đưa ra các dự báo, kiến nghị.
Thông
thường, ngoài bản báo cáo đầy đủ, người viết báo cáo còn có thêm một bản giản
lược khác phản ánh được cô đọng và súc tích hơn những nội dung của bản báo cáo
đầy đủ.
Đời
sống hiện thực luôn luôn biến đổi, phong phú, sinh động, vì vậy, để các cuộc
điều tra xã hội học thu được kết quả mỹ mãn, mô hình này cũng cần được tiếp
thu, vận dụng một cách linh hoạt, cơ động và sáng tạo.
Tài liệu tham khảo
-----*****-----
- Lương Văn Úc
(2009), Xã hội học, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân.
- Lê Minh Chiến (2008), Xã hội học đại cương, Đại
học Đà Lạt (tài liệu lưu hành nội bộ).
- Ngọ
Văn Nhân (2008), Xã hội học, Nxb Công an nhân dân.
- Lê
Anh Vũ (2008), Xã hội học nhập môn, Đại học Đà Lạt (tài liệu lưu hành nội bộ).
- Bùi
Nhựt Phong (2008), Xã hội học đại cương, Đại học Đà Lạt (tài liệu lưu hành nội
bộ).
- Nguyễn
Đình Tấn (2005), Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, Nxb Lý luận chính trị.
- Phạm Tất Dong (chủ biên) (2001), Xã hội học, NXB ĐHQG Hà
Nội.
- Trần
Thị Kim Xuyến (2005), Phương pháp nghiên cứu xã hội học, ĐH KHXH & NV
Tp.HCM. (tài liệu lưu hành nội bộ).
- Trần Thị Kim Xuyến (2000), Xã hội học nhập môn, NXB
Thống kê.
- Phạm Tất Dong - Lê Ngọc
Hùng (1999), Xã hội học, NXB giáo dục.
- Trần
Hữu Quang (1998), Xã hội học nhập môn, ĐH Mở Tp.HCM.
- Hermann Korte (bản dịch)
(1997), Nhập môn lịch sử xã hội học, NXB Thế giới.
- Nguyễn Minh Hòa (1997), Xã hội học – Những vấn
đề cơ bản, ĐH KHXH&NV Tp.HCM.

[1] Phạm Tất Dong (chủ biên) (2001), Xã hội học, NXB ĐHQG Hà Nội, Tr39-40.
[2] Lương Văn Úc (2009), Xã hội
học, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, tr.45.
[3] Nguyễn Đình Tấn (2005),
Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, Nxb Lý luận chính trị, tr.12.
[4] Nguyễn Đình Tấn (2005),
Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, Nxb Lý luận chính trị, tr.14.
[5]Nguyễn Đình Tấn (2005), Cơ cấu xã hội và phân tầng
xã hội, Nxb Lý luận chính trị, tr.19.
[6] Nguyễn Đình Tấn (2005),
Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, Nxb Lý luận chính trị, tr.19-21.
[7] Lương Văn Úc (2009),sđd,
tr.38.
[8] Lương Văn Úc (2009),sđd,
tr.38-40.
[9] Lương Văn Úc (2009),sđd,
tr.40-42.
[10]
Đặng
Cảnh Khanh, PHÂN TÍCH XÃ HỘI HỌC QUÁ TRÌNH PHÂN
GIẢI VÀ TÁI TẠO CƠ CẤU XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY, VNH3.TB6.737
[11] Ngọ Văn Nhân (2008), Xã hội
học, Nxb Công an nhân dân, tr.81-82.
[12] Nguyễn Đình Tấn (2005),
sđd, tr.38.
[13] Nguyễn Đình Tấn (2005),
sđd, tr.39
[14] Lương Văn Úc (2009),sđd,
tr.80.
[15] Trần Đình Tuấn, Công tác
xã hội – Lý thuyết và thực hành.
[16] Trần Hữu Quang (1998), Xã
hội học nhập môn, ĐH Mở Tp.HCM, tr.20.
[17] Nguyễn Đình Tấn (2005),
sđd, tr.43.
[18] Trần Hữu Quang (1998),
sđd, tr.20.
[19] Nguyễn Minh Hòa (1997),
Sđd, tr.188-191.
[20] Trần Hữu Quang (1998),
Sđd, tr.58.
[21] Nguyễn Đình Tấn (2005),
Sđd, tr.67.
[22] Lương Văn Úc (2009), Sđd,
tr.105-106
[23] Lương Văn Úc (2009), Sđd,
tr.106.
[24] Nguyễn Đình Tấn (2005),
Sđd, tr.67.
[25] Nguyễn Đình Tấn (2005),
Sđd, tr.68.
[26] Trần Hữu Quang (1998),
Sđd, tr.58.
[27] Trần Hữu Quang (1998),
Sđd, tr.59-60.
[28] Trần Hữu Quang (1998),
sđd, tr.39.
[29] Trần Hữu Quang (1998),
sđd, tr.45-46.
[30] Nguyễn Đình Tấn (2005),
sđd, tr.44.
[31] Nguyễn Đình Tấn (2005),
sđd, tr.44.
[32] Nguyễn Minh Hòa (1997),
Xã hội học những vấn đề cơ bản, ĐH KHXH & NV Tp.HCM, tr.54.
[33] Nguyễn Đình Tấn (2005),
sđd, tr.45.
[34] Lương Văn Úc (2009),sđd,
tr.186-187.
[35] Trần Hữu Quang (1998),
sđd, tr.46.
[36] Trần Hữu Quang (1998),
sđd, tr.46.
[37] Nguyễn Đình Tấn (2005),
sđd, tr.50-52.
[38] Lương Văn Úc (2009),sđd,
tr.187-188.
[39] Trần Hữu Quang (1998),
Sđd, tr.44.
[40] Nguyễn Minh Hòa (1997),
Sđd, tr.50.
[41] Nguyễn Đình Tấn (2005),
sđd, tr.52.
[42] Nguyễn Đình Tấn (2005),
sđd, tr.52-53.
[43] Nguyễn Minh Hòa (1997),
Sđd, tr.50.
[44] Trần Hữu Quang (1998),
Sđd, tr.42-43.
[45] Lương Văn Úc (2009), Sđd,
tr.189.
[46] Nguyễn Minh Hòa (1997),
Sđd, tr.55-56.
[47] Nguyễn Đình Tấn (2005),
Sđd, tr.64-65.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét