Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2013

XÃ HỘI HỌC ĐẠI CƯƠNG

CHƯƠNG 1.   XÃ HỘI HỌC VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT KHOA HỌC

I. Xã hội học là gì? Các tiền đề cho sự ra đời của xã hội học

I.1. Xã hội học là gì?

          Thuật ngữ “xã hội học” (Sociology) được nhà xh học nguời Pháp – A.Comte (1798 – 1857) sử dụng lần đầu tiên vào năm 1838, được ghép từ hai chữ có nguồn gốc khác nhau:
          + “Socius” trong tiếng La-tinh: Xã hội.
          + “Logos” trong tiếng Hy Lạp: Học thuyết.
          A.Comte đã ghép hai chữ này để cho ra đời thuật ngữ “Sociology” – Xã hội học (bộ môn nghiên cứu xã hội) mà ngày nay chúng ta sử dụng.
          Ngay từ khi mới hình thành đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về xã hội học, chính vì sự ra đời không đồng nhất của bộ môn xã hội học nên khó lòng có được sự thống nhất trong định nghĩa về nó:
          + Định nghĩa của A.Comte: Khoa học xã hội học là tìm hiểu các quy luật xã hội giống như các quy luật vật lý cho phép tìm ra hệ quả của sự liên kết những hiện tượng xh.
          + Theo E.Durkheim: Xã hội học là khoa học nghiên cứu về những sự kiện xh.
          + Theo M. Weber: Xã hội học là khoa học nghiên cứu các hành động xã hội.
          + Theo Osipov, xã hội học là khoa học về các quy luật và tính quy luật xã hội chung và đặc thù của sự phát triển và vận hành của các hệ thống xã hội xác định về mặt lịch sử, là khoa học về các cơ chế tác động và các hình thức biểu hiện của các quy luật đó trong hoạt động của các cá nhân, các nhóm xã hội, các giai cấp và các dân tộc.
          Phân biệt khái niệm xã hội học và xã hội:
-         Xã hội được hiểu là hệ thống các hoạt động và quan hệ của con người, của một cộng đồng người cùng cư trú trên một lãnh thổ (vùng, quốc gia) ở trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Do đó, xã hội là khái niệm mang tính lsử.
vd: Aristote à công bằng xã hội à công bằng trong phân phối.
                                                          công bằng trong xét xử.
vd: Việt Nam là một nước, một quốc gia độc lập.
          Tuy có những hướng nghiên cứu khác nhau, nhưng nhìn chung các nhà xã hội học thống nhất với nhau ở một điểm: Xã hội học là một ngành khoa học nghiên cứu một cách hệ thống các nhóm người. Nó tập trung nghiên cứu các mối quan hệ hỗ tương và hành vi chung của các nhóm người.
          I.2. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học
          - Xã hội học nghiên cứu về xã hội loài người, trong đó các mối quan hệ, tương quan xã hội được biểu hiện thông qua các hành vi xã hội giữa người với người hay giữa các nhóm người.
          + Quan hệ và mối tương quan giữa cá nhân và cộng đồng.
          + Hành vi xã hội của con người.
          + Hệ thống cấu trúc xã hội mang tính chuẩn mực
          + Phát hiện ra các quy luật chung nhất của các hiện tượng, mối quan hệ.
          - Thông qua việc nghiên cứu các mối quan hệ ở trên mà người ta có thể tìm ra logic, cơ chế vận hành, phát hiện ra tính quy luật của các hình thái vận động và phát triển của xh.
          Vd:    Sự sẵn sàng giúp đỡ mọi người.
                   Tình đoàn kết tương thân, tương ái trong hoàn cảnh khó khăn
                   Lá lành đùm lá rách
                   Kính trên, nhường dưới
                   Tôn sư trọng đạo
          => Những phản ứng trên của con người Việt Nam đã thành những thói quen. Những phản ứng được lặp đi, lặp lại của con người đối với nhau trong xã hội hầu như ổn định, ít thay đổi và dường như tuân thủ những khuôn mẫu tiêu biểu và tính tiêu chuẩn hóa cao.
          Vd: Người Việt Nam có tính cần cù, siêng năng và điều đó tác động đến các nhà đầu tư ngày càng nhiều.
          => Truyền thống yêu nước đã có từ lâu đời đã giúp chúng ta chiến thắng những kẻ thùng hùng mạnh nhất ở mỗi thời đại khác nhau.
          - Tính phổ quát trong các công trình xã hội học là các hành vi mang tính xã hội của con người. Ở các nhóm có xu hướng các cá nhân sẽ đưa ra các phản ứng giống nhau trong các tình huống ứng xử. Câu hỏi đặt ra phải chăng trong đời sống xã hội chúng ta việc ứng xử, giao tiếp thường tuân theo những khuôn khổ, khuôn mẫu nhất định?
          Một vấn đề nữa mà xã hội học quan tâm là nghiên cứu hệ thống xã hội, nghiên cứu mối quan hệ tương tác giữa các nhóm xã hội và cộng đồng xã hội diễn ra như thế nào? Thông qua đó mà có thể thấy được cấu trúc xã hội, mối liên hệ bên trong của nó, thấy được sự vật, hiện tượng tác động lẫn nhau như thế nào? Nó được định hình dưới dạng các thiết chế xã hội nào và nó được hoạt động theo hệ thống giá trị chuẩn mực nào?
          Vd: Ở các nước hồi giáo người đàn ông được lấy 4 vợ và nó được nhà nước và pháp luật thừa nhận.
          Nhiệm vụ của các nhà xã hội học là phát hiện ra tính quy luật của quá trình hoạt động của cơ cấu xã hội được biểu hiện thông qua các thiết chế xã hội và tác động của chúng trở lại đối với cuộc sống của con người.
          Vd: hiện nay ở Việt Nam các tư tưởng phong kiến vẫn tồn tại trong bộ phận người dân, và nó bị các ảnh hưởng văn hóa, xã hội, tôn giáo, lễ nghi tác động vào.
          Xã hội học nghiên cứu hệ thống cấu trúc xã hội có tính chất giá trị, chuẩn mực quy định hoạt động của hệ thống xã hội, để sau khi điều tra nghiên cứu thì có thể cải thiện được vấn đề, đưa ra được những giải pháp, hướng đến mang lại kết quả cho mọi người trong xã hội có điều kiện bình đẳng trong phát triển.
          Nghiên cứu các nhóm cộng đồng xã hội, mối quan hệ của nó với cá nhân và cộng đồng để phát hiện ra những bản sắc đặc thù trong hành vi của cá nhân, của nhóm cộng đồng (tính chuẩn mực).
          I.3. Những tiền đề của sự ra đời xã hội học
I.3.1. Sự ra đời của xã hội học là nhu cầu khách quan
          Ngay từ thời cổ đại những vấn đề lớn của cá nhân và xã hội đã ảnh hưởng đến các nhà triết học.
          Từ thế kỷ XVIII ở Tây Âu, cách mạng khoa học kỹ thuật đã bắt đầu, mục đích của quá trình này là tăng năng suất để phục vụ cho đời sống của con người và các vấn đề xã hội đã được các nhà khoa học quan tâm, đặc biệt là triết học.
          Các nhà triết học, chính trị học trước Marx đã cố gắng đưa ra các phương pháp phù hợp ứng dụng vào nghiên cứu xh, nhưng tất cả đều bị chủ nghĩa duy tâm chủ quan chi phối.
          Đến thời kỳ của Marx, ông đưa ra các phương pháp phù hợp vào trong nghiên cứu xã hội, lúc này xã hội học mang tính khoa học hơn.
          Sự phát triển của công nghệ đã hình thành nên các đô thị, tạo ra các làn sóng di cư ồ ạt từ nông thôn vào trong các thành thị. Sự tập trung đông đúc của dân cư đã gây ra sự va chạm, con người sống với nhau, tương tác với nhau nhiều hơn. Hậu quả là các vấn đề xã hội nảy sinh một cách gay gắt, nó phá vỡ truyền thống của các dân tộc, ảnh hưởng trực tiếp đến các tập tục và thói quen, làm xuất hiện: nghèo đói, thất nghiệp, tệ nạn xã hội,… đây là các yếu tố hoàn toàn khách quan.
          Trong xã hội truyền thống thì xã hội học khó có thể ra đời, vì vậy khi xã hội phát triển ở một cấp độ cao hơn hay còn gọi là xã hội công nghiệp đã là một động lực mạnh mẽ cho sự ra đời của xã hội học. Trong xu thế mới mẻ này Auguste Comte (1798 – 1857) với những cống hiến của mình được xem là “nhà sáng lập” ra xã hội học.
          Về sau xã hội học tiếp tục phát triển nhưng cũng trãi qua nhiều bước thăng trầm song dần dần nó đã khẳng định được mình và xâm nhập vào Pháp, Đức, Anh,…
          Các công trình ngcứu xh học đầu tiên ra đời ở Pháp, Đức cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX với những tác giả: E. Durkheim (Pháp), Karl Marx (Đức), Max Weber (Đức),…
          Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn rất nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau trong từng trường phái xã hội học, do đó, ngay trong các hệ thống vẫn tồn tại các khái niệm, các giả định, các hướng phát triển lý thuyết khác nhau. Ở Châu Âu các nghiên cứu thiên về vĩ mô; trong khi đó ở Mỹ các ngcứu tập trung ở cấp độ vi mô, nghiên cứu trên các nhóm người.

I.3.2. Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời khoa học xã hội học
          a, Điều kiện phát triển kinh tế
          Vào nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX thì chủ nghĩa tư bản phát triển một cách đột biến ở Châu Âu và Mỹ. Nền kinh tế - xã hội ở Châu Âu và Mỹ đã có những bước tiến mạnh mẽ hệ quả là nó đưa đến một sự thay đổi mạnh mẽ ở các quốc gia này đặc biệt nổi lên là các vấn đề của kinh tế - xã hội.
          Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo ra một bước đột phá mạnh mẽ về sản xuất của cải vật chất (sau 100 năm tồn tại chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một lượng vật chất bằng lượng vật chất con người tạo ra từ lúc con người xuất hiện). Chính điều này đã giúp giai cấp tư sản đánh bật tầng lớp phong kiến, quý tộc ra khỏi ngai vàng thống trị xã hội.
          Sự phát triển đó đã lảm thay đổi mạnh mẽ mọi lĩnh vực của đời sống con người.
          + Lao động công nghiệp, cơ khí hóa trong các phân xưởng thay cho lao động thủ công, làm thay đổi nền sản xuất cổ truyền. Lối sống đô thị theo phong cách công nghiệp đã đẩy lùi ảnh hưởng của lối sống điền dã, tản mạn, manh mún kiểu nông nghiệp – nông thôn. (ngày nay với sự ra đời của các robot điện tử đã đưa khâu sx gần như tự động hoàn toàn)
          + Hiện tượng dân cư tập trung chen chúc ở các đô thị làm nảy sinh các vấn đề về dân số, về môi trường và bệnh tật, nạn thất nghiệp, sự xuất hiện của các loại tệ nạn xã hội… Nhu cầu phải nghiên cứu kỹ càng, nghiêm túc để lý giải và tìm cách giải quyết các vấn đề trên ngày càng trở nên mạnh mẽ và bức thiết.
          + Ngay từ thời Phục Hưng các quyền về con người và vai trò của cá nhân đã được xác lập và khẳng định nhất là việc đề cao vai trò của cá nhân, của con người.
          + Sự phát triển mạnh mẽ của đời sống kinh tế - xã hội đã tạo tiền đề cho sự khẳng định vị thế, vai trò của cá nhân trong đời sống xã hội.
          Xã hội tư bản được hình thành đã cũng cố điều kiện và đề ra những yêu cầu mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
          + Xã hội tư bản đòi hỏi sự tự do của cá nhân phải được đặt trong khuôn mẫu, trong thiết chế xã hội và sự tuân thủ pháp luật. (ngày nay tính tự do trong xã hội tư bản đã nâng lên mức cao gọi là sự tự giác về tự do và chấp hành nghiêm pháp luật.)
          + Vai trò của cá nhân trong các tương quan xã hội đặt ra cho xã hội học những vấn đề cụ thể, bức thiết.
          + So với giai đoạn trước sự giao lưu quốc tế, quan hệ thương mại, quan hệ thực dân đã tạo ra cơ hội, tiền đề cho sự tiếp xúc, làm ăn, buôn bán với nhiều xã hội, nhiều nền văn hóa, nhiều lối sống khác lạ.
          Xã hội Tây Âu có nhiều điểm khác xa với xã hội Châu Á, Châu Mỹ, Châu Phi về kinh tế, các quan hệ chính trị xã hội về cá nhân trong đời sống.
          à Từ những tiền đề kinh tế - xã hội và sự phát triển xã hội kể trên đã đặt ra yêu cầu phải nhanh chóng nghiên cứu, phát hiện, tìm kiếm các quy luật, xu thế phát triển của xã hội và con người, góp phần định hướng cho sự phát triển của xã hội tương lai.
          b, Những tiền đề về tư tưởng, lý luận khoa học
          Xã hội học cũng giống như bất kỳ một khoa học nào khác, sẽ không thể nào phát triển được nếu chỉ xuất phát, căn cứ vào các nhu cầu thực tiễn mà thiếu những tiền đề lý thuyết, cơ sở khoa học nhất định.
Tiền đề lý luận và PP luận làm nảy sinh XHH bắt nguồn từ những tư tưởng KH và VH thời đại Phục Hưng, khoa học của thế kỷ “Khai sáng”, TK 18. Các nhà tư tưởng ở Anh thường cổ vũ và bênh vực cho quyền con người nhằm biện minh cho CNTB CN lần đầu tiên xuất hiện ở nước này. Tại Pháp, cái nôi của XHH – thời kỳ Phục hưng được gọi là thời đại duy lý với tư tưởng và học thuyết của các nhà triết học nổi tiếng như Voltaire, Rousseau, Condorcet, Diderot,… các nhà triết học Pháp cho rằng con người và XH chủ yếu bị chi phối bởi điều kiện và hoàn cảnh XH của họ, rằng con người có những “quyền tự nhiên” nhất định mà các thiết chế XH đang vi phạm những quyền đó.
Sự phát triển mạnh mẽ của KH và đặc biệt là PP luận NCKH cũng là nhân tố quan trọng cho sự ra đời của XHH. Các cuộc CMKH diễn ra ở TK 16, 17 và đặc biệt là TK 18 đã làm thay đổi căn bản thế giới quan và PP luận KH.
          Trong giai đoạn này khoa học đi sâu nghiên cứu mặt xã hội đời sống con người – một thực thể sinh động và rất phức tạp là cơ sở tiền đề cho quá trình hình thành lý luận trong quá trình nghiên cứu của xã hội học.
          A. Comte đã kế thừa nhiều thành tựu để xác lập khoa học xã hội học, ông cố gắng làm rõ, phân biệt đối tượng, phương pháp nghiên cứu, hình thành nội dung và cấu trúc của xã hội học với tư cách là một khoa học độc lập so với các khoa học khác trong hệ thống khoa học xã hội.
          + Comte đã cố gắng vận dụng kết quả của khoa học tự nhiên, các khoa học về con người, kể cả một số phương pháp của khoa học kỹ thuật vào trong quá trình nghiên cứu xã hội học để đạt hiệu quả cao hơn trong quá trình ngcứu (các bộ môn khoa học liên ngành).
          + Trong các phương pháp được Comte sử dụng thì phương pháp hệ thống – cấu trúc vốn có về vật chất đã được mô phỏng, chọn lọc áp dụng và việc nghiên cứu xã hội và tương quan của cá nhân và đời sống xã hội hay là hành vi của con người.
          Vd: Sự xuất hiện của thuyết tiến hóa trong sinh vật học đã cung cấp các quan điểm phương pháp luận trong các nghiên cứu xã hội học. Các nhà xã hội học như A. Comte, K. Marx trong các công trình nghiên cứu của mình đều có quan điểm xem xã hội cũng giống như sinh vật, cũng có quá trình hình thành – vận động – phát triển - tiêu vong.
          - Còn E. Durkheim trong tác phẩm nổi tiếng “Các quy tắc của phương pháp xã hội học” xem xã hội cũng là một cơ thể sống, có cấu trúc và vận hành theo quy luật riêng và theo một cơ chế hết sức phức tạp.
          Trong rất nhiều công trình nghiên cứu xã hội học từ trước đến nay người ta đã áp dụng rất nhiều phương pháp nghiên cứu của các khoa học khác nhau (toán học, lịch sử, triết học,…) đặc biệt là các phương pháp định lượng trong các khoa học tự nhiên để đo đạc, tìm hiểu, lượng giá các vấn đề xã hội, góp phần làm tăng thêm độ chính xác, tin cậy, tường minh, tính khoa học trong các nghiên cứu xã hội học (phổ biến hiện nay có một số phần mền chuyên chụng như SPSS, SATA, EXCEL,… được sử dụng trong nghiên cứu xhh).
          Ngày nay, xã hội học ngày càng cố gắng nâng cao tính chất khoa học của mình qua việc thu thập số liệu, thực hành, quan sát, phân tích cứ liệu, xử lý thông tin, mô tả, biểu diễn tổng quát và việc áp dụng những phương pháp, kỹ thuật, thủ thuật nghiên cứu của nhiều khoa học có liên quan (tính liên ngành giữa các khoa học)
          - Nhờ các tiền đề lý thuyết phong phú, vững chắc với quá trình nghiên cứu bám sát thực tế đời sống trong các công trình nghiên cứu của mình mà xã hội học đã thực đảm bảo các điều kiện sau đây:
          + Dựa trên các bằng chứng hiển nhiên, có đủ điều kiện kiểm tra, kiểm chứng, không được cực đoan trong nghiên cứu.
          + Thực tiễn xã hội luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển, do đó trong quá trình nghiên cứu xã hội học phải đảm bảo tính chính xác, trung thực của đối tượng. Sự thật khoa học chỉ được chấp nhận khi vấn đề đã được xem xét lật đi, lật lại; nghiên cứu vấn đề với nhiều phương pháp, kiểm chứng, thử nghiệm bằng các cách thức khác nhau.
          + Trong xã hội học có thể lập luận chứng minh, trả lời câu hỏi nào đó đặt ra bằng những kiến thức mới mẻ. Nhưng giá trị của các phát hiện, các lý thuyết mới ấy cần được đánh giá sau khi đã được vận dụng vào đời sống (không xuất phát từ ý chí chủ quan, thái độ định kiến của người nghiên cứu, nếu không sẽ dễ dẫn đến sai lầm trong nghiên cứu).
          + Phải đảm bảo tính khách quan trong quá trình nghiên cứu, không thiên vị, không thành kiến cho nên phải tiêu chuẩn hóa các tiêu chí đánh giá, khảo sát, kiểm tra càng tỉ mỉ càng tốt, từ việc đơn giản cho đến việc tập hợp, xử lý, đánh giá vấn đề.
          + Nhà nghiên cứu phải vận dụng đúng phương pháp nghiên cứu, đảm bảo các điều kiện nghiên cứu, đặc biệt phải có phẩm chất, năng lực phù hợp với yêu cầu của hoạt động.
          Tóm lại, sự phát triển nhanh chóng của xã hội Tây Âu cho đến thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã đòi hỏi sự xuất hiện của khoa học chuyên nghiên cứu về sự vận động và phát triển của xã hội. Ngày nay xã hội học đã được áp dụng vào tất cả các mặt của đời sống xã hội, có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển của các ngành khoa học khác, ngày càng trở thành một khoa học có cách tiếp cận xã hội “đa diện” có giá trị cao cả về ý nghĩa lý luận cũng như là trong thực tiễn đời sống xã hội.
          II. Chức năng, nhiệm vụ của xã hội học
II.1. Chức năng của xã hội học
II.1.1. Chức năng nhận thức
          Được thực hiện trong một số mặt cơ bản sau.
          - Trang bị cho người học hệ thống tri thức khoa học về sự phát triển của xã hội, quy luật của sự phát triển ấy, đồng thời vạch ra được cơ chế của sự phát triển đó.
          - Thông qua việc vạch ra những quy luật khách quan của các quá trình phát triển của các hiện tượng và quá trình xã hội mà tạo nên những tiền đề để nhận thức về những triển vọng nhằm phát triển hơn nữa đời sống xã hội cũng như các mặt, các khía cạnh riêng biệt của nó.
          - Thông qua nghiên cứu các nhà xã hội học xác định được nhu cầu phát triển của xã hội, của các giai cấp, các cộng đồng biểu lộ qua các hành động của con người, góp phần xác định các hình thức cụ thể nhằm đạt được nhu cầu, sự kết hợp được lợi ích của tập thể, cộng đồng.
          - Chức năng nhận thức của xã hội học được thể hiện qua chức năng phương pháp luận của nó.
          Ý nghĩa phương pháp luận của xã hội học thể hiện ở chỗ.
          + Nó là những thông tin khoa học loại trừ các thông tin không đóng vai trò quyết định trong quá trình nghiên.
          + Nó đóng vai trò là những nguyên lý và những chuẩn mực trong quá trình ngcứu.
          + Mọi hoạt động của con người đều được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý cụ thể, chứa đựng những vấn đề mang tính chung, tính quy luật rút ra từ những kinh nghiệm của quá khứ và hiện tại à có vậy mới thuyết phục được các nhà lãnh đạo, quản lý xã hội. Nếu làm không tốt sẽ gây ra các ảnh hưởng không tốt đến kinh tế - xã hội, hiệu quả công việc không cao.
          Vd: Vấn đề đi lại, giao thông ở Việt Nam à liên quan nhiều đến hành vi của con người, phải tiến hành điều tra để tìm ra các nguyên nhân để giải quyết.
          Theo điều tra:
          * Đa số người được hỏi (có bằng) không thuộc luật.
          * Truyền thống đi tắt đón đầu.
          * Phương pháp học và thi bằng lái xe còn nhiều vấn đề chưa phù hợp với thực tế.
          * Các thói quen không tốt trong đi lại đã ăn sâu vào cuộc sống của mọi người dân.
          + Trong hoạt động thực tế những nguyên lý này thể hiện trong các chuẩn mực, các quy tắc trong các hoạt động khoa học, các chức năng trên được thực hiện bằng các phương pháp nhận thức.
          - Ý nghĩa thực tiễn của các phương pháp xã hội học thực nghiệm cho phép khảo nghiệm tính đúng đắn, xác thực của các mô hình, các quyết sách trong công tác quản lý xã hội trên cơ sở lý luận và thực tiễn.
II.1.2. Chức năng thực tiễn
          - Chức năng thực tiễn của xã hội học gắn liền với chức năng nhận thức à nhận thức bản chất của các hiện tượng, sự việc à tìm ra quy luật vận động à xuất phát bắt nguồn từ bản chất khoa học.
          - Trên cơ sở phân tích những thực trạng xã hội và những mặt, những quá trình riêng lẻ của sự vận động, phát triển của xã hội, xã hội học sẽ làm rõ những bước phát triển tiếp theo của xã hội trong tương lai gần cũng như xa à các nhà xã hội học phân tích các thông tin à tìm ra hiện tượng xã hội vận động từ riêng đến chung hướng đến tìm ra quy luật của sự vận động đó, dự báo được tương lai.
          Vd: TP HCM đưa ra mô hình cai nghiện 5 năm: mục tiêu là phải tạo ra được công ăn việc làm để người nghiện không bị tái nghiện à sau động thái này thì người ta sẽ phải tiến hành hàng loạt động thái khác như xây dựng các khu công nghiệp, cho vay vốn à giúp đỡ tạo điều kiện cho họ tái hòa nhập với cộng đồng.
          - Khi đã nghiên cứu được thực trạng của các quan hệ xã hội, người ta kiểm soát được các quan hệ này và điều hòa nó phù hợp với sự tiến bộ của xã hội.
          - Việc dự báo trên cơ sở nắm bắt chính xác các quy luật và xu hướng phát triển của xã hội là tiền đề, là điều kiện để kế hoạch hóa và quản lý xã hội một cách khoa học.
          - Chức năng thực tiễn của xã hội học không tách rời các kiến nghị, đề xuất được đề ra để đáp ứng cho nhu cầu quản lý xã hội. à cũng cố mối quan hệ giữa khoa học và đời sống thực tế, phát huy được tác dụng của xã hội học đối với công tác quản lý xã hội.
          - Từ các yếu tố trên ta thấy vai trò của xã hội học đối với quản lý xã hội:
          + Do tính đặc thù của xã hội học và do vai trò của nó đối với công tác quản lý xã hội.
          + Quản lý xã hội là hoạt động của con người gắn với sự đặt ra các quyết sách có tính quyết định đến ứng xử của mỗi các nhân, của xã hội à trong công việc quản lý xã hội các nhà lập pháp, hành pháp thể hiện chức năng mình là người quản lý xã hội. Chỉ có trên thực tiễn các nhà xã hội học mới giúp đỡ được cho các nhà quản lý xã hội.
          Tất cả các hành động có ý thức, có mục đích của từng cá nhân và cộng đồng cho thấy rằng: mọi người hành động có ý thức và giống nhau thì chứng tỏ đó là xã hội phát triển; ngược lại mọi người hành động chưa có ý thức hoặc ý thức không đồng đều thì chứng tỏ xã hội chưa phát triển.
          - Các thể chế xã hội thay đổi hoặc duy trì tình trạng của chúng thông qua cơ chế điều chỉnh ý thức, hành vi bằng các thể chế điều đó sẽ giúp cho các xã hội ổn định được trật tự xã hội.
          - Chức năng quản lý xã hội nó còn thể hiện ở việc dự báo, dựa trên sự kết hợp giữa cơ sở lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu xã hội học mà người ta có thể điều chỉnh, ngăn chặn để xã hội phát triển theo hướng tiến bộ. Phải đi thực tế, nghiên cứu, điều tra, thống kê, phân tích để đưa ra được các giải pháp tốt nhất.
          Trên cơ sở đánh giá xã hội, xã hội học mới tự nâng cao tính chính xác và khoa học của mình.
 II.1.3. Chức năng tư tưởng
- Mang tính giáo dục và định hướng xã hội.
- Phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường.
- Để thực hiện tốt chức năng tư tưởng các nhà xã hội học chân chính luôn luôn mang tính khách quan, khoa học trong quá trình nghiên cứu à các nhà quản lý sử dụng kết quả nghiên cứu của nhà xã hội học các quyết sách. Nếu nghiên cứu đúng sẽ cho ra các quyết sách đúng, nếu kết quả nghiên cứu sai có thể dẫn đến sự sai lầm của các quyết sách, ảnh hưởng đến toàn xã hội trên nhiều mặt.
- Nhà xã hội học không đứng bên lề xã hội, họ nghiên cứu khoa học của mình với mục đích, lý tưởng xã hội mà toàn xã hội đang phấn đấu thực hiện à nhà xã hội học phải hòa mình vào cuộc sống từ đó tìm ra nguyên nhân để đưa ra được các kết luận đúng.
II.2. Nhiệm vụ của xã hội học
Xã hội học có ba nhiệm vụ chính là nghiên cứu lý luận, nghiên cứu thực nghiệm và nghiên cứu ứng dụng. Các nhiệm vụ khác nhau của xã hội học xét cho cùng là thực hiện các chức năng của xã hội học.
a, Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận.
Nhiệm vụ hàng đầu của xã hội học là xây dựng, phát triển hệ thống các khái niệm, phạm trù, lý thuyết khoa học riêng mang tính đặc thù của khoa học xã hội học. Trong bối cảnh là một ngành khoa học còn non trẻ trong hệ thống các khoa học xã hội việc nghiên cứu lý luận được coi là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của khoa học xã hội học, quá trình nghiên cứu này sẽ giúp xã hội học định hình là một ngành khoa học độc lập, có những hệ thống các khái niệm, các phạm trù riêng cho mình.
Ngày nay trong quá trình củng cố, tìm tòi các phạm trù, khái niệm đặc thù cho khoa học của mình xã hội học cần hướng đến hình thành và phát triển hệ thống lý luận, phương pháp luận nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống về những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm đáp ứng các nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
b, Nhiệm vụ nghiên cứu thực nghiệm.
Đây là một nhiệm vụ quan trọng của xã hội học với tư cách là một khoa học. Xã hội học tiến hành nghiên cứu thực nghiệm để:
- Kiểm nghiệm, chứng minh giả thuyết khoa học.
- Phát hiện thực tiễn và vấn đề mới làm cơ sở cho việc sửa đổi, phát triển và hoàn thiện khái niệm, lý thuyết và phương pháp luận nghiên cứu.
- Kích thích và hình thành tư duy xã hội học.
Ngoài ra, nghiên cứu thực nghiệm xã hội học hướng tới vạch ra cơ chế, điều kiện hoạt động và hình thức biểu hiện của các quy luật xã hội, làm cơ sở cho việc đưa tri thức khoa học vào đời sống. Nghiên cứu thực nghiệm được coi là chiếc cầu nối giữa lý luận và thực tiễn, khi thực hiện nhiệm vụ này thì trình độ lý luận và khả năng nghiên cứu của nhà xã hội học cũng được nâng lên.
c, Nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng.
Xã hội học còn có nhiệm vụ nghiên cứu để đưa tri thức khoa học ứng dụng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn của xã hội, việc nghiên cứu ứng dụng giúp cho việc thu hẹp khoảng cách giữa tri thức khoa học mang tính lý luận và sự sinh động, đa dạng, nhiều chiều cạnh của đời sống xã hội.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta, xã hội học đã và đang tiếp tục có những đóng góp tích cực cho việc làm sáng tỏ những vấn đề mới nảy sinh và góp phần đề ra các giải pháp thực tiễn có tính khả thi cao. Trong điều kiện tình hình kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, xã hội học cần tập trung nghiên cứu, làm rõ các vấn đề sau:[1]
1) “Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam”.
2) Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3) Biến đổi các giai cấp và tầng lớp xã hội.
4) Các chính sách đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội.
5) Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
6) Tăng cường vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
7) Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
8) Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa,…
III. Mối quan hệ giữa xã hội học với các khoa học khác
          - Xã hội học có tính độc lập của nó trong mối quan hệ với các khoa học khác.
            - Chủ nghĩa duy vật biện chứng lịch sử là cơ sở chung cho xã hội học và phương pháp luận để nghiên cứu xã hội học đại cương và xã hội học chuyên ngành.
          1. Quan hệ giữa xã hội học và triết học
Triết học là khoa học nghiên cứu quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Quan hệ giữa xã hội học với triết học là quan hệ giữa khoa học cụ thể với thế giới quan khoa học. Triết học Mác - Lênin là nền tảng thế giới quan, là cơ sở phương pháp luận nghiên cứu của xã hội học Mácxít. Các nhà xã hội học Mácxít vận dụng CNDV lịch sử và phép biện chứng duy vật làm công cụ lý luận sắc bén để nghiên cứu và cải thiện mối quan hệ giữa con người và xã hội.
Trong quan hệ với triết học, các nhà xã hội học tránh hai quan niệm cản trở sự phát triển xã hội học. Quan niệm thứ nhất, cho rằng xã hội học ngày nay "không phải như là một khoa học riêng lẻ đã hình thành" mà như là một bộ phận của triết học. Quan niệm này đã đồng nhất nghiên cứu lý luận xã hội học đại cương với chủ nghĩa duy vật lịch sử trong việc giải thích đời sống xã hội. Một số tác giả trước đây đã coi các nghiên cứu xã hội học cụ thể là sản phẩm của "chủ nghĩa thực chứng sơ khai", là biểu hiện của môn khoa học xã hội tư sản. Trên thực tế, quan niệm như vậy đã làm ngưng trệ quá trình hình thành xã hội học như một ngành khoa học độc lập vào những năm 1930 -1960 ở một số nước. Quan niệm đó đã để lại hậu quả lâu dài làm gián đoạn việc kế thừa, vận dụng và phát triển một cách sáng tạo và tư tưởng, khái niệm và phương pháp luận xã hội học do Marx, Engels, Lênin và những người cùng chí hướng đã nêu ra từ thế kỷ XIX đến nay.
Quan niệm thứ hai, đặt xã hội học biệt lập hay đối lập với triết học. Những người theo quan niệm này lập luận rằng, xã hội học đã ra đời với tư cách là một khoa học cụ thể, đối lập với triết học tư biện, kinh viện, giáo điều, là những khoa học bất lực trong việc giải thích những vấn đề mới mẻ nảy sinh từ đời sống kinh tế, chính trị xã hội ở Châu Âu thế kỷ XIX. Theo truyền thống đó, xã hội học không ngừng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể, "thực chứng" để giải đáp những vấn đề của thực tiễn cuộc sống xã hội. Nói cách khác, xã hội học không có mối liên hệ gì đáng kể với triết học. Thực chất quan niệm này cố tình làm ngơ trước một thực tế là xã hội học bao giờ cũng có tính triết học và tính tư tưởng. Tính triết học của xã hội học thể hiện ở chỗ nó tìm hiểu bản chất của các sự vật hiện tượng trong tự nhiên và xã hội và nhận thức quy luật chung của vận động phát triển con người và xã hội. Lý thuyết xã hội học của Marx là một ví dụ.
Tính triết học trong xã hội học gắn liền với thế giới quan, hệ tư tưởng và tính giai cấp. Các nhà xã hội học Mácxít xây dựng học thuyết xã hội học trên lập trường CNDV biện chứng về lịch sử, xã hội và con người, và luôn coi triết học Mác - Lênin là thế giới quan, phương pháp luận và vũ khí tư tưởng trong công cuộc xây dựng một xh công bằng, VM.
Mối quan hệ giữa xã hội học và triết học có tính biện chứng. Các nghiên cứu xã hội học cung cấp những thông tin và phát hiện các vấn đề, bằng chứng mới làm phong phú kho tàng tri thức và phương pháp luận triết học. Nắm vững tri thức xh học Mác-Lênin giúp ta vận dụng một cách sáng tạo tri thức triết học Mác-Lênin vào hoạt động thực tiễn CM.
2. Quan hệ giữa xã hội học với tâm lý học và sử học
Nội dung và tính chất của mối quan hệ này phụ thuộc vào cách giải quyết vấn đề, đối tượng nghiên cứu của xã hội học. Trên thực tế, dựa vào tiếp cận vĩ mô, một số tác giả phủ nhận vai trò của tâm lý học trong giải quyết các vấn đề của xã hội học. Chẳng hạn, với quan điểm hiện tượng xã hội phải được giải thích bằng hiện tượng xã hội, Durkheim đã lần lượt bác bỏ tất cả các học thuyết tâm lý học khi ông giải thích nguyên nhân của nạn tự tử. Weber cho rằng xã hội học có nhiệm vụ nghiên cứu hành động xã hội của các cá nhân. Nhưng theo ông, chỉ có thể hiểu hành động xã hội qua việc giải nghĩa của hoàn cảnh xã hội gồm các yếu tố lịch sử, văn hóa, hệ giá trị chuẩn mực... Nói cách khác theo Weber sử học, chứ không phải tâm lý học, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nghiên cứu xã hội học.
Dựa vào tiếp cận vi mô, một số tác giả như Homans, Mead cho rằng cần sử dụng triệt để tâm lý học để giải thích các hiện tượng, quá trình xã hội. Họ lập luận rằng, vì hành động của con người, tương tác giữa các cá nhân là nền tảng "vi mô" của các quá trình xã hội và cơ cấu xã hội nên các quy luật tâm lý cá nhân phải là những nguyên lý nghiên cứu cơ bản của xã hội học.
Kết quả của tình thế giằng co, "tiến thoái lưỡng nan" này là một mặt, tâm lý học xã hội trở thành một chuyên ngành, một lĩnh vực nghiên cứu quan trọng của cả tâm lý học và xã hội học. Mặt khác, nghiên cứu so sánh lịch sử xã hội trở thành một trong những chuyên ngành thu hút sự chú ý của nhiều nhà xã hội học. Cách tiếp cận lịch sử - văn hóa, các phương pháp, khái niệm và bằng chứng sử học ngày càng xuất hiện nhiều trong nghiên cứu xã hội học.
Có ý kiến cho rằng, tuy cùng nghiên cứu xã hội, xã hội học khác với sử học ở chỗ sử học nghiên cứu nó trong quá khứ, còn xã hội học nghiên cứu nó trong hiện tại. Điều đó không thật đúng. Các khoa học xã hội, gồm cả sử học và xã hội học, chủ yếu nghiên cứu những gì đã xảy ra (vừa xảy ra hay đã xảy ra từ lâu) để nhận thức cái hiện tại và dự báo cái sắp xảy ra, sẽ xảy ra.
Có thể dựa vào định nghĩa của chúng ta xác định vị trí của xã hội học trong quan hệ với các khoa học khác, cụ thể là với tâm lý học và sử học. Xã hội học không bị tâm lý học áp đảo vì nó không tập trung nghiên cứu về cá nhân (hành vi, hoạt động xã hội của cá nhân). Xã hội học không bị sử học lấn át vì nó không tập trung nghiên cứu về các sự kiện lịch sử xã hội cụ thể, đặc thù trong quá trình vận động, phát triển theo thời gian. Xã hội học cũng không phải là "khoa học nửa nọ, nửa kia" nó không nghiên cứu theo kiểu "mỗi thứ một tí", tức là vừa nghiên cứu con người vừa nghiên cứu xã hội, một cách biệt lập nhau. Xã hội học là khoa học tương đối độc lập nghiên cứu các quy luật nảy sinh, vận động và phát triển mối quan hệ giữa con người và xã hội.
          3. Xã hội học và kinh tế học
          Kinh tế học nghiên cứu quá trình sản xuất, phân phối tiêu dùng và dịch vụ. Nó giải quyết những vấn đề như tác động của tỷ suất lợi nhuận đến dòng tiền tệ và ảnh hưởng của thuế đến người tiêu dùng.
          Kinh tế học có khả năng dự báo rất cao về những biến đổi kinh tế. Chúng là những phương tiện giúp cho các nhà kinh tế học dự báo tốt hơn các nhà khoa học xã hội khác. Xã hội học và kinh tế học kết hợp với nhau trong lĩnh vực nghiên cứu xã hội - kinh tế, tập trung vào mối quan hệ giữa những khía cạnh kinh tế và phi kinh tế của đời sống xã hội.
          4. Xã hội học và khoa học chính trị
          Khoa học chính trị thường nghiên cứu những vấn đề về tổ chức, quản lý, lịch sử, lý thuyết và chính phủ. Họ quan tâm đến các mô hình bầu cử và sự tham gia trong các đảng phái chính trị, ngày nay khoa học chính trị còn tập trung nghiên cứu hành vi chính trị trong ý nghĩa rộng lớn hơn của nó. Khuynh hướng này đã tao ra mối liên kết giữa xã hội học và khoa học chính trị thông qua các nghiên cứu của chuyên ngành xã hội học chính trị. Các nhà xã hội học và chính trị học chia sẽ với nhau quan điểm về sự tương tác của các yếu tố bên trong các thiết chế chính trị với nhau và giữa thiết chế chính trị với các thiết chế khác. Cả hai nhóm này đều tiến hành nghiên cứu về việc sử dụng quyền lực, quá trình xã hội hóa chính trị, các nhóm hoạt động đặc thù và các hoạt động đấu tranh chính trị.
IV.  Cơ cấu hệ thống xã hội học
1. Xã hội học đại cương
Được xem là ở cấp độ cơ bản của hệ thống lý thuyết xã hội học, là khoa học về các quy luật xã hội, của sự vận động và phát triển của xã hội, của tương tác tự nhiên vốn có của các yếu tố hợp thành hệ thống xã hội, là nền tảng cho việc nghiên cứu khoa học xã hội học.
Xã hội học đại cương được trình bày với các mục sau:
- Xã hội học: bao gồm những chủ đề và vấn đề, tập trung nêu lên sự phát triển trong xã hội học, các quan điểm khác nhau về xã hội học.
- Các lý thuyết khác nhau trong xã hội học gồm có: lý thuyết đồng cảm, lý thuyết về hành động xã hội, lý thuyết đụng độ (xung đột), các vấn đề xã hội học trong thực tiễn.
- Các kiểu bất bình đẳng trong xã hội, trong đó trình bày sự phân tầng, phân chia giai cấp, đẳng cấp trong các xã hội, các thời kỳ lịch sử khác nhau: trong kinh tế, văn hóa, giáo dục,…
- Giới thiệu các lý thuyết khác nhau về sự phân tầng, về quyền sở hữu, phân phối cơ may, tính di động xã hội, các khái niệm được sử dụng phổ biến trong xã hội học.
- Trình bày về giai cấp (theo quan niệm của xã hội học) và động lực giai cấp: vai trò của các giai cấp và tương lai của nó,…
+ Giai cấp: cùng địa vị kinh tế, cùng địa vị xã hội, cùng một ý thức hệ
+ Tầng lớp: là khái niệm mang nặng tính tiêu dùng vật chất trong xã hội và do người tiêu dùng đánh giá.
+ Đảng phái: quyền lực chính trị
+ Những hình thức phụ thuộc: giới trẻ, giới nghèo, chủng tộc và thế giới thứ ba
- Vấn đề giới, sự bất bình đẳng về giới
- Vấn đề gđình, các kiểu gia đình, sự xung đột và xu thế biến chuyển của gia đình.
- Giáo dục: bất bình đẳng trong giáo dục, sự di động xã hội thông qua giáo dục, ảnh hưởng của giáo dục đối với gia đình, vai trò của giáo dục nhà trường,…
- Quyền lực và chính trị: vai trò của nhà nước, sự phân bố quyền lực trong xã hội phương Tây, vai trò đang thay đổi của nhà nước.
- Lao động: quá trình lao động tư bản chủ nghĩa, các lý thuyết quản lý, thất nghiệp.
          Ngoài ra trong xã hội học đại cương một nhóm tác giả người Mỹ (Cohen & Bruch) trình bày 5 vấn đề:
Phần I: Xã hội học là gì? Giới thiệu khái quát về xã hội học, nghiên cứu xã hội học.
Phần II: Cá nhân và xã hội
Trong đó nhấn mạnh vai trò của văn hóa, quá trình xã hội hóa, vai trò của tình dục và giới tính, lệch lạc và kiểm soát xã hội.
Phần III: Tổ chức xã hội
Trình bày dưới dạng hiểu biết về các thiết chế xã hội và hình thức tổ chức xã hội, hôn nhân, gia đình. Giữa các tổ chức xã hội phải có sự phù hợp với nhau trong một hệ thống thống nhất.
Phần IV: Phân tầng xã hội
Giai cấp xã hội, di động xã hội, quan hệ về chủng tộc và dân tộc
Phần V: Sự biến đổi xã hội
Dân số, văn hóa, sinh thái, đô thị hóa, hành vi tập thể và hành động xã hội.
2. Xã hội học chuyên biệt
Áp dụng nghiên cứu lý luận của xã hội học đại cương vào nghiên cứu những mặt khác nhau của đời sống xã hội trên những mặt nhất định như: nông thôn, đô thị, giới, gia đình,…
Xã hội học chuyên biệt rất đa dạng, là cấp độ các quan hệ có tính chất “bộ phận” phản ánh mối liên hệ khách quan giữa các mặt khác nhau của đời sống xã hội.
Lý luận xã hội học chuyên ngành là khâu trung gian giữa xã hội học đại cương và xã hội học thực nghiệm.
Các nhà nghiên cứu ở Việt Nam chia thành 4 chuyên đề:
- Các yếu tố xã hội: văn hóa, cấu trúc xã hội, xã hội hóa, tương tác xã hội, sự lệch chuẩn và kiểm soát xã hội.
- Bất bình đẳng xã hội.
- Các thiết chế xã hội: gia đình, giáo dục, tôn giáo, hệ thống chính trị, kinh tế,…
- Các biến đổi xã hội: tính năng động xã hội, hành vi tập thể, phong trào xã hội, chuẩn mực xã hội, các biến đổi xã hội về văn hóa,…
3. Xã hội học thực nghiệm
Trong cấp độ thực nghiệm chúng ta ưu tiên cho việc điều tra, khảo sát thực tế, thu thập tư liệu, số liệu, nắm bắt các thông tin từ dư luận xã hội,… và quan trọng hơn là phải biết xử lý, chọn lọc thông tin.
Mô tả mối quan hệ giữa lý thuyết và thực nghiệm. Nhận thức của lý thuyết được làm phong phú, sâu sắc thêm trên cơ sở thực nghiệm khoa học.









CHƯƠNG 2.  NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA CÁC NHÀ NGHIÊN
                    CỨU XÃ HỘI HỌC KINH ĐIỂN

I. Auguste Comte (1798-1857)
          - Sinh ra tại thành phố Montpellier (Pháp), trong một gia đình theo đạo Giatô.
          - Năm 1814 theo học tại trường Bách khoa Pari.
- Năm 1826 ra dạy tư và làm thư ký cho Saint Simon, sau đó ông tham gia giảng dạy triết học thực chứng. OÂng laø ngöôøi saùng laäp ra Hieäp hoäi thöïc chöùng luaän.
- Các tác phẩm chính:
+ Giáo trình triết học thực chứng (1842)
+ Hệ thống xã hội thực chứng (1851)
          Comte sống trong thời kỳ CMTS Pháp thành công và sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế - xã hội công nghiệp nước Pháp. Theo ông xã hội Tây Âu trong thời kỳ này đã rơi vào khủng khoảng với sự sụp đỗ của xã hội thần học và đồng thời với nó là sự ra đời của khoa học xã hội và công nghệ.
            Các lý luận chính của Comte về xã hội học:
Về quan niệm xã hội học.
Tư tưởng xã hội học của Comte chịu ảnh hưởng của khoa học tự nhiên như vật lý học, sinh vật học...
+ Vieäc ñaët teân
Ông là người khai sinh ra Xã hội học. Công lao đầu tiên của ông đó là việc đặt tên cho bộ môn khoa học này là Xã hội học ( Sociology xuất phát từ hai từ: Socius: xã hội và logos: luận lý [học thuyết]).
Ông chia các ngành khoa học thành hai loại: khoa học cơ bản: toán, lý, hoá và khoa học cụ thể như: sinh, sử, địa... Mục đích của ông không phải chỉ để phân loại mà để tìm chỗ đứng riêng biệt cho xã hội học nhằm đề cao xã hội học, vì theo ông “các khoa học cơ bản và cụ thể đều không thể lý giải được xã hội hiện đại, chỉ có Xã hội học mới có thể làm được điều đó”.
+ Đối tượng của Xã hội học
Xã hội học là khoa học nghiên cứu quy luật khái quát, phán ánh mối quan hệ căn bản nhất của các sự vật, hiện tượng xã hội
+ Nguyên tắc xây dựng Xã hội học: dựa theo:
Chủ nghĩa kinh nghiệm: ông kế thừa quan điểm của Bekerly  (đưa ra lý thuyết phục tùng sự thụ động: “con người là sản phẩm xã hội nên con người phải phục tùng xã hội”) và Bacon (đưa ra quan niệm mới về phương pháp siêu hình học, phê phán quan điểm kinh viện của nhà thờ và đề cao tuyệt đối khoa học). Theo ông, chỉ có chủ nghĩa kinh nghiệm mới làm nên kiến thức con người. Chủ nghĩa kinh nghiệm tạo nên lý thuyết Xã hội học.
Chủ nghĩa thực chứng: Dựa trên thuyết vật lý, phải lượng hóa những yếu tố khoa học đo lường, chuẩn hóa từ quy luật, định luật để chuẩn hóa các hoạt động xã hội, hiện tượng xã hội. Thuyết của ông còn gọi là thuyết “Vật lý học xã hội”.
Học thuyết xã hội học của Comte, gồm 3 nội dung:
(1) Tĩnh học xã hội:
-         Đặt xã hội trong trạng thái tĩnh và từ đó đi mổ xẻ, tìm hiểu. Tĩnh học xã hội là bộ phận của xã hội học, nghiên cứu về trật tự xã hội, cơ cấu xã hội, các thành phần và mối liên hệ với chúng. Ông cho rằng, tĩnh học xã hội đầu tiên phải đi nghiên cứu vấn đề cá nhân.
-         Thực thể chứa đựng các nhu cầu, các năng lực có sẵn trong con người (thực thể tự nhiên). Tiếp đó, nó tồn tại các năng lực, các nhu cầu được tiếp thu từ bên ngoài (thực thể xã hội). Ông nhấn mạnh yếu tố thứ nhất, nhu cầu đó hình thành từ đâu, tại sao lại có nhu cầu. Yếu tố thứ nhất cấu tạo từ trái tim: chứa đựng tình cảm; trong khi đó khối óc: kiểm soát hành vi cá nhân. Ông cho rằng, hành vi, hành động sinh ra từ trái tim.
(2) Động học xã hội: (thay đổi xã hội)
- Động học là khoa học về sự phát triển. Theo Comte, động học trước hết là tìm hiểu những nhân tố quyết định cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Ông phân thành hai lọai: Kinh tế, khí hậu, dân số... (không quan trọng) và nhận thức, tư tưởng của con người (có ý nghĩa quyết định).
Trên cơ sở phân chia đó ông chia lịch sử loài người làm 3 giai đoạn, theo quy luật 3 trạng thái: (Luật tam trạng)
+ Giai đoạn thần học: Kéo dài hơn chục thế kỷ, tôn giáo thống trị xã hội, biểu hiện tư duy thần học là chủ yếu.
+ Giai đoạn siêu hình học: trong xã hội đã có tư duy trừu tượng nhưng những tư tưởng siêu hình thống trị. Ở đó, các nhà Luật học và Triết học chi phối xã hội. Ông coi đây là bản lề, bước đệm để chuyển giai đoạn thần học sang giai đoạn sau.
+ Giai đoạn thực chứng: ở giai đoạn này, các môn khoa học thực chứng phát triển. Điều đó làm kết thúc hệ thống đầu cơ tư tưởng tôn giáo cũng như Triết học kinh viện. Trong thời kỳ này, khoa học tự nhiên thống trị xã hội, nghiên cứu khoa học theo nguyên tắc chủ nghĩa kinh nghiệm thực chứng luận và thuyết vật lý. Đây là giai đoạn mà con người hiểu hết đời sống xã hội một cách rõ nhất so với trước đây.
=> Động học xã hội quan trọng hơn các trạng thái tĩnh học xã hội.
-         Ngoài 3 quy luật, ông còn nghiên cứu xã hội với tính cách là một tổng thể hữu cơ, trong đó mối quan hệ qua lại giữa các nhóm xã hội được coi là điều kiện tồn tại của xã hội.
-         Ông nghiên cứu về chiến tranh và hoà bình: ông lên án chiến tranh xâm lược, đòi hỏi xóa bỏ chế độ thực dân “việc áp đặt chiến tranh bằng lưỡi lê sẽ đem lại hậu quả cho cả hai phiá”.
(3) Cơ cấu xã hội: theo ông cơ cấu xã hội phát triển từ thấp lên cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Cơ cấu xã hội tổng thể được tạo nên từ các tiểu cơ cấu và sự phát triển của xã hội tất yếu sẽ làm cho tiểu cơ cấu xã hội được chức năng hóa, chuyên môn hóa. VD: cơ cấu kinh tế gồm nhiều ngành: công nghiệp, nông nghiệp , dịch vụ ... Khi nền kinh tế phát triển, cơ cấu công nghiệp được chuyên môn hóa, chức năng hóa và phân hóa thành các tiểu cơ cấu. Ông nghiên cứu cách liên kết hữu cơ các tiểu cơ cấu lại với nhau: theo hai đường.
-         + Con đường 1: phải có vai trò của nhà nước, tức là thông qua quyền lực của nhà nước  để điều hòa, điều phối nhằm liên kết các bộ phận lại không để nó tan rã.
-         + Con đường 2: dựa vào đạo đức, tình cảm, sự thiện chí của các cá nhân để liên kết cộng đồng. Từ đây, ông đặt ra khẩu hiệu “Tình yêu là nguyên tắc, trật tự là cơ sở, tiến bộ là mục tiêu”
Quan niệm về gia đình: ông coi gia đình là một tế bào của xã hội, là đơn vị xã hội cơ bản nhất, nó tham gia vào mọi đơn vị khác. Ông đã đi sâu nghiên cứu gia đình, phân công lao động trong gia đình, quan hệ  giữ các thành viên, đặc biệt là quan hệ  huyết thống. Theo ông, gia đình có 2 mối quan hệ cơ bản: hôn nhân và huyết thống.
Về phương pháp: ông đưa ra 3 phương pháp cụ thể:
(1) Phương pháp quan sát: ông cho rằng, nghiên cứu ngoài xã hội rất khó tiến hành quan sát bởi đời sống xã hội biểu thị trong một số qúa trình nhất định. Ông đã đề ra các nguyên tắc như sau trong quan sát:
-         Quan sát trong một thời điểm nhất định.
-         Dựa trên những tiền đề lý luận nhất định.
-         Phải chú ý đến những quy luật thống kê, chọn mẫu, chọn đối tượng.
-         Phải biết kế thừa những quan sát của người đi trước.
(2) Phương pháp thực nghiệm: có hai loại: trực tiếp và gián tiếp.
Phương pháp trực tiếp là nghiên cứu xã hội trên cơ sở những hiện tượng xã hội ta đã chọn ra, được nghiên cứu một cách dứt điểm trong trạng thái khách quan của nó.
Phương pháp gián tiếp: nghiên cứu những hiện tượng xã hội lớn hơn đã có những nguyên nhân chung và riêng mà đa số chúng ta nghiên cứu bằng cách gián tiếp.
(3)Phương pháp so sánh: theo ông, so sánh phải dựa trên 2 nguyên tắc: trục thời gian và vòng không gian.
KL:
-         Comte là người đặt cơ sở nền tảng cho xã hội học, ông đã đưa thuật ngữ Xã hội học vào kho tàng khoa học nhân loại.
-         Ông có nhiều lập trường quan điểm có tầm quan trọng ảnh hưởng lớn lao đến sự phát triển của xã hội học cổ điển: chủ nghĩa bảo thủ, thuyết cải cách, thuyết khoa học và quan điểm vê thế giới tiến hoá của ông
VD: Xã hội học của ông không tập trung vào cá nhân mà chỉ xem nó như là một đơn vị cơ bản của các thực thể phân tích lớn hơn như gia đình. Ông cũng đã đề xuất chúng ta nên nhìn và cả cơ cấu xã hội và biến đổi xã hội. Những câu hỏi đó đã trở thành những chủ đề trọng tâm của lý thuyết xã hội học từ trước đến nay.
-         Comte xây dựng cơ sở lý luận và phương pháp luận cho xã hội học (đòi hỏi các nhà xã hội học phải vận dụng sự quan sát thực nghiệm và phép phân tích so sánh lịch sử). Xã hội học của Comte chứa đựng nhiều tư tưởng tiến bộ, tìm ra con đường tiếp cận mới đối với sự phát triển xã hội - tức là ông vạch ra quy luật phát triển, mô hình phát triển, mô tả quy trình phát triển.
-         Ông tách xã hội học ra khỏi Triết học tự biện, giáo điều và đem đến cho nó sức sống mãnh liệt của khoa học thực chứng, đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển bộ môn khoa học này.
-          Tuy nhiên, trong học thuyết của ông cũng bộc lộ nhiều hạn chế. VD: Cắt nghĩa động lực phát triển xã hội là yếu tố tư tưởng.
ð    Nhìn chung tư tưởng xã hội học của Comte để lại nhiều nội dung và phương pháp quý giá được thế hệ sau kế thừa và phát triển.

II.  Karl Marx ( 1818- 1883)
Sơ lược về tiểu sử.
Ông sinh ra trong một gia đình trung lưu tại thành phố Treve – nước Đức. Ông là một nhà Triết học và Kinh tế học lỗi lạc, là nhà lý luận và được tôn vinh như là một vị lãnh tụ của phong trào công nhân trên thế giới. Ông là nhà khoa học duy nhất không có thư ký, không có lương. Ông đươc bầu là nhà lý luận số một và tư tưởng của ông làm thay đổi tư tưởng của nhân loại. Marx viết rất nhiều tác phẩm đồ sộ có ý nghĩa to lớn. Ông chưa bao giờ nói lên thuật ngữ xã hội học và cũng chưa bao giờ tự xem mình là nhà xã hội học. Tuy nhiên, những lý luận của ông đã có đóng góp rất nhiều trong quá trình nghiên cứu xã hội học.
Các quan điểm Xã hội học của Marx
          (1) Các lý thuyết
·        Lý thuyết xung đột (lý thuyết tiếp cận xã hội): Ông coi xã hội là một trường xung đột. Bất kể các hiện tượng trong tư duy của chúng ta đều mâu thuẫn. Qua lý thuyết này, ông cho rằng phải sử dụng nó để đi vào xã hội cụ thể.
·        Lý thuyết về hình thái kinh tế - xã hội. Qua đó, ông đã đi vào lý thuyết về phương thức sản xuất (LLSX và QHSX). Trong mối tương quan này thì LLSX năng động hơn, QHSX chỉ là cái vỏ. Từ đây ông phát hiện ra quy luật, tính chất của trình độ phát triển của LLSX. Từ đó ông phân chia lịch sử loài người thành 5 giai đoạn cụ thể. Xã hội loài người xem đây là phương thức nghiên cứu về chính xã hội loài người.
·        Lý thuyết về phân tầng xã hội: Ông chỉ ra hai nguyên nhân của sự phân tầng:
- Do sự khác nhau trong việc sở hữu LLSX. Người ta gọi Marx là nhà quyết định luận kinh tế. Trong xã hội có hai tầng lớp: có của cải vật chất: thống trị xã hội (TS) và không có của cải vật chất: bị trị (VS). Đấu tranh là động lực để phát triển xã hội.
- Phân tầng xã hội còn là do phân công lao động xuất hiện khi con người biết tác động vào tự nhiên (săn bắn, hái lượm), do tính chất lao động, nghề nghiệp... hình thành nên sự phân công lao động mà hình thành nên các tầng lớp khác nhau.
·        Quan niệm về bình đẳng và bất bình đẳng: trong xã hội hiện đại, bình đẳng là phân phối theo lao động, nhưng cơ sở của bình đẳng lại được xây dựng trên nền tảng của bất bình đẳng dẫn đến bất bình đẳng tuyệt đối, vĩnh viễn (bình đẳng ở đây không có nghĩa là ngang nhau. Bình đẳng được thể hiện trong mối quan hệ xã hội nhất định).
ð    Về mặt nghiên cứu lý luận và thực nghiệm xã hội học cần tập trung phân tích cấu trúc xã hội để chỉ ra ai là người có lợi, ai là người bị thiệt từ cách tổ chức xã hội và cơ cấu xã hội hiện có. Lý luận xã hội học cần tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa cơ cấu vật chất làm nền tảng của ý thức xã hội và cơ cấu tinh thần, ý thức xã hội.
          (2) Về phương pháp luận. Theo ông, có 3 cơ sở phương pháp luận:
-         Duy vật: dựa trên chủ nghĩa duy vật.
-         Dựa trên phép biện chứng: khi xem xét một sự kiện xã hội thì bắt buộc nhà xã hội học không được lấy một sự kiện để giải thích cho chính nó.
-         Dựa vào lịch sử cụ thể: mỗi sự kiện xã hội xảy ra đều có không gian và giới hạn thời gian của nó.
KL: Tóm lại, học thuyết của Marx nói chung và chủ nghĩa duy vật nói riêng có ý nghĩa và tầm quan trọng vô cùng to lớn đối với xã hội học nói riêng và đối với khoa học xã hội nói chung.
-         Các quan điểm của Marx về lịch sử xã hội và cấu trúc xã hội tạo thành bộ khung lý luận và phương pháp luận nghiên cứu xã hội học theo nhiều hướng khác nhau. Chẳng hạn: Xã hội học Marx ảnh hưởng tới trường phái lý thuyết xã hội phê phán; lý thuyết về mâu thuẫn và xung đột xã hội; lý thuyết về hệ thống thế giới; lý luận về nhà nước, về văn hóa, tư tưởng; lý thuyết về cấu trúc xã hội và nhiều trường phái lý thuyết khác.
-         Các nhà Xã hội học Mácxít vận dụng phép duy vật biện chứng của Marx để nghiên cứu cấu trúc xã hội, mâu thuẫn xã hội và sự phân tầng xã hội; vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích thực trạng và nguyên nhân của sự biến đổi xã hội. Dựa vào quan điểm duy vật biện chứng nghiên cứu sự tác động qua lại giữa các hiện tượng, quá trình xã hội, quan hệ  xã hội, hành vi, hoạt động của con người và một bên là phương thức sản xuất, phân công lao động xã hội và cơ cấu kinh tế. Các nhà Xã hội học cần phải phân tích ảnh hưởng của chính sách xã hội tới việc cải thiện điều kiện vật chất của con người.
-         Việc nhấn mạnh cấu trúc giai cấp của xã hội mở ra hướng nghiên cứu Xã hội học giai cấp và phân tầng xã hội theo giai cấp.
-         Điều quan trọng nhất theo ông, các nhà Xã hội học tiến bộ không những chỉ giải thích về thế giới mà còn góp phần tạo ra những biến đổi thế giới để xây dựng xã hội phát triển, công bằng, dân chủ và văn minh.

III. Herbert  Spencer ( 1820- 1903)
Sơ lược về tiểu sử.
Vào cuối thế kỷ 19, Anh quốc là một trong những cường quốc có nền kinh tế phát triển nhất thế giới làm ảnh hưởng đến đời sống chính trị vì thế Xã hội học đòi hỏi phải phát triển . Nhà nước Anh vừa mang tính chất hiện đại, vừa mang tính chất phong kiến nên gọi là nhà nước quân chủ lập hiến. Nhờ vậy, ở Anh xuất hiện nhiều trường phái tư tưởng.
H. Spencer sinh ra ở Derby - là nhà Triết học, Xã hội học và còn quan tâm nghiên cứu các môn khoa học tự nhiên. Ông chủ yếu tự học. Spencer là người tham gia sáng lập nên Xã hội học của thế giới. Lý luận của ông rất sắc sảo. Các tác phẩm đáng chú ý của ông: “Nghiên cứu Xã hội học” (1873); “Các nguyên lý Xã hội học” (1876); “Xã hội học miêu tả” (1889).
Đóng góp cho Xã hội học
          (1) Nội dung học thuyết Xã hội học
·        Định nghĩa về Xã hội học: Xã hội học là khoa học về các quy luật và các nguyên lý tổ chức xã hội, tức là xã hội học nghiên cứu sự trưởng thành và phát triển xã hội, xây dựng, điều khiển, tập hợp xã hội với tính cách chúng sinh ra từ tương tác các cá nhân và nhóm xã hội.
·        Lý thuyết về cơ thể học: ông coi xã hội mà chúng ta đang sống là cơ thể sống, sống động như một cơ thể con người. Các bộ phận cơ thể xã hội có khả năng ý thức và tính tích cực tác động lẫn nhau qua ngôn ngữ. Ông cũng đi tìm sự giống nhau giữa cơ thể sinh học và cơ thể xã hội, có 4 đặc điểm:
-         Sinh tồn và phát triển.
-         Đều tuân theo những quy luật nhất định: quy luật của sự tiến hoá, quy luật của sự suy tàn.
-         Có sự chuyên môn hoá về hoạt động.
-         Có khả năng tự đều tiết, tự hấp thu thích nghi với môi trường.
          + xã hội: nhà nước điểu khiển, giao thông, quân đội.
          + con người: thần kinh điều khiển, tuần hoàn, kháng thể.
          Sự giống nhau ở đây là sự điều tiết. Ông coi cân bằng là một trạng thái lý tưởng của xã hội. Hãy tự để cho cơ thể  xã hội điều tiết, đừng có tác động vào nó “Giàu xứng đáng giàu và nghèo xứng đáng nghèo”. Ông phủ nhận các chính sách của xã hội. Tư tưởng của ông bị một số người phê phán là vô nhân đạo (nhưng chính sách xã hội của Anh lại chịu ảnh hưởng của học thyết này rất lớn). Ông cho rằng, nếu phá vỡ tính cân bằng rất nguy hiểm.
·        Tiến hoá xã hội: Ông phê phán A.Comte về tĩnh học xã hội, nhưng lại sử dụng các thuật ngữ của Comte, dựa trên động học và tĩnh học của Comte.
-         Khác biệt: Spencer coi tĩnh học xã hội là trạng thái, là động lực cân bằng, còn động lực là hoàn hảo. Theo ông, sự tiến hoá của xã hội tất yếu sẽ đưa xã hội từ trạng thái giản đơn đến phức tạp, trạng thái cân bằng và hoàn hảo.
-         Ông thành lập sơ đồ về biểu hiện xã hội: xã hội giản đơn-> xã hội hỗn hợp 1 ->xã hội hỗn hợp 2 -> xã hội hỗn hợp 3. (Từ hái lượm -> nông nghiệp tự cung tự cấp -> nông nghiệp  có phân công lao động xã hội -> công nghiệp)
Tương ứng với mỗi loại xã hội là tập hợp các đặc trưng của hệ thống điều chỉnh, hệ thống vận hành và hệ thống phân phối. Từ đó, ông tìm tác nhân của sự tiến hoá xã hội. Có 3 tác nhân:
-         Biến số chủ quan: thuộc về trí tuệ, thể lực, cảm xúc.
-         Biến số bên ngoài: thuộc về khí hậu, đất, môi trường.
-         Biến số tự sinh: thuộc về dân số, mối liên hệ các nhóm xã hội khác nhau.
·        Phân loại xã hội:
* Xã hội quân sự:
-         Hệ thống điều chỉnh của xã hội quân chủ là tập trung và độc đoán.
-         Hệ thống vận hành của cá nhân bị xã hội kiểm soát hết sức chặt chẽ, hệ thống phân phối từ trên kiểm xuống.
-         Hệ thống quân chủ là động lực thúc đẩy mâu thuẫn chiến tranh.
* Xã hội kỹ nghệ
-         Hệ thống điều hành: mang tính dân chủ.
-         Hệ thống vận hành: mang tính năng động cá nhân và xã hội rất cao.
-         Hệ thống phân phối theo hai chiều: Chiều ngang: cá nhân - cá nhân, nhóm xã hội - xã hội; Chiều dọc: cá nhân - các nhóm xã hội.
-         Hệ thống quân chủ: là động lực thúc đẩy cạnh tranh.
Thiết chế xã hội
-         Định nghĩa: là khuôn mẫu, kiểu tổ chức xã hội, đảm bảo đáp ứng các yêu cầu, chức năng cơ bản của hệ thống xã hội, đồng thời kiểm soát hoạt động của các cá nhân và các nhóm xã hội.
-         Phân loại: có 5 loại thiết chế:
+ Thiết chế gia đình – dòng họ: nhằm thỏa mãn tái sản xuất con người, nó kiểm soát sinh hoạt tình dục và các mối quan hệ bên trong gia đình...
+ Thiết chế nghi lễ: đáp ứng nhu cầu kiểm soát liên kết các quan hệ sản xuất của con người.
+ Thiết chế chính trị: đáp ứng nhu cầu giải quyết mâu thuẫn, xung đột xã hội, kiểm soát quyền lực của các nhóm xã hội, tổ chức xã hội.
+ Thiết chế tôn giáo: đáp ứng nhu cầu niềm tin vào lực lượng siêu nhên, liên kết các cá nhân cùng  tín ngưỡng, kiểm soát và củng cố hệ thống chuẩn mực giá trị, niềm tin, tôn giáo.
+ Thiết chế kinh tế: nhằm thỏa mãn những nhu cầu về sản xuất và dịch vụ.
          (2) Phương pháp nghiên cứu:
Ông không đưa ra phương pháp nghiên cứu cụ thể nào nhưng ông đòi hỏi trong quá trình nghiên cứu phải sử dụng nhiều số liệu khác, thu thập số liệu vào nhiều thời điểm và nhiều nơi khác, nắm vững những tri thức và phương pháp nghiên cứu của các ngành khoa học khác nhau (tính chất liên ngành). Ông cho rằng, trong mọi ngành khoa học thì nghiên cứu xã hội học là khó khăn nhất vì:
·        Yếu tố khác quan: do tính phức tạp của đời sống xã hội, do tính đặc thù của xã hội: mỗi xã hội đều có những nét riêng biệt. Vì vậy, các nhà Xã hội học cần phải hết sức thận trọng tìm ra đâu là khuynh hướng đặc biệt, đâu là khuynh hướng phổ quát. Những tàn dư của xã hội ảnh hưởng đến xã hội đương đại rất nặng nề, do đó phải đi sâu nghiên cứu để phân biệt cái cũ, cái mới và để xem xét xã hội bên ngoài.
·        Yếu tố chủ quan: bản thân các nhà Xã hội học nghiên cứu xã hội chịu nhiều áp lực, định kiến “làm xã hội học đầu phải nóng, trái tim lạnh”, luôn ở trong trạng thái lạnh lùng để nhận xét một cách khác quan.
ð    Tóm lại, lý thuyết xã hội học của Spencer không đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của chủ nghĩa duy lý trong khoa học nhưng các quan niệm tiến hóa xã hội của Spencer gợi ra nhiều ý tưởng quan trọng, được tiếp tục phát triển trong các trường phái, lý thuyết xã hội học hiện đại.
ð    Ông đã phát triển hoàn chỉnh học thuyết của Comte lên một trình độ cao hơn (Comte sử dụng thuật ngữ “tĩnh học xã hội” và “động học xã hội” để nói tới các đặc điểm, tính chất xã hội thì Spencer lại triển khai các khái niệm đó chủ yếu với ý nghĩa giá trị học, tức là phân tích xem xã hội là gì, phải như thế nào).
ð    Xã hội học của Spencer đã đặt ra những ý tưởng lớn, trên nhiều lĩnh vực, trên nhiều trường phái (trường phái Sinh thái học nhân văn, trường phái Chicago phát triển mạnh trong thế kỷ 20 ở xã hội học Mỹ). Lý thuyết Xã hội học của ông in đậm nét trong cách tiếp cận hệ thống xã hội và các nghiên cứu xã hội học về chính trị, tôn giáo, nhất là xã hội học về các thiết chế xã hội. Quan niệm xã hội học của ông có ảnh hưởng lớn trong xã hội học hiện đại kể cả về mặt lý luận và thực tiễn.

IV.  Emile Durkheim (1857- 1917)
Sơ lược về tiểu sử:
Ông sinh ra trong một gia đình người Pháp, gốc Do Thái. Ông là người đặt nền móng xây dựng chủ nghĩa chức năng và chủ nghĩa cấu trúc trong xã hội học hiện đại. Ông giảng dạy tại trường Bordeaux, là kỹ sư xã hội học.
Các tác phẩm:
-         Phân công lao động xã hội (1893 – luận án Tiến sĩ).
-         Quy tắc của phương pháp Xã hội học (1895).
-         Tự tử (1897)
-         Những hình thức sơ đẳng của đời sống tôn giáo (1912).
Ông là người có công lao lớn nhất, cụ thể nhất trong việc phát triển xã hội học ở Pháp cũng như trên toàn thế giới
Những đóng góp trong lĩnh vực Xã hội học
(1) Đối tượng của Xã hội học:
Xã hội học nghiên cứu những sự kiện xã hội hình thành nên quan hệ xã hội. Tất cả các quan hệ đều phụ thuộc vào ý thức tập thể, đó là luật tục và luật pháp.
(2) Các khái niệm Xã hội học.
·        Khái niệm về sự kiện xã hội: có hai ý nghĩa cơ bản:
-         Các sự kiện xã hội có tính vật chất như: nhóm người, tổ chức xã hội, thiết chế xã hội với tất cả các đặc điểm về chất và lượng của nó.
-         Các sự kiện xã hội có tính phi vật chất: hệ thống giá trị, chuẩn mực, tập quán xã hội.
* Sự kiện xã hội có các đặc điểm và tính chất:
+ Tính khách quan: thể hiện ở chỗ các cá nhân sinh ra trong môi trường đã có sẵn các sự kiện như các thiết chế xã hội, chức năng xã hội, chuẩn mực, giá trị, niềm tin...
+ Tính phổ biến: sự kiện xã hội là cái được cộng đồng chia sẻ, chấp nhận coi chúng là của mình.
+ Tính cưỡng chế: Nó có sức mạnh kiểm soát, thậm chí hạn chế, kiềm chế, gây áp lực đối với hành động, hành vi của các cá nhân.
·        Khái niệm khối lượng xã hội: là số lượng cá thể thuộc về một tập thể cho sẵn.
·        Đậm độ vật chất: được hiểu là cơ cấu của các khối lượng xã hội trong một đám đông cho sẵn.
·        Đậm độ về đạo đức: là cường độ giao lưu, hợp tác trao đổi giữa các cá thể.
·        Khái niệm đấu tranh vì cuộc sống, sinhh tồn: Theo ông, càng đông số cá thể sống trong một đơn vị xã hội thì độ đấu tranh trong cuộc sống càng tăng cường.
·        Khái niệm tự tử: là cái chết do kết quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ họat động tích cực hay tiêu cực của cá nhân chống lại chính bản thân mình mà cá nhân đó biết là hành động đó sẽ tạo ra kết cục như vậy.
     Ông coi nó là một áp lực xã hội chứ không phải là một bệnh lý tâm thần. Tự tử có 4 loại: tự tử vị tha, tự tử vị kỷ, tự tử phi chuẩn mức và tự tử cuồng tín.
·        Khái niệm đoàn kết xã hội.
-         Đoàn kết cơ giới: diễn ra trong xã hội cổ truyền. Ở đó biểu hiện sự tuân thủ các nguyên tắc xã hội, các cá nhân không khác biệt nhau bao nhiêu về giá trị đạo đức, tình cảm và giá trị bị chi phối bởi ý thức tập thể.
-         Đoàn kết hữu cơ: tồn tại trong xã hội hiện đại dựa trên sự đồng tình xã hội, thể hiện sự khác biệt nhau giữa các cá nhân cũng như sự khác biệt trong bộ phận sống của con người. Các quan hệ  xã hội chủ yếu mang tính chất chức năng , tính chất trao đổi và được luật pháp, khế ước tôn trọng và bảo vệ.
Khái niệm ý thức tập thể: Được Durkheim đưa ra trong tác phẩm “Phân công lao động xã hội” (1843) là “tổng thể những tín ngưỡng và tình cảm chung của đa số thành viên một xã hội”.
Khái niệm về tôn giáo: tác phẩm “Những hình thức sơ đẳng của đời sống tôn giáo”, “Một tôn giáo là một hệ thống liên đới của những tín ngưỡng và những thực hành liên quan đến các sự vật thiêng, tức là [các sự vật] bị tách ra, bị cấm đoán; các tín ngưỡng và các thực hành hợp nhất tất cả những ai gắn bó với chúng vào chung một cộng đồng tinh thần gọi là Giáo hội”. Ông nói: “tôn giáo bao giờ cũng cần thiết đối với xã hội” và phải xây dựng một tôn giáo mới dựa trên cơ sở khoa học.
KL:
ð    Học thuyết xã hội học của ông quy tụ rất nhiều ngành xã hội học khác nhau. Ông là một trong những nhà sáng lập xã hội học kinh nghiệm và hình thành xu hướng nghiên cứu xã hội học kinh nghiệm của Pháp.
ð    Với lý luận và phương pháp khoa học, khách quan, ông đã xây dựng, phát triển những quy tắc phương pháp xã hội và các khái niệm cơ bản của xã hội học như sự kiện xã hội và đoàn kết xã hội. Lý thuyết của ông làm sáng tỏ nhiều chủ đề quan trọng như: chức năng xã hội và cấu trúc xã hội, phân loại xã hội bình thường và sai lệch xã hội, trật tự xã hội và biến đổi xã hội.
ð    Điểm hạn chế của ông: giải thích các vấn đề của xã hội học dựa trên cơ sở duy tâm khách quan.

V.  Max Weber ( 1864-1920)
Sơ lược về tiểu sử.
(Theo ông: “Xã hội học là khoa học cố gắng giải nghĩa những hành động xã hội và tiến tới giải thích nhân quả về đương lối và hệ quả của hành động xã hội).
Ông là giáo sư của nhiều ngành khoa học khác nhau: kinh tế học, chính trị học, xã hội học. Ông sinh ra trong một gia đình đạo Tin lành ở nước Đức. Mẹ của ông có ảnh hưởng lớn tới sự nghiệp của Weber, bà luôn cổ vũ và hỗ trợ Weber trong cuộc đời và sự nghiệp của ông.
Các tác phẩm đáng lưu ý:
-         Tiểu luận và phương pháp luận.
-         Đạo đức tin lành và tinh thần CNTB.
-         Tính khách quan trong khoa học xã hội.
-         Xã hội học tôn giáo.
Các nhà xã hội học hiện đại đánh giá Weber là một nhà xã hội học có thành tích dữ dội. Nội dung lý luận, hiệu quả Xã hội học của ông quan tâm chủ yếu là những nghịch lý chính trị của xã hội Đức, bởi vì Đức là một nước tư bản rất mạnh, giai cấp TS lại thất bại trong việc củng cố quyền lực chính trị độc lập. Hậu quả Đức thiếu thể chế dân chủ thay vào đó là có tầng lớp phong kiến truyền thống nắm giữ chính quyền ở Đức.
Những đóng góp của ông về lĩnh vực Xã hội học.
(1) Đối tượng của Xã hội học:
Xã hội học là khoa học cố gắng giải nghĩa hành động xã hội và tiến tới cách giải nghĩa nhân quả về đường lối và hệ quả của hành động đó. Như vậy, Xã hội học là khoa học có nhiệm vụ lý giải thông hiểu động cơ, ý nghĩa của hành động xã hội và theo ông nghiên cứu xã hội học mà chỉ xem xét, phân tích các hiện tượng bên ngoài thì không đủ và không có ý nghĩa xã hội học mà phải nắm bắt lý giải ý nghĩa bên trong của hành động xã hội. Có hai cách lý giải để xem xét ý nghĩa: trực tiếp bằng cách quan sát bên ngoài và gián tiếp là giải thích ý nghĩa bên trong của hành động.
 (2) Lý thuyết về hành động xã hội.
·        Khái niệm hành động xã hội: Được gọi là hành động xã hội khi chủ thể gắn với hành vi của người khác trong quá khứ, trong hiện tại và tương lai và ý nghĩa chủ quan ấy định nghĩa cho hành động. Hành động xã hội nó tổ chức thành quan hệ xã hội quyết định hành vi, tập quán và phong tục hình thành nên trật tự xã hội được quy định bởi hệ thống pháp luật hay các quy tắc xã hội.
·         Phân loại hành động xã hội
-         Hành động hợp lý so với mục đích : đó là hành động được cân nhắc kỹ lưỡng, có sự lựa chọn công cụ, phương tiện, mục đích sao cho có hiệu quả cao nhất.
-         Hành động hợp lý so với giá trị: là hành động được thực hiện vì mục đích  tự thân của hành động đó.
-         Hành động hợp lý so với một cảm năng: hành động được truyền phán trực tiếp bởi ý thức của chủ thể, hành động này xảy ra có sự xem xét cân nhắc của công cụ, phương tiện, mục đích .
-         Hành động hợp lý so với truyền thống: là hành động được truyền phán bởi những thói quen, tập quán, tín ngưỡng... cũng là một hành động xã hội.
(3) Lý thuyết về sự phân tầng xã hội
·        Phân tầng xã hội, giai cấp: Marx phân loại phân tầng do sự sở hữu TLSX khác nhau giữa các tập đoàn người còn Weber thì cho đây là sự khác nhau về tài sản cá nhân (gắn với cơ may thị trường).
·        Nhóm vị thế và phân tầng xã hội - vị thế: Trong xã hội có những người mà cuộc sống của họ và nhất là lối sống của họ không hoàn toàn phụ thuộc vào tình huống thị trường mà phụ thuộc vào sự đánh giá của xã hội dành cho địa vị của họ.
·        Phân tầng xã hội quyền lực:  Trong xã hội có những người mà cuộc sống của họ và nhất là lối sống cùa họ không hoàn toàn phụ thuộc vào tình huống thị trường mà phụ thuộc vào sự đánh giá của xã hội giành cho họ, mỗi đơn vị gắn một quyền lực nhất định
(4) Lý thuyết về CNTB.
Khác với Marx coi kinh tế là cơ sở vật chất của xã hội, Weber tập trung nghiên cứu tác động của các yếu tố xã hội đối với cơ cấu kinh tế và quá trình kinh tế. Trong cuốn “Đạo đức Tin lành và tinh thần của CNTB” ông đã giải quyết một cách hệ thống vấn đề mối quan hệ giữa tôn giáo, kinh tế và xã hội.
·        Mối quan hệ kinh tế, đaọ đức: Weber cho rằng, Marx quá cực đoan khi cho rằng kinh tế đóng vai trò số một, đạo đức đóng vai trò số hai, kinh tế quyết định tất cả. Ông cho rằng, đôi khi đạo đức quyết định kinh tế.
·        Chủ nghĩa quan liêu: Theo ông, trong xã hội hiện đại (CNTB) mới xuất hiện chủ nghĩa quan liêu và có đặc trưng quan liêu thì phải đi tìm bên trong cơ cấu xã hội đó.
KL:
ð    Tóm lại, Weber là một trong những người có công đầu xây dựng xã hội học với tư cách là một khoa học có vị trí rõ ràng, độc lập. Nhưng khác với Durkheim thúc đẩy xã hội học phát triển theo hướng duy lý - thực chứng - định lượng, thì Weber đẩy mạnh hướng phát triển theo hướng duy lý – thông hiểu – định tính. Nhờ vậy, xã hội học hiện đại ngay từ đầu có cơ sở cân bằng giữa định lượng và định tính.
ð    Weber xây dựng lý thuyết xã hội học đặc thù của mình trên cơ sở tổng hợp các ý tưởng và kiến thức bách khoa về Sử học, Triết học, Luật học và nghiên cứu lịch sử so sánh, tạo cơ sở cho sự phát triển của xã hội học vi mô, xã hội học định tính, thuyết tương tác biểu trưng và một số trường phái lý thuyết khác.
ð    Đóng góp quan niệm về bản chất lý thuyết xã hội và phương pháp luận: đánh giá về vai trò của văn hóa, tôn giáo đối với sự phát triển của xã hội phương Tây là rất to lớn.
ð    Các khái niệm, phương pháp luận xã hội học của ông đang được tiếp tục tìm hiểu, vận dụng và phát triển trong xã hội hiện đại.




CHƯƠNG 3. CƠ CẤU XÃ HỘI

I. Một số quan niệm xã hội học về cơ cấu xã hội
Cơ cấu xã hội được coi là một khái niệm cơ bản và then chốt của xã hội học, cho đến nay giữa các nhà lý luận họ cũng đã đưa ra nhiều cách hiểu về khái niệm này.
a, Quan niệm của T. Parson[2]
Cơ cấu xạ hội là tổng thể các mối quan hệ tiêu chuẩn hóa, bền vững của các chủ thể xã hội. Một đặc điểm nổi bật của cơ cấu xã hội là chủ thể hành động thực hiện những vai trò xã hội nào đó với nhau. Parson nhấn mạnh đến vị thế, vai trò và chức năng của các phần tử tồn tại trong xã hội.
b, Quan điểm của J.H.Fischer[3]
Xã hội là tổng hòa các đoàn thể xã hội, các đoàn thể xã hội được sắp xếp theo một chật tự nhất định trong hệ thống xã hội và giữa chúng có sự lệ thuộc vào nhau. Xuất phát từ luận điểm này Fischer coi cơ cấu xã hội của xã hội là sự sắp đặt các thành phần hoặc các đơn vị xã hội, nghiên cứu cơ cấu xã hội phải xem xét các trạng thái tĩnh và trạng thái động, nghĩa là xem xét sự sắp đặt các địa vị xã hội tạo nên sự biến đổi bên trong của hệ thống xã hội.
c, Quan niệm của G.V. Oxipov[4]
Theo Oxipov, khái niệm cơ cấu xã hội có quan hệ mật thiết với khái niệm hệ thống xã hội, khái niệm thứ nhất là bộ phận của khái niệm thứ hai và bao hàm ở trong đó hai thành tố:
-         Các thành phần xã hội
-         Các liên hệ xã hội
+ Các thành phần xã hội là tập hợp các bộ phận, các nhóm, các giai cấp, các cộng đồng xã hội… cấu thành cơ cấu xã hội.
+ Liên hệ xã hội là tập hợp những mối liên hệ, những mối liên hệ gắn kết các thành phần xã hội tạo nên cơ cấu xã hội. Bởi vậy, một mặt cơ cấu xã hội bao hàm các thành phần xã hội, hay tổng thể các kiểu cộng đồng trong xã hội; mặt khác nó bao hàm những liên hệ xã hội, gắn kết tất cả các bộ phận khác nhau hợp thành phạm vi tác động và đặc tính của cơ cấu xã hội ở một giai đoạn phát triển nhất định nào đó. 
d, Quan niệm của Ian Robertsons[5]
Theo I.Robertsons, cơ cấu xã hội là mô hình của các mối quan hệ giữa các thành phần cơ bản trong một hệ thống xã hội. Những thành phần này tạo ra bộ khung cho tất cả xã hội loài người mặc dù tính chất của các thành phần và các quan hệ giữa chúng biến đổi từ xã hội này đến xã hội khác. Những thành phần quan trọng nhất của cơ cấu xã hội là vị thế, vai trò, nhóm và các thiết chế.
Quan niệm của I.Robertsons là khá hoàn thiện. Tuy nhiên, nếu nhóm xã hội đứng vị trí thứ ba trong trật tự phân tích các thành tố cơ bản của cơ cấu xã hội thì sẽ gây ra những khó khăn nhất định cho việc nhận diện những cơ cấu xã hội trong hiện thực. Bởi vậy, khái niệm về cơ cấu xã hội của I.Robertsons cần thiết phải có những chỉnh lý nhất định, nhằm tạo ra một logic thuận tiện hơn cho sự phân tích.
e, Quan niệm của W.E. Thompson và J.V. Hickey[6]
Thompson và Hickey coi “cơ cấu xã hội là mô hình của các mối quan hệ giữa các thành phần cơ bản của hệ thống xã hội… Những thành phần cơ bản của cơ cấu xã hội là vị thế xã hội, vai trò, nhóm xã hội, mạng lưới xã hội và các thiết chế. Vị thế và vai trò tạo ra mô hình của các mối quan hệ giửa các cá nhân; giữa các cá nhân với nhóm và mạng lưới xã hội. Thiết chế xã hội là những tổ chức đặc thù tương đối bền vững của các vị thế, vai trò và nhóm vận động xung quanh những nhu cầu cơ bản của xã hội”.
Quan niệm của Fischer, Thompson và Hickey có điểm tương đồng với định nghĩa của I. Robertson khi cùng coi vị thế, vai trò, nhóm, thiết chế là những thành tố cơ bản của cơ cấu xã hội. Điểm khác biệt là ở chỗ, Thompson và Hickey đã đưa thêm thành tố “mạng lưới xã hội” vào khái niệm của cơ cấu xã hội, coi mạng lưới xã hội là một trong những thành tố cơ bản của cơ cấu xã hội. Sự bổ sung này rất có ý nghĩa bởi sự tồn tại của các mạng lưới xã hội trong cơ cấu xã hội là hiện thực khách quan. Khi đưa mạng lưới xã hội vào các thành tố cơ bản của cơ cấu xã hội sẽ cho phép chúng ta dễ dàng hình dung ra mô hình, bộ khung của những cơ cấu xã hội hiện thực. Từ đó mà có điều kiện đi sâu vào tìm hiểu thực trạng cơ cấu, mô hình tổ chức, sự sắp xếp, phân bố các yếu tố, các thành phần của cơ cấu cũng như những mối quan hệ đan kết phức tạp giữa các thành tố trong cơ cấu xã hội. Trên cơ sở đó chúng ta có thể nắm bắt được bản chất cũng như phân tích được đặc trưng và xu hướng biến đổi của cơ cấu xã hội.
Khi nghiên cứu về cơ cấu xã hội cần chú ý đến các phân hệ cơ bản của cơ cấu cấu xã hội :
• Cơ cấu giai cấp –xã hội
• Cơ cấu nhân khẩu – xã hội
• Cơ cấu nghề nghiệp -  hội
• Cơ cấu lãnh thổ - xã hội.
• Cơ cấu dân tộc - xã hội

II. Một số lý thuyết xã hội học về cơ cấu xã hội
          1. Từ góc độ lý thuyết cơ cấu – chức năng[7]
          A. Comte là người đưa ra nội dung khái quát của lý thuyết này sau đó nó được Spencer phát triển; rồi những người khác kế thừa và xây dựng thành lý thuyết cơ cấu – chức năng. Ban đầu, Comte nghiên cứu các cá nhân với tư cách là những thành phần hay đơn vị cấu thành của cấu trúc xã hội. Cá nhân là một tập hợp, một hệ thống bao gồm (1) các năng lực và nhu cầu đã có sẵn, bên trong cá nhân và (2) các nhu cầu, năng lực đã tiếp thu từ bên ngoài qua quá trình tham gia vào xã hội. Sau đó, ông cho rằng: “đơn vị đích thực” của cơ cấu xã hội không phải là cá nhân mà là gia đình, vì gia đình là đơn vị xã hội cơ bản và sơ đẳng nhất có mặt trong tất cả các đơn vị xã hội khác. Lý luận về gia đình mà ông nêu ra là sơ lược và thiếu chính xác, nhưng điều quan trong hơn là ông đã nêu ra được một quan niệm về cơ cấu xã hội. Theo ông, cơ cấu xã hội bao giờ cũng được tạo nên từ các cơ cấu xã hội khác đơn giản hơn (gọi là tiểu cơ cấu xã hội). Như vậy, A. Comte quan niệm: cơ cấu xã hội là những thành tố tạo nên một xã hội, là cá nhân, gia đình. Sự phát triển của cơ cấu gắn liền với sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào sự tiến hóa xã hội. Sự phát triển của xã hội, một mặt làm phân hóa và đa dạng hóa các chức năng; mặt khác, làm tăng  mức độ liên kết của các tiểu cơ cấu xã hội.
          2. Từ góc độ thuyết chức năng[8]
Thuyết chức năng xuất hiện từ nửa đầu thế kỷ XX, người đặt nền móng cho  thuyết này là Durkheim và Malinowski. Khi nghiên cứu xã hội châu Âu và các nước khác, hai ông tập trung giải quyết vấn đề được đặt ra là: xã hội châu Âu vận hành như thế nào hoặc biến đổi và phát triển ra sao?
Học thuyết cơ cấu xã hội của Durkheim được bắt đầu từ phạm trù: “sự kiện xã hội”, ông đưa ra định nghĩa sau đây: “Sự kiện xã hội là mọi cách làm cố định hay không cố định, có khả năng tác động lên cá nhân một sự cưỡng bức bên ngoài; hay là mọi cách làm có tính chất chung trong phạm vi rộng lớn của một xã hội nhất định trong khi vẫn có sự tồn tại riêng, độc lập với các biểu hiện cá biệt của nó”. Đặc trưng nổi bật của sự kiện xã hội là sự cưỡng bách của  nó đối với hành vi của cá nhân. Sự cưỡng bức của các sự kiện xã hội không phải là do ý chí cá nhân mà là do hiện thực xã hội quy định, là sản phẩm của nguyên nhân nhất định. Bởi vậy, muốn làm cho con người hoàn toàn phục tùng nó, cần làm cho họ nhận thức được tình trạng phụ thuộc vào xã hội (thông qua khoa học hoặc tôn giáo). Sự cưỡng bức xã hội đối với cá nhân không đơn giản là sự cưỡng bức vật chất mà là trí tuệ và đạo đức. Ý thức tập thể, tình cảm gắn bó với cộng đồng xã hội và sự tôn trọng tập quán xã hội của cá nhân chỉ có thể hình thành và củng cố khi họ đặt sự tồn tại của họ trong sự tồn tại phong phú, phức tạp và lâu bền của xã hội. Theo ông, xã hội là tổng thể các sự kiện xã hội bình thường và các sự kiện xã hội không bình thường (bệnh lý). Sự kiện xã hội bình thường gắn liền với sự cưỡng chế bình thường. Đó là sự cưỡng bức phù hợp với ưu thế của một xã hội nào đó, là ưu thế về chính trị hay đạo đức của một xã hội. Sự kiện xã hội bình thường là các hiện tượng xã hội biểu hiện qua hình thức chung có thể nhận thấy ở tuyệt đại đa số cá thể trong một xã hội cả về không gian và thời gian tồn tại của nó. Trái lại, sự kiện xã hội khác thường (bệnh lý)  là các hiện tượng xã hội biểu hiện qua các hình thức ngoại lệ, thường gặp ở thiểu số người và xảy ra nhất thời, không tồn tại trong toàn bộ cuộc sống cá thể. Một sự kiện xã hội có thể gọi là bình thường hay bệnh lý cần phải xem xét trong quan hệ với một loại xã hội nhất định. Nguyên tắc chung để xác định loại xã hội đã được Durkheim kế thừa của Spencer: “Sự tiến hóa xã hội bắt đầu bằng những tổ hợp đơn giản, bé nhỏ, nó tiến triển do sự kết hợp của một số tổ hợp nhỏ thành những tổ hợp lớn hơn và sau đó, khi đã được củng cố, các nhóm đó lại kết hợp với các nhóm khác  giống với chúng để tạo ra các tổ hợp càng lớn hơn. Sự phân loại xã hội phải bắt đầu bằng những xã hội thuộc loại thứ nhất, tức là đơn giản nhất”.
Theo Durkheim, xã hội đơn giản nhất là Bầy. Bầy là một tổ hợp xã hội sơ đẳng nhất. Trong bầy, các cá nhân như những nguyên tử phân bố bên cạnh nhau. Bầy là chất nguyên sinh của giới xã hội, nó là cơ sở tự nhiên của mọi sự phân loại xã hội. Sự phát triển của các Bầy trở thành phân đoạn xã hội, lúc đó ta có xã hội thị tộc, bộ lạc đồng thời với việc xác định các phần tử hình thành nên cơ cấu của loại xã hội nào đó, chúng ta phải quy về hình thái xã hội. Theo ông, hình thái xã hội là sự kết hợp các yếu tố tạo thành xã hội giống như sự phân bố và kết hợp của yếu tố, của nguyên tử, các yếu tố xã hội kết hợp với nhau tạo thành môi trường bên trong xã hội, qui định trình độ phát triển xã hội. Có hai loại yếu tố tạo thành môi trường xã hội: Các sự vật (bao gồm cả các dạng vật chất gia nhập xã hội, cả hoạt động trước đó do con người tạo ra như luật pháp, phong tục, các công trình văn học, nghệ thuật…) và con người. Sự kết hợp của các yếu tố bên trong này (đặc biệt là số lượng các đơn vị xã hội và mức độ tập trung của các cá thể)  là điều kiện quyết định cho mọi hiện tượng xã hội. Mặt khác chất keo để tạo nên sự liên kết các yếu tố xã hội không phải là sức mạnh vật chất mà đó là tình cảm, đạo đức con người. Như vậy, theo quan niệm của Durkheim, xã hội là xã hội tinh thần, đạo đức, lương tri và trí tuệ.
3. Lý thuyết hệ thống xã hội của T. Parsons[9]
Lý thuyết chức năng xuất phát điểm ở châu Âu, được phát triển ở Anh và thống trị trong xã hội học Mỹ. Parsons, nhà lý luận chức năng người Mỹ những năm (1940 – 1950), đã phát triển lý thuyết chức năng theo hướng phân tích xã hội với tư cách là hệ thống hữu cơ. Theo Parsons, thế giới là một hệ thống lớn, mở rộng, trong đó có rất nhiều xã hội khác nhau, giới hạn bởi đường biên giới lãnh thổ quốc gia. Mỗi xã hội có đặc trưng và giới hạn riêng, khác với xã hội khác. Các xã hội tồn tại  theo phương thức thích nghi với nhau. Xã hội là một hệ thống mở, thường xuyên thực hiện sự trao đổi, biến đổi để tạo ra sự cân bằng, trên cơ sở thích ứng, “cùng tồn tại” với xã hội khác. Trong mỗi xã hội có các hệ thống nhỏ (tiểu hệ thống), tồn tại theo phương thức tích hợp với nhau. Nghĩa là, mỗi một hệ thống thực hiện một chức năng nhất định trên cơ sở phối hợp với các hệ thống khác. Sự hoạt động và phối hợp các tiểu hệ thống này bảo đảm cho xã hội có khả năng thích ứng với các xã hội khác, tức là tạo ra sự cân bằng cho hệ thống lớn. Các tiểu hệ thống này chia thành hai loại: thứ nhất, tiểu hệ thống mang tính vật chất tồn tại tự nhiên (như gia tộc, dân tộc…); thứ hai, tiểu hệ thống mang tính chức năng. Đó là những hệ thống do xã hội tạo ra để thực hiện những mục đích quan trọng như Đảng phái, Công đoàn, cơ quan hành chính… Có thể coi hệ thống tự nhiên là hệ thống sơ cấp (là hệ thống được tạo ra ngay từ đầu), còn hệ thống chức năng là hệ thống thứ cấp (được tạo ra do sự tích hợp của các mục đích của nó). Theo Parsons, bất kỳ xã hội nào cũng đều có năm hệ thống chức năng cần thiết, bao gồm: tiểu hệ thống kinh tế, tiểu hệ thống pháp luật, tiểu hệ thống chính trị, tiểu hệ thống làm nhiệm vụ tích hợp, tiểu hệ thống văn hóa. Năm tiểu hệ thống trên là mô hình chung của các hệ thống xã hội. Nó có thể biểu hiện ở các hình thức và kiểu dáng tùy thuộc vào mỗi hệ thống xã hội. Các tiểu hệ thống này tồn tại tương đối độc lập với nhau, có thể phối hợp và giao thoa nhau, nhưng không đồng nhất với nhau. Nếu nó trùng khớp với nhau sẽ dẫn đến siêu tích hợp, do đó xã hội dẫn đến xung đột. Xã hội chỉ có thể phát triển tốt nếu các tiểu hệ thống ở trạng thái cân bằng.
III. Tiếp cận xã hội học về cơ cấu xã hội và hệ thống xã hội
Phương pháp tiếp cận xã hội học về cơ cấu xã hội được thể hiện trên các khía cạnh sau:
- Cơ cấu xã hội là kết cấu và hình thức tổ chức bên trong của một hệ thống xã hội nhất định, là sự thống nhất của hai mặt: các thành phần xã hội và các quan hệ xã hội. Một xã hội dù có phức tạp đến đâu chăng nữa thì suy cho cùng, những thành tố cơ bản của nó vẫn là các thành phần xã hội và các quan hệ xã hội, đây là khía cạnh đầu tiên của tiếp cận xã hội học về cơ cấu xã hội.
- Phân tích cơ cấu xã hội của bất kỳ một hệ thống xã hội nào cũng đi từ sự phân tích các nhóm xã hội với vai trò, vị thế, các thiết chế và mạng lưới xã hội. Đó là bộ khung, là mô hình, khuôn mẫu cho sự phân tích cơ cấu xã hội.
- Cơ cấu xã hội cần được xem xét cả trạng thái tĩnh và trạng thái động. Nghĩa là xem xét các thành phần xã hội, sự sắp đặt địa vị xã hội của các thành phần xã hội đó và sự tương tác giữa các thành phần,  địa vị xã hội tạo nên sự biến đổi bên trong của mỗi hệ thống. Nghiên cứu cơ cấu xã hội một mặt phải chỉ ra được thực trạng, mặt khác chỉ ra được xu hướng vận động, biến đổi của nó.
- Nghiên cứu cơ cấu xã hội đòi hỏi phải phân tích các giá trị, thang giá trị, chuẩn mực xã hội cũng như các yếu tố thuộc về văn hóa xã hội.
- Phân tích cơ cấu xã hội cần đi sâu phân tích tính cơ động xã hội, từ đó tìm ra xu hướng của các quá trình biến đổi và phát triển của xã hội, đồng thời phải phân tích sự phân tầng  xã hội và phân hóa xã hội.
Phân tích phân hóa xã hội, phân tầng xã hội là lát cắt dọc, giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn kết cấu xã hội và sự đa dạng phức tạp của nó. Trên thực tế, không có nhóm xã hội nào mà không diễn ra sự phân hóa xã hội và phân tầng xã hội. Phân hóa xã hội và phân tầng xã hội là hiện tượng mang  tính phổ biến trong lịch sử xã hội loài người, tuy phạm vi và mức độ ở mỗi giai đoạn, mỗi hệ thống xã hội có khác nhau. Phân tích phân hóa xã hội và phân tầng xã hội là một trong những nội dung làm sáng tỏ tính cơ động xã hội và xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội.
- Xã hội là một hệ thống đa cơ cấu tự nhiên, chứa đựng trong nó nhiều phân hệ cơ cấu. Chỉ có thể làm rõ cơ cấu xã hội khi nghiên cứu đầy đủ các chiều cạnh, các phân hệ cơ cấu của hệ thống xã hội. Cơ cấu xã hội của một xã hội thường được phân tích theo nhiều lát cắt khác nhau. Chẳng hạn, chúng ta có thể xem xét cơ cấu của một xã hội nhất định dựa trên phân tích các phân hệ cơ cấu của nó như: cơ cấu xã hội – giai cấp, cơ cấu xã hội – lãnh thổ, cơ cấu xã hội – dân tộc, cơ cấu xã hội – nghề nghiệp… Các phân hệ cơ cấu xã hội phản ánh tính đa dạng và phong phú của cơ cấu xã hội. Trong hệ thống xã hội, mỗi phân hệ đều có vị trí, vai trò và giữa chúng có mối quan hệ, lệ thuộc lẫn nhau. Song vị trí, vai trò của các phân hệ cơ cấu không ngang bằng nhau. Trong các phân hệ cơ cấu xã hội thì cơ cấu xã hội – giai cấp giữ vai trò trung tâm, sự thay đổi của cơ cấu xã hội – giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến sự biến đổi của các tiểu cơ cấu khác.
Tiếp cận xã hội học về cơ cấu xã hội đã đưa ra được quan niệm khoa học, cách nhìn biện chứng về cơ cấu xã hội, khắc phục được những cách nhìn giản đơn, siêu hình về cơ cấu xã hội. Cơ cấu xã hội ở đây được xem xét như là kết cấu, hình thức tổ chức bên trong của một hệ thống xã hội, biểu hiện như là sự thống nhất tương đối bền vững giữa các nhân tố, các mối quan hệ, các thành phần cơ bản của hệ thống xã hội.  
Khái niệm cơ cấu xã hội gắn bó một cách chặt chẽ với khái niệm hệ thống xã hội. Trong hai khái niệm này, cơ cấu xã hội là khái niệm hẹp hơn so với khái niệm hệ thống xã hội, cơ cấu xã hội chỉ là bộ khung, là mô hình của các mối quan hệ giữa các thành phần cơ bản của hệ thống xã hội. Hệ thống xã hội là một khái niệm rộng hơn, nó là một khối hoàn chỉnh, thống nhất, bao hàm trong đó những yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau và chính những yếu tố đó là cái cấu thành nên hệ thống.
Tuy nhiên, sự phân biệt hai khái niệm này chỉ mang tính tương đối, giữa chúng không có một đường phân ranh tuyệt đối, rạch ròi với nhau mà luôn có sự thống nhất biện chứng với nhau.
Cơ cấu xã hội được xem  xét như là sự thống nhất của hai mặt: các thành phần xã hội và các quan hệ xã hội. Theo đó, tiếp cận hệ thống cũng phân tích các yếu tố, những mối liên hệ cấu thành nên hệ thống đó.
Sự khác biệt giữa giác độ tiếp cận cơ cấu và hệ thống thể hiện ở khía cạnh sau: tiếp cận cơ cấu nhấn mạnh đến hình thức tổ chức, kết cấu, cách thức sắp xếp các bộ phận, các thành tố trong nội bộ một hệ thống. Tiếp cận hệ thống lại nhấn mạnh đến tính chỉnh thể, toàn vẹn và sự thống nhất bên trong của một kết cấu làm cho khối toàn vẹn đó tồn tại tương đối độc lập với môi trường xung quanh. Tiếp cận hệ thống nhấn mạnh đến những thuộc tính cơ bản của hệ thống như trật tự, cân bằng, ổn định, tích hợp, thích nghi với môi trường. Nó không chỉ khảo cứu mối quan hệ bên trong mà còn khảo cứu mối quan hệ bên ngoài.
Nghiên cứu cơ cấu xã hội của mỗi hệ thống xã hội phải đi sâu vào phân tích kết cấu và các hình thức tổ chức bên trong của hệ thống. Do vậy, khi nghiên cứu cơ cấu xã hội chúng ta không thể không nghiên cứu hệ thống xã hội và ngược lại. Điều cần thiết rút ra ở đây về mặt phương pháp luận là nghiên cứu cơ cấu xã hội trong mối liên hệ biện chứng với hệ thống xã hội và nghiên cứu hệ thống xã hội cần hướng vào làm rõ cơ cấu xã hội bên trong của nó. Đây là hai mặt của một cách tiếp cận hệ thống - cơ cấu xã hội. Thừa nhận sự thống nhất biện chứng của cơ cấu xã hội và hệ thống xã hội không có nghĩa là quy giản khái niệm này vào khái niệm kia, đồng nhất cách tiếp cận này với cách tiếp cận kia hoặc đề cao một cách tiếp cận này mà phủ nhận một cách tiếp cận khác. Nghiên cứu cơ cấu xã hội từ giác độ xã hội học đòi hỏi phải uyển chuyển, mềm dẻo, linh hoạt trong tiếp cận với hệ thống.
VI. Ý nghĩa của việc nghiên cứu cơ cấu xã hội
Cùng với những biến đổi mạnh mẽ cuả thế giới ngày nay, dưới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, chúng ta cũng đang chứng kiến những chuyển động sâu sắc trong nền tảng cấu trúc của mỗi xã hội. Giống như những dòng nham thạch đang cuộn chảy dưới lòng sâu của bề mặt xã hội, tái định lại một kết cấu mới cho sự phát triển xã hội, sự biến đổi của cơ cấu xã hội cũng đang được coi là một dạng thức cách mạng. Cuộc cách mạng về cơ cấu xã hội, các quan hệ xã hội và giá trị xã hội tuy không ồn ào và bùng nổ như các cuộc cách mạng về khoa học và công nghệ nhưng trên thực tế đã diễn ra không hề thua kém các cuộc cách mạng nói trên về mức độ mạnh mẽ. Nó khiến cho con người ngày nay, phải đối diện không chỉ với những thách thức về môi trường sống, về sự cạn kiệt tài nguyên mà còn cả với hệ quả của những biến đổi trong kết cấu của các mối quan hệ tương tác giữa chính họ, với cách thức mà họ đã, đang và sẽ sống bên nhau thành xh.[10]
Trên bình diện nhận thức khoa học, nghiên cứu cơ cấu xã hội là một trong những nghiên cứu mang tính lý luận và phương pháp luận cho toàn bộ những nghiên cứu về xã hội. Nhận thức đúng đắn về cơ cấu xã hội cho ta cơ sở khoa học khách quan để nhận biết toàn bộ sự kiện và hiện tượng xã hội, các chiều cạnh tương tác và quan hệ giữa chúng với nhau trong tổng thể xã hội. Nghiên cứu về cơ cấu xã hội cũng là điều kiện cần thiết để các nhà chiến lược và hoạch định chính sách có được những luận cứ khoa học cần thiết trong quá trình xây dựng các phương thức và giải pháp phát triển xã hội, hướng tới tương lai.
Sự biến đổi của cơ cấu xã hội qua các thời kỳ khác nhau chính là phông nền để các biến đổi xã hội khác diễn ra, sự biến đổi của cơ cấu xã hội tất yếu sẽ dẫn đến sự biến đổi của cấu trúc xã hội và cả hệ thống xã hội. Nghiên cứu xã hội học về cơ cấu xã hội vì vậy có một ý nghĩa quan trọng, thể hiện qua các khía cạnh sau:
- Nghiên cứu cơ cấu xã hội cho phép chúng ta phác họa được một bức tranh tổng quát về các thành phần cơ bản, các yếu tố cấu thành cũng như các mặt, các khía cạnh khác nhau của cơ cấu xã hội tối ưu, phù hợp với thực tiễn xã hội, đảm bảo sự vận hành có hiệu quả, thực hiện tốt các vai trò xã hội theo chiều hướng tiến bộ.
- Nghiên cứu cơ cấu xã hội, đặc biệt là nghiên cứu sự phân hóa, phân tầng xã hội cho phép chúng ta đi sâu vào phân tích thực trạng cấu trúc bên trong của xã hội, thực trạng của từng mặt, từng tiểu cấu trúc, trong từng lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội. Qua đó góp phần nhận diện một cách chân thực những đặc trưng và xu hướng biến đổi của cấu trúc xã hội, khuynh hướng vận động và phát triển của một xã hội nhất định. Kết quả đó sẽ là cơ sở khoa học quan trọng cho việc hoạch định chính sách để ổn định và phát triển của xã hội.
- Việc nghiên cứu các phân hệ của cơ cấu xã hội cung cấp cho chúng ta sự hiểu biết cặn kẽ về những sự khác biệt trong mỗi tiểu cơ cấu. Qua đó giúp xã hội có thể tác động điều chỉnh đến từng cơ cấu cụ thể, góp phần vào xây dựng một cơ cấu xã hội tối ưu cho sự phát triển.
Ở Việt Nam hiện nay với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với việc nghiên cứu và nhận diện cơ cấu xã hội nước ta, thời gian qua đã có nhiều chương trình nghiên về cơ cấu xã hội tạo ra những cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc hoạch định các chính sách một cách đúng đắn và kịp thời, những chương trình nghiên cứu tập trung phân tích những khía cạnh sau:[11]
- Nghiên cứu khái niệm cơ cấu xã hội và các khái niệm khác có liên quan.
- Những vấn đề có tính chất phương pháp luận và hệ thống lý thuyết về cơ cấu xhội.
- Những phân tích mang tính chất thực nghiệm về các phân hệ cơ cấu xã hội cơ bản.
- Những hiện tượng như phân tầng xã hội, tính cơ động xã hội, các đặc trưng và xu hướng chuyển đổi cơ cấu xã hội nói chung.
- Những dự báo, đề xuất, kiến nghị về việc xây dựng mô hình cơ cấu xã hội mới, những chính sách và biện pháp quản lý, đổi mới, cải cách các loại thiết chế xã hội, đặc biệt là thiết chế chính trị, pháp luật; những vấn đề chiến lược con người nói chung, chiến lược về sự tuyển lựa cán bộ và nhân tài nói riêng.






CHƯƠNG 4. TỔ CHỨC XÃ HỘI
                      VÀ THIẾT CHẾ XÃ HỘI

I. Nhóm xã hội (Social group)
1. Quan niệm của xã hội học về nhóm xã hội
          Hiện nay có khá nhiều quan niệm, định nghĩa, khái niệm khác nhau về nhóm xã hội. Khía cạnh chủ yếu mà xã hội học quan tâm đến nhóm xã hội là sự tập trung vào phân tích cấu trúc nhóm, các vị thế, các vai trò của nhóm trong cơ cấu xã hội, cũng như vị thế, vai trò xã hội của các cá nhân thành viên của nhóm. Các nhà xã hội học đi đầu trong nghiên cứu nhóm là G.Simmel, tiếp đến là T.Parsons, E. Mayo và những người khác.
          Theo J.H. Fischer, nhóm là một tập hợp người có thể nhận thức được, có cơ cấu tổ chức, có tính chất liên tục. Tập hợp đó bao gồm những con người có những vị thế, vai trò nhất định, trong quan hệ tương tác qua lại với nhau, có những quyền lợi và các giá trị chung, những mục tiêu xã hội chung cũng như đều phải tuân theo những quy tắc, điều lệ chung của nhóm.[12]
          Quan niệm của I. Robertsons, nhóm là một tập hợp người liên kết với nhau theo một kiểu nhất định. Nói một cách khác, nhóm là một tập hợp người có liên hệ với nhau về mặt vị thế, vai trò, những nhu cầu, lợi ích, trách nhiệm, quyền hạn và những định hướng giá trị nhất định.[13]
          Theo Gurvicth, nhóm là một đơn vị tập thể có sự thống nhất về tinh thần, tình cảm, mục đích và phương thức hoạt động.[14]
Theo Barker (1987), nhóm là “một tập thể người quy tụ lại với nhau do có cùng quyền lợi hoặc mối quan tâm và có khả năng hành động chung một cách liền lạc và đồng bộ”.[15]
          Trong ngành xã hội học, khái niệm “nhóm” (group) hay “nhóm xã hội” (social group) được hiểu như là một tập hợp người trong đó các cá nhân có những mối quan hệ tương tác lẫn nhau, và trong đó tồn tại một kiểu cấu trúc nào đó. Như vậy, xét theo hai tiêu chuẩn đó, thì những người tình cờ ngồi chung với nhau trên một chuyến xe buýt hay những người cùng xem một bộ phim ở rạp đều không được coi là một nhóm xã hội.[16]  
2. Phân loại nhóm xã hội
          Có nhiều tiêu chí để phân loại nhóm xã hội, tùy thuộc vào khía cạnh tiếp cận mà người ta có cách phân loại nhóm khác nhau.
          - Dựa trên cơ sở quy mô của số thành viên người ta có thể phân loại thành nhóm lớn, nhóm vừa và nhóm nhỏ. Trong đó các nhóm lớn được đặc trưng bởi những mối quan hệ gián tiếp, nhóm nhỏ đặc trưng bởi mối quan hệ trực tiếp giữa các thành viên của nhóm.
          - Dựa trên hình thức biểu hiện của mối liên hệ giữa các thành viên người ta phân thành nhóm chính thức và nhóm phi chính thức.
          - Dựa trên cách thức gia nhập của thành viên người ta có thể phân loại thành nhóm tự nguyện và nhóm áp đặt; nhóm tự phát và nhóm có tổ chức.
          - Dựa vào đặc điểm lao động, sản xuất người ta cũng có thể phân loại nhóm theo những đặc trưng chung, chẳng hạn như nhóm học sinh, nhóm giáo viên, nhóm công chức…
          - Dựa vào tính chất tồn tại, người ta cũng có thể phân chia nhóm thành nhóm quy ước và nhóm tự nhiên. Nhóm quy ước, là loại nhóm được hình thành một cách nhân tạo do con người chủ định xây dựng hoặc phân chia các cá nhân, các hộ gia đình thành những nhóm khác nhau để xem xét nhằm những mục tiêu xác định. Nhóm tự nhiên, là những nhóm có thực và tồn tại thực trong cuộc sống. Nền tảng của cơ cấu xã hội là nhóm tự nhiên, tuy nhiên có thể nghiên cứu về nhóm quy ước để hiểu thêm về cơ cấu của nhóm tự nhiên.[17]
- Mặt khác, từ lâu người ta đã phân biệt nhóm sơ cấp và nhóm thứ cấp (Cooley, 1909). Cooley định nghĩa nhóm sơ cấp là những nhóm tương đối nhỏ, có những quan hệ trực diện với nhau, cùng có mục tiêu chung, và nhất là cùng có một cảm giác thân mật, thân thiện với nhau. Người ta có thể xếp đây là những loại nhóm như gia đình, nhóm bạn bè, nhóm đồng nghiệp tại cùng nơi làm việc… Nhóm sơ cấp là loại nhóm có nhiều ảnh hưởng tới đời sống tình cảm cá nhân. Còn nhóm thứ cấp là loại nhóm có thể bao gồm số lượng người đông hơn, trong đó các mối quan hệ giữa các cá nhân có thể không trực tiếp mà thường là thông qua trung gian một số người khác, và nhất là thông qua những qui tắc tổ chức và ứng xử rõ rệt. Nói cách khác, đây là loại nhóm xã hội trong đó các mối quan hệ đã được định chế hóa, trong đó tuy cũng có thể có ý thức đoàn kết chung, nhưng không mang tính chất gần gũi, gắn bó và tình cảm thân thiện giữa từng cá nhân với nhau như một nhóm cơ bản.[18]
II. Tổ chức xã hội
1. Thế nào là tổ chức?
Tổ chức có 2 ý nghĩa chính:
- Thiết lập cấu trúc của cơ sở: Tổ chức nghĩa là một thể chế, một cơ quan, được thiết lập ra, nhằm những mục đích cụ thể (bệnh viện, trường học,cơ quan nhà nước…). Nhiều nhà nghiên cứu tổ chức cho rằng sự ra đời của tổ chức là một tất yếu nhằm để giải quyết những loại hình mục tiêu rất phức tạp, nhằm bảo vệ những giá trị cần thiết của xã hội, nhằm giúp con người có thể ra được sự thay đổi và quản lý được những thay đổi đó.
- Tiến trình làm cho cơ sở đó có tổ chức hơn. Theo ý nghĩa này, tổ chức được hiểu là sự phân bố, phân công các thành viên của tổ chức nhằm làm cho mục tiêu của tổ chức đó đạt được.
Theo Barnard (nhà nghiên cứu tổ chức) cho rằng tổ chức hình thành khi con người giao tiếp với nhau và mong muốn hành động vì mục đích chung.
Những yếu tố của một tổ chức
Theo ông những yếu tố trong một tổ chức bao gồm:
- Sự giao tiếp (truyền thông, thông đạt)
- Quyết tâm phục vụ
- Vì một mục đích chung
Phân loại tổ chức:
- Tổ chức chính thức
Đó là cơ cấu tổ chức được thừa nhận ở cơ sở trong đó có ban điều hành, giám đốc và nhân viên
- Tổ chức không chính thức
Là sắp xếp ngoài cơ cấu chính thức, không thể quan sát được, không vẽ sơ đồ tổ chức được, không thường xuyên, không có điều lệ và không có kế hoạch.
+ Có xu hướng muốn lật đổ lãnh đạo nhóm chính thức
+ Tung tin đồn
+ Nói xấu
Tiến trình tổ chức : Tổ chức theo chiều dọc và theo chiều ngang
- Cấu trúc tổ chức theo chiều ngang bao gồm các phòng ban chức năng.
          - Cấu trúc tổ chức theo chiều dọc phân chia theo thứ bậc từ trên xuống hoặc từ dưới lên.         
2. Định nghĩa tổ chức chính thức[19]
          Các tổ chức chính thức là những nhóm người có cùng chung với nhau một mục đích cần phải đạt đến. Các thành viên trong tổ chức phải tuân theo những nguyên tắc nhất định và các nguyên tắc này được bảo hộ bởi một hệ thống thứ bậc rõ ràng.
          Các tổ chức trong một quốc gia như nhà máy, công ty, trường học, cơ quan hành chính sự nghiệp… là các tổ chức chính thức và được tổ chức theo mô hình bộ máy Bureaucracy. Mô hình này trở nên phổ biến khắp các quốc gia trên thế giới kể từ khi CNTB ra đời.
3. Khái niệm bộ máy “Bureaucracy”
          Bộ máy Bureaucracy là một hệ thống bao gồm thứ bậc quyền lực, nghĩa vụ và trách nhiệm. Hoạt động của bộ máy này có thể hướng đến những mục đích riêng biệt. Trong hệ thống, hầu như tất cả các vị trí của từng thành viên đã được chương trình hóa từ trước với nghĩa vụ và trách nhiệm hết sức rõ ràng. Max Weber cho rằng hệ thống Bureaucracy hoạt động hiệu quả hơn các tổ chức khác. Nó có thể huy động tối đa khả năng của người lao động và giảm tối thiểu sức ép căng thẳng và sự va chạm xã hội, ngoài ra hệ thống này còn tiết kiệm được thời gian.
4. Đặc tính của bộ máy Bureaucracy
          M. Weber đã dành nhiều thời giaan nghiên cứu về Bureaucracy và đã đưa ra một số đặc tính cơ bản sau:
          Thứ nhất, chuyên môn hóa cao: Trong hệ thống Bureaucracy mỗi cá nhân thực hiện một số nhiệm vụ hẹp được ấn định rõ ràng theo quy chế. Trong hệ thống này các yêu cầu được chuyên môn hóa hơn các tổ chức khác như hội đoàn. Do vậy nó tạo ra năng suất và hiệu quả cao, lợi thế trong khâu đào tạo. Tuy nhiên, chuyên môn hẹp gây ra tâm lý nhàm chán do công việc lặp đi lặp lại một cách đều đặn, đơn điệu trong một thời gian dài.
          Thứ hai, tiêu chuẩn và chất lượng: Mỗi một vị trí trong hệ thống đòi hỏi những tiêu chuẩn và chất lượng tương ứng. Các cá nhân muốn được sắp xếp vào một vị trí nào đó trong hệ thống phải thỏa mãn những tiêu chuẩn và chất lượng mà vị trí đó đòi hỏi. trước khi được đặt vào một vị trí mỗi cá nhân buộc phải qua tuyển chọn và họ phải thõa mãn toàn bộ hay phần lớn những yêu cầu tiêu chuẩn, chất lượng cơ bản mà công việc đòi hỏi.  
          Thứ ba, quy tắc và điều kiện thành văn: Hoạt động của toàn bộ hệ thống, hay của từng bộ phận trong hệ thống cũng như từng thành viên được thực hiện thao những quy tắc, quy chế, cơ chế hết sức rõ ràng. Chúng được ghi thành văn bản và công khai. Các cá nhân lĩnh hội được trách nhiệm, nhiệm vụ của mình qua các quy chế thành văn đó. Những nhân viên mới khi thay thế cho nhân viên cũ sẽ dễ dàng tiếp nhận công việc qua một loại quy định sẵn có.
          Thứ tư, thứ bậc quyền lực: Trong hệ thống Bureaucracy bao giờ cũng tồn tại một hệ thống thứ bậc quyền lực. Mỗi cá nhân có một vị trí nhất định theo thứ bậc trên dưới. Cấp dưới phải chấp hành cấp trên và chịu sự quản lý điều hành của cấp trên. Còn cấp trên có trách nhiệm quản lý hiệu quả cấp dưới thông qua hệ thống kiểm soát, chấp hành, báo cáo, điều chỉnh. Mỗi một vị trí trong hệ thống có một quyền hạn nhất định và kèm theo đó là những trách nhiệm, nghĩa vụ, bổn phận và quyền lợi tương ứng. Tất cả các tổ chức lớn hay nhỏ trong hệ thống Bureaucracy đều có sự ràng buộc, móc xích với nhau.
          Thứ năm, thờ ơ và lãnh đạm: Các qua hệ diễn ra giữa các nhân công trong hệ thống Bureaucracy tương tự như các quan hệ xã hội diễn ra ở trong nhóm thứ cấp (sự liên kết thông qua luật lệ và những mục tiêu chung phải giải quyết của tổ chức). Trong hệ thống này, nhân công phải sống và làm việc theo phận sự, nghĩa vụ với công việc diễn ra theo một chuyên môn hẹp, ở trong một khoảng không gian chật hẹp, do vậy giữa họ ít có quan hệ mặt đối mặt (face to face), thiếu cảm xúc, tình thân thiện. Người nhân công luôn luôn đối mặt với các quy tắc, điều lệ và vật chất hữu hình của hệ thống công chức hơn là với bằng hữu. Với họ chủ yếu là công việc. Chẳng hạn công nhân trong một nhà máy có công việc tương tự nhau, số giờ làm việc như nhau, tiền lương như nhau, cung cách làm việc giống nhau và ít có quan hệ với nhau. Mặc dù kiểu quan hệ như thế mang tính chất thờ ơ và lãnh đạm nhưng trong một chừng mực nhất định là cần thiết bởi vì nếu mọi người ứng xử với nhau thân thiết như nhóm sơ cấp thì sẽ cản trở đến hoạt động của bộ máy.
          Hiện nay trong công tác quản lý người ta đang cố gắng làm cho hệ thống Bureaucracy cứng nhắc theo kiểu phương tây và hệ thống quan lý theo kiêu gia đình ở châu Á xâm nhập vào nhau, học tập lẫn nhau.
III. Thiết chế xã hội (định chế xã hội) [Social Institution]
1. Khái niệm
          Thiết chế, theo nghĩa đen, là cái gì đã được thiết lập, đã được đặt định sẵn. Hiểu trong khuôn khổ xã hội học, thì thiết chế không phải là một nhóm người, cũng không phải là một tổ chức hay một hiệp hội, như người ta thường dung trong một số lĩnh vực khác. Ở đây, chúng ta hiểu thiết chế là một hệ thống bao gồm những vai trò đã được thiết lập theo những chuẩn mực nhất định mà xã hội thừa nhận.[20]
Theo I. Robersons, thiết chế là một tập hợp bền vững các giá trị, chuẩn mực, vị thế, vai trò và nhóm vận động xung quanh một nhu cầu cơ bản của xã hội. Ông cho rằng, một xã hội muốn tồn tại và phát triển bình thường, phải tổ chức một cách có trật tự và hệ thống. Có nghĩa là, nó phải được hình thành nên những mô hình hành vi, những khuôn mẫu, khuôn phép chung để từ đó hành động cho phù hợp. Không thể nói đến sự tồn tại và phát triển của xã hội mà lại không có thiết chế, tức là một xã hội không có kỷ cương, quy tắc đó. I.Robersons còn cho rằng, thiết chế xã hội hay những mô hình hành vi của con người được thiết chế hóa do những nhu cầu khách quan của các lĩnh vực hoạt động xã hội khác nhau quy định.[21]
          Theo J.H. Fichter (1971), thiết chế xã hội chính là một đoạn của văn hóa đã được khuôn mẫu hóa. Những khuôn mẫu tác phong của nền văn hóa đó được xã hội đồng tình, khuyến khích sẽ có xu hướng trở thành các mô hình hành vi được mong đợi, tức là các vai trò. Do vậy, thiết chế xã hội là một tập hợp các khuôn mẫu tác phong được đa số chấp nhận nhằm thỏa mãn một nhu cầu cơ bản của nhóm xã hội.[22]
          Theo N. Smelser, thiết chế là một tập hợp các vị thế và vai trò có chủ định nhằm thỏa mãn những nhu cầu xã hội quan trọng.[23]
          Theo G.V. Oxipov, thiết chế xã hội là tổ chức nhất định của hoạt động xã hội và các quan hệ xã hội, được thực thi bằng hệ thống phối hợp của những qui chuẩn về hành vi, chuẩn mực và giá trị, được định hướng một cách hợp lý.[24]
          Theo W.G. Sumner trong công trình Folkways đã định nghĩa thiết chế là một khái niệm hay một cấu trúc hàm chứa một mục đích hay một chức năng do một tổ chức có hệ thống gồm nhiều người tiến hành.[25]
          Các thiết chế xã hội không bao giờ có thành viên, nhưng chúng lại luôn luôn có những người thực thi. Đây là một sự phân biệt hết sức quan trọng mà P.B. Horton nhấn mạnh, vì có nắm rõ được sự phân biệt này chúng ta mới hiểu được thế nào là thiết chế.[26]
          Như vậy, qua các định nghĩa trên ta có thể thấy: thiết chế xã hội là hình thức cộng đồng và hình thức tổ chức của con người trong quá trình tiến hành các hoạt động xã hội. Thiết chế xã hội chính là các ràng buộc được mọi cá nhân, nhóm cộng đồng và toàn thể xã hội chấp nhận và tuân thủ. Thiết chế xã hội biểu hiện là một tập hợp bền vững của các giá trị, chuẩn mực, vị thế, vai trò và nhóm vận động xung quanh một nhu cầu cơ bản của xã hội. Thực chất của thiết chế xã hội chính là hệ thống các quy định xã hội tạo thành khuôn mẫu chuẩn mực cho hành động xã hội.
2. Các đặc trưng của thiết chế xã hội
          Để thực hiện vai trò trung tâm của sự điều tiết xã hội, thiết chế xã hội phải có những đặc trưng cơ bản sau:
          - Các thiết chế xã hội , đều không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của từng cá nhân, mà ngược lại đều được áp đặt lên cá nhân qua quá trình xã hội hóa cá nhân.
          - Mỗi vai trò, khi đã được thiết chế hóa, đều bao gồm một loạt chuẩn mực mà xã hội đã đề ra và cá nhân phải tuân theo, dù muốn hay không. Mục tiêu của thiết chế xã hội được đại đa số các thành viên của xã hội thừa nhận, cho dù thành viên đó có tham gia trực tiếp hay không vào trong thiết chế.
          - Trong các thiết chế, ứng xử của mỗi vai trò đều được lèo lái và quy định bởi những kỳ vọng xã hội đối với vai trò đó. Các thiết chế xã hội phải thể hiện được các giá trị xã hội cơ bản được các thành viên xã hội thừa nhận.
          - Các quan hệ được thiết lập trong thiết chế phải tương đối bền vững để các khuôn mẫu hành vi được hình thành trong thiết chế trở thành một phần truyền thống văn hóa của một cộng đồng xã hội.
- Khác với các tổ chức xã hội cụ thể thường sử dụng văn bản nội quy hay điều lệ để điều phối hoạt động của mình, thì thiết chế xã hội thường chỉ dựa trên những quy định và luật lệ bất thành văn, những cái mà chúng ta thường gọi là phong tục, là truyền thống, là nề nếp… Phát triển ở mức độ cao các thiết chế được luật hóa thành văn bản pháp luật để kiểm soát hoạt động của xã hội.
          - Mỗi một thiết chế xã hội có tính độc lập tương đối, có tầm bao quát trong phạm vi hoạt động nhất định và trở thành vị trí trung tâm trong phạm vi đó.
          Mặc dù các thiết chế xã hội có tính độc lập tương đối, nhưng giữa chúng có mối quan hệ tương tác với nhau rất chặt chẽ. Khi có một sự thay đổi về cơ cấu tổ chức hay khuôn mẫu hành vi của một thiết chế nào đó, có thể kéo theo sự thay đổi của các thiết chế ở lĩnh vực khác.
3. Quá trình thiết chế hóa[27]
          Thiết chế là một sản phẩm của sinh hoạt xã hội. Nó được định hình theo thời gian, khi mà một số ứng xử nào đó của đời sống con người được lập đi, lập lại rồi dần dần biến thành tập quán, biến thành cái mà chúng ta thường gọi là “phong tục” – tức là cái vô hình chung trở thành những qui tắc và chuẩn mực của ứng xử.
          Thiết chế hóa (institutionalization) chính là quá trình định hình của những chuẩn mực mà con người ở mỗi vị trí và vai trò nhất định trong xã hội phải tuân theo trong cung cách ứng xử của mình. Chuẩn mực (norm) là điều mà xã hội mong đợi và đòi hỏi cá nhân phải tôn trọng khi ứng xử trong tư thế của một vị trí và vai trò nào đó.
          Các mối quan hệ có thể được thiết chế hóa khi (a) một hệ thống các vị trí và vai trò đã được phát triển, và (b) hệ thống các chuẩn mực tương ứng với các vị trí và vai trò đó được đại đa số mọi người trong xã hội thừa nhận.
          Một thiết chế xã hội được hình thành khi các vị trí và vai trò đã được “thiết chế hóa” bằng các chuẩn mực. Nói cách khác, mỗi vai trò, một khi đã được thiết chế hóa, đều được quy định bởi một loạt chuẩn mực về ứng xử (từ đó mới có khái niệm “khuôn mẫu ứng xử” – behavior pattern).
4. Chức năng của thiết chế xã hội
Thiết chế xã hội có hai chức năng chủ yếu
Thứ nhất, khuyến khích, điều chỉnh, điều hòa hành vi của con người phù hợp với quy phạm và chuẩn mực của thiết chế và tuân thủ thiết chế;
Thứ hai, ngăn chăn, kiểm soát, giám sát những hành vi lệch lạc do thiết chế quy định.
Các chức năng của các thiết chế xã hội được thực hiện thông qua các nhiệm vụ:
          Thiết chế xã hội vốn là những mô hình hành vi được đa số thừa nhận là chuẩn và thực hiện theo, do đó các cá nhân sẽ không mất thời gian để suy tính, đắn đo xem cách thức hành động đó là đúng hay sai để thực hiện hay không thực hiện. Nói cách khác, thiết chế đã đơn giản hóa tác phong hành động, lề lối tư duy của cá nhân. Mọi thành viên hành động theo thiết chế một cách tự động hóa.
          Thiết chế xã hội cũng là tập hợp các vai trò đã được chuẩn hóa - đó chính là các vai trò mà mọi cá nhân cần phải học để thực hiện thông qua quá trình xã hội hóa. Nghĩa là, thiết chế cung cấp cho cá nhân những vai trò có sẵn.
Thiết chế xã hội là yếu tố phối hợp và ổn định cho toàn thể nền văn hóa. Nhìn chung, cá nhân ít khi hành động ngược lại các thiết chế; bởi lẽ, cung cách tư duy và phong cách hành động đã được thiết chế hóa có ý nghĩa quan trọng đối với con người. Thiết chế mang lại cảm giác yên tâm và an toàn cho các thành viên tuân thủ nó, vì nó chính là cái mà xã hội cho là đúng, là chuẩn - thực hiện theo nó tức là thực hiện theo đám đông, chỉ những thành viên không thực hiện mới cảm thấy bất an vì bị xã hội lên án. ví dụ, đại đa số "trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng" là việc làm hết sức bình thường - đó là một thiết chế.
Thiết chế xã hội luôn bao gồm những mong đợi của xã hội. Nhờ có những mong đợi này của thiết chế mà cá nhân biết được mình sẽ phải hành động và suy nghĩ thế nào trước những người khác. Trường hợp thiết chế xã hội thực hiện các chức năng điều hòa và kiểm soát xã hội không đúng cách thức có thể dẫn đến các tác động tiêu cực đối với xã hội - khi sự điều hòa và đặc biệt là, sự kiểm soát của thiết chế quá mạnh sẽ triệt tiêu mọi sự sáng tạo của cá nhân, đồng thời thiết chế sẽ mang tính bảo thủ. Tính bảo thủ này thể hiện ở chỗ nó cố gắng duy trì những khuôn mẫu tác phong đã lạc hậu, lỗi thời. Các thiết chế này sẽ cản trở sự tiến bộ của xã hội. Nhưng, khi sự kiểm soát và điều chỉnh các quan hệ xã hội quá yếu của thiết chế có thể dẫn tới tình trạng các cá nhân, nhóm xã hội không thực hiện tốt vai trò, thậm chí trốn tránh trách nhiệm của mình. Kết quả là hoạt động từng phần hoặc toàn bộ xã hội bị đình trệ.
Giữa các thiết chế đôi khi có xảy ra sự di chuyển chức năng. Sự di chuyển đó xảy ra khi xuất hiện một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau:
(1) Thiết chế không đáp ứng được nhu cầu;
(2) Các thiết chế đều có khả năng đáp ứng được yêu cầu, nhưng một trong số đó nổi trội hơn, có khả năng đáp ứng ở mức cao hơn so với các thiết chế khác.
5. Các loại thiết chế xã hội
Căn cứ để phân loại
- Tính phổ quát của thiết chế;
- Sự cần thiết của thiết chế;
- Tầm quan trọng của thiết chế.
Căn cứ vào ba đặc điểm trên, các nhà xã hội học chia các thiết chế xã hội thành hai loại:
Thiết chế chủ yếu - thiết chế cần thiết nhất cho xã hội và được coi là quan trọng nhất cho lợi ích cá nhân và xã hội, và bao gồm các thiết chế sau:
(1) - Thiết chế kinh tế, mang chức năng sản xuất phân phối các sản phẩm và dịch vụ.
(2) - Thiết chế chính trị, điều tiết việc nắm giữ và sử dụng quyền lực.
(3) - Thiết chế gia đình, liên quan đến hôn nhân, gia đình, họ hàng thân tộc và quá trình xã hội hóa trẻ em.
(4) - Thiết chế giáo dục, liên quan đến quá trình xã hội hóa và khoa học.
(5) - Thiết chế văn hóa, liên quan đến các hoạt động văn hóa, tôn giáo, truyền thông đại chúng, nghệ thuật.
Thiết chế phụ thuộc - những thiết chế nhỏ và khác biệt nhau, nằm trong thiết chế chủ yếu.
IV. Lệch lạc xã hội và kiểm soát xã hội
1. Chuẩn mực xã hội
Là những quy tắc ứng xử.  Mỗi nhóm đều có những chuẩn mực chung và có những chuẩn mực riêng đối với các thành viên thực hiện các vai trò. Nó được coi là những kì vọng vai trò gắn với những địa vị cụ thể.
2. Lệch lạc xã hội (lệch chuẩn xã hội)
2.1. Khái niệm
Người ta gọi bất kỳ hành vi nào không phù hợp với mong đợi của một nhóm hoặc của xã hội là hành vi lệch chuẩn. Nói cách khác, hành vi lệch chuẩn là hành vi lệch khỏi các quy tắc chuẩn mực của nhóm hay xã hội. Nó là hậu quả của quá trình xã hội hoá không hoàn toàn. Các ví dụ điển hình về hành vi lệch chuẩn trong xã hội ta hiện nay: giết người, trộm cắp, điên loạn, tâm thần, tham ô, nghiện nghập, mãi dâm…  Tuy nhiên, thế nào là lệch lạc vẫn còn là một vấn đề tranh cãi. Bởi lẽ như đã định nghĩa, lệch lạc tùy thuộc vào quan điểm và góc đứng nhìn vấn đề. Như trường hợp Nelson Mandela trước đây, đối với những người da trắng Nam Phi ông là một người lệch lạc, đã bị bỏ tù vì chống lại luật lệ của người Nam phi, nhưng đối với những người da đen ông ta lại là một người anh hùng.
Để xác định một hành vi có lệch chuẩn hay không, trước hết phải xác định các quy tắc văn hoá của xã hội (nhóm) mà chủ thể hành vi đang sống. Trên cơ sở đó xác định mức độ phù hợp giữa hành vi của cá nhân, nhóm với quy tắc đó. Một hành vi cá nhân, nhóm bao giờ cũng là một hành vi xã hội. Nó có thể là bình thường hay lệch chuẩn, tuỳ thuộc vào giá trị của nó đối với xã hội. Nó có thể được thừa nhận là đúng đắn trong nền văn hoá xã hội này nhưng lại bị coi là lệch chuẩn so với văn hoá xã hội khác. Đối với người Việt chúng ta ăn thịt heo hay thịt bò không thành vấn đề, nhưng ăn thịt bò đối với người Chăm theo đạo Bàlamôn hay ăn thịt heo đối với người Chăm theo đạo Hồi giáo là những hành vi lệch lạc.
2.2. Các loại lệch lạc xã hội:
Không có một phương thức đơn giản hay phổ quát để phân loại các hành vi lệch lạc. Tuy nhiên có thể phân biệt sự lệch lạc ở cấp độ cá nhân, sự lệch lạc của một nhóm và sự lệch lạc ở cấp độ định chế:
- Lệch chuẩn cá nhân: Hành động của cá nhân không phù hợp với quy tắc văn hoá của nhóm đã được xác lập trong thực tế đã bác bỏ các quy tắc đó gọi là lệch chuẩn cá nhân. Ví dụ hành vi hư hỏng, trộm cắp…. trong gia đình có nền nếp văn hoá. Hành vi hư hỏng này một mặt lệch ra khỏi chuẩn mực của giáo dục gia đình, mặt khác đã phủ nhận giá trị của văn hoá gia đình.
          - Lệch chuẩn nhóm: Một nhóm thành viên có hành động trái với quy tắc mà đã được xã hội thừa nhận là lệch chuẩn nhóm. Chẳng hạn, nhóm trẻ em hư, bụi đời, băng đảng Mafia… hành động trái với những quy tắc, giá trị văn hoá chung nhưng họ còn định ra và hành động theo một giá trị riêng (văn hoá nhóm) được mọi thành viên trong nhóm tán thành. Điều đáng lưu ý là các quy tắc này của nhóm không phù hợp với các tiêu chuẩn chung của xã hội.
2.3. Thành phần và nguyên nhân của lệch chuẩn xã hội
a. Thành phần cơ bản trong các lệch chuẩn xã hội bao gồm 4 yếu tố:
          - Giá trị xã hội: là yếu tố của ý thức xã hội bao hàm và tích tụ các quan niệm, quan điểm chính trị, đạo đức, tôn giáo, văn hóa …của con người, định hướng nhận thức và hành động của con người nó được coi là nguồn gốc của động cơ và việc hình thành cơ chế hành động. Đồng thời làm mẫu kiểm tra khi hành động trong thực tế. Giá trị là cơ sở để chỉ ra cho con người hiểu cái gì là phù hợp và cái gì là không phù hợp với cá nhân với cộng đồng xã hội.
          - Thiết chế xã hội: các thiết chế xã hội được hình thành và tác động trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội (như chính trị, kinh tế, tôn giáo….) Nó chính là tổng hợp của các môi trường quan hệ xã hội đã được hợp thức hóa thành các chuẩn mực đã được ổn định và được đảm bảo bằng những phương tiện nhân lực và vật chất nhằm thực hiện một chức năng xã hội nhất định. Tuy nhiên trong thực tế sự rối loạn các thiết chế xã hội là nguyên nhân gây ra những lệch chuẩn xã hội. Điều đó được thể hiện như sau:
·        Biến dạng các thiết chế gây ra sự căng thẳng xã hội và tạo ra xung đột vì thiết chế xã hội không thực hiện được chức năng xã hội của nó.
·        Trong thực tế có những thiết chế xã hội đã bị vô hiệu, do đó có ý muốn thay thế nó bằng những quy định khác, chủ yếu là không chính thức.
·        Sự rối loạn các thiết chế kéo dài, ảnh hưởng xấu đến đạo đức và hệ thống định hướng xã hội
·        Sự suy yếu các chức năng kiểm tra của thiết chế dẫn đến những kẻ vi phạm chuẩn mực xã hội.
          - Chuẩn mực xã hội: chuẩn mực xã hội quy định những mục tiêu cơ bản, những điều kiện và những hình thức ứng xử trong những lĩnh vực quan trọng nhất của đời sống xã hội hoặc đối với nhóm xã hội. Do đó chuẩn mực xã hội giữ một vị trí rất quan trọng của lệch chuẩn xã hội. Chuẩn mực xã hội không còn phù hợp hoặc bị thay đổi sẽ dẫn đến những hành vi sai lệch.
          - Quan hệ xã hội: Quan hệ xã hội chính là quan hệ giữa người và người đã được hình thành và phù hợp với bản chất kinh tế - xã hội của một xã hội nhất định. Khi các quan hệ xã hội bị biến dạng có thể dẫn đến hành vi sai lệch của cá nhân.
          Chúng ta có thể biểu diễn vai trò và các mối quan hệ giữa các yếu tố trên theo sơ đồ sau:

Thiết chế xã hội
 
Quan hệ
 
Chuẩn mực
 
Giá trị                                     
 
b. Nguyên nhân của lệch chuẩn xã hội:
          - Nguyên nhân bên trong: bao gồm các yếu tố tâm lý cá nhân, các yếu tố tâm lý xã hội và các yếu tố sinh học .
          - Nguyên nhân bên ngoài: Bao gồm các yếu tố và điều kiện kinh tế - xã hội, lối sống và quan hệ xã hội của con người.
3. Kiểm soát xã hội
3.1. Khái niệm
Kiểm soát xã hội là quá trình mang lại sự đảm bảo cho mỗi cá nhân được quyền thực hiện các quy tắc xã hội, duy trì sự tuân thủ các quy tắc đó, phát hiện và ngăn chặn, điều chỉnh các hành vi lệch chuẩn và các nguyên nhân dẫn đến hành vi đó. Hay nói cách khác kiểm soát xã hội là những phương thức mà một xã hội ngăn ngừa sự lệch lạc và trừng phạt những người lệch lạc thường được gọi là sự kiểm soát xã hội. Kiểm soát xã hội được xem như những phương cách mà xã hội thiết lặp và cũng cố những chuẩn mực xã hội. Theo Janovitz kiểm soát xã hội là khả năng của một nhóm xã hội, hay của cả xã hội trong việc điều tiết chính mình.
3.2. Các hình thức kiểm soát xã hội:
- Tự kiểm soát (kiểm soát bên trong): Kiểm soát bên trong là quá trình chủ thể xã hội (cá nhân, tổ chức, xã hội) tự theo dõi, kiểm tra, suy xét, đối chiếu và đánh giá hành vi của mình so với các chuẩn mực và quy tắc xã hội.
- Kiểm soát xã hội (kiểm soát bên ngoài): là quá trình duy trì các điều kiện đảm bảo cho việc tuân thủ các quy tắc xã hội và duy trì sự tuân thủ đó của mọi cá nhân. Đồng thời bảo vệ trật tự xã hội, phát hiện ngăn chặn và phê phán các cá nhân không thể hoặc không muốn nội tâm hoá các chuẩn mực giá trị xã hội.
- Kiểm soát không chính thức: là sự kiểm soát xã hội không phải do một thiết chế và tổ chức xã hội có chức năng rõ ràng tiến hành. Nó được thực hiện như các nhóm sơ cấp như gia đình, bạn bè, nhóm làm việc hay các nhóm nhỏ khác. Phạm vi của kiểm soát không chính thức rất lớn, bao quát toàn bộ các lĩnh vực hoạt động và sinh hoạt của cá nhân.
      - Kiểm soát chính thức: Thường do một số thiết chế và tổ chức xã hội có chức năng xã hội hoá đảm nhận. Chẳng hạn cảnh sát, toà án, nhà tù, các trung tâm giáo dục thanh thiếu niên hư, trại phục hồi nhân phẩm, cai nghiện…. Hệ thống kiểm soát chính thức bao giờ cũng có các điều luật, quy tắc thành văn do các tổ chức đảm nhận, thực thi các điều luật đó bằng các hình phạt theo quy định ứng với từng loại hành vi lệch lạc. 
3.3. Tội phạm và sự kiểm soát xã hội
Việc nghiên cứu phạm vi ảnh hưởng của tội phạm thường được bắt đầu bằng những dữ kiện thống kê về tỷ lệ tội phạm, bằng sự nghiên cứu về sự thay đổi, biến chuyển của các loại hình tội phạm qua thời gian. Các phương pháp được sử dụng đẻ kiểm soát tội phạm cũng thay đổi khi xã hội trở nên phức tạp hơn. Khác với xã hội cổ truyền, ở đó việc kiểm soát tội phạm được giao cho gia đình và công xã, trong các xã hội rộng lớn, phúc tạp hơn như các xã hội hiện đại người ta có xu hướng giảm thiểu khả năng của các định chế địa phương trong việc kiểm soát tất cả các thành viên của xã hội. Để giải quyết vấn đề những người lệch lạc, những xã hội phức tạp có xu hướng phát triển những định chế được tiêu chuẩn hóa và ít nhiều có tính cách cưỡng bức, ví như cảnh sát, tòa án, nhà tù, trung tâm cai nghiện, trung tâm phục hồi nhân phẩm… 



CHƯƠNG 5: XÃ HỘI HÓA CÁ NHÂN

I. Vị thế xã hội và vai trò xã hội
1. Vị thế xã hội (địa vị xã hội – Social status)
1.1. Khái niệm
          Vị thế xã hội hay địa vị xã hội là một trong những khái niệm cơ bản trong nghiên cứu xã hội học, ở đó là việc xác định hay định vị một cá nhân trong một đơn vị xã hội nhất định. Các nhà xã hội học đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về định nghĩa, khái niệm thế nào là “vị thế xã hội”.
          - Khái niệm “vị trí” hay “vị thế” (status) được R. Linton (1936) định nghĩa như một “vị trí trong hệ thống xã hội”. Hay chúng ta có thể nói ngược lại là: xã hội là một mạng lưới được dệt nên bởi các vị trí và vai trò.[28]
          - Trong xã hội học Mỹ, thuật ngữ “social status” (vị thế xã hội) thường được hiểu theo hai nghĩa: (1) một vị trí “position” cụ thể nào đó trong cấu trúc xã hội, chẳng hạn như vị trí người cha, vị trí một luật sư (mỗi vị trí này tương ứng với một vai trò, như đã nói trên); (2) một vị thế xã hội bao quát hơn (global status), theo nghĩa là toàn bộ những đánh giá của xã hội (social evaluations) đối với một cá nhân hay một nhóm – đánh giá về mặt uy tín, thế lực, trọng vọng, danh dự (có lẽ tương với khái niệm “công danh sự nghiệp”). Hiểu theo nghĩa thứ hai này, chữ “social status” có lẽ cần được dịch chính xác hơn là “địa vị xã hội”. Như vậy, địa vị xã hội [vị thế xã hội] của một người là cái mà xã hội công nhận nơi người này một cách tương đối tồng quát xét trong thang bậc xã hội. G.Lenski, cho rằng có bốn nhân tố quan trọng nhất cấu tạo nên địa vị xã hội trong xã hội Mỹ, đó là: thu nhập, uy thế nghề nghiệp, trình độ học vấn và chủng tộc.[29]
          - Theo I. Robertsons, vị thế là một vị trí xã hội. Mỗi vị thế quyết định chỗ đứng của một cá nhân hay nhóm xã hội trong kết cấu xã hội cung như phương thức quan hệ, ứng xử của cá nhân và nhóm xã hội đó với xã hội xung quanh.[30]        - Theo J.H. Fischer, vị thế là vị trí của một người đứng trong cơ cấu tổ chức xã hội theo sự thẩm định, đánh giá của xã hội. Vị thế xã hội là vị trí (địa vị) hay thứ bậc mà những người đang sống chung với một người nào đó dành cho anh ta một cách khách quan.[31] Ngoài ra Fischer đã chỉ rõ rằng “Vị trí then chốt chính là “cửa sổ” lớn nhất mà cá nhân mở ra cho bên ngoài tìm hiểu về mình và chính qua cái cửa sổ đó mà xã hội sẽ quan sát và giải thích về những vị thế khác của anh ta”.[32]
          Như vậy, ở đây ta thấy địa vị xã hội hay vị thế xã hội là một khái niệm khách quan, nó không phụ thuộc vào chủ thể nắm giữ vị thế ấy trong tổ chức của hệ thống xã hội mà anh ta đang sinh sống. Ở đó là sự sắp xếp, thẩm định hay đánh giá của xã hội dành cho cá nhân và nói đến vị thế xã hội là nói đến vị trí, thứ bậc cao thấp trong thang bậc xã hội của cộng đồng mà cá nhân đó tương tác.
1.2. Đặc điểm của vị thế xã hội
          Một số đặc điểm cần lưu ý khi nghiên cứu vị thế xã hội:[33]
          - Vị thế xã hội không nhất thiết gắn với người có uy tín và địa vị xã hội cao.
          - Vị thế  không thuần túy phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của mỗi người về chính mình.
          - Vị thế của mỗi người cần đối chiếu hay gắn với những tiêu chuẩn khách quan của xã hội.
          - Vị thế của mỗi người là vị trí xã hội mà những người đang sống trong cộng đồng với người đó dành cho họ, đánh giá hay suy tôn họ. Đây là tiêu chuẩn khách quan nằm ngoài mong muốn chủ quan của con người.
- Vị thế xã hội của mỗi người có tính ổn định tương đối; nó không đơn giản phụ thuộc vào những ý kiến đánh giá thay đổi thất thường của những người xung quanh.
Ba đặc trưng cơ bản mà thông qua đó vị thế xã hội của mỗi người được thể hiện, đó là: quyền lực xã hội, quyền lợi và trách nhiệm.[34]
- Quyền lực xã hội là quyền lực của một vị thế xã hội nào đó được xã hội thừa nhận hoặc trao cho cá nhân để thực hiện vai trò của mình trong xã hội.
- Quyền lợi xã hội là những điều kiện vật chất và tinh thần mà mỗi vị thế xã hội có được từ xã hội.
- Trách nhiệm xã hội là những quy định của xã hội đối với kết quả và hậu quả của việc thực hiện quyền lực xã hội ở mỗi vị thế xã hội nhất định.
1.3. Nguồn gốc và các yếu tố tạo thành vị thế xã hội
          - Dòng dõi
          - Của cải
          - Nghề nghiệp
          - Chức vụ và quyền lực do chức vụ đó mang lại
          - Trình độ học vấn
          - Cấp bậc, chức sắc trong tôn giáo, dòng họ, làng bản…
          - Những đặc điểm về sinh lý, giới tính
          Ở Mỹ người ta cho rằng có bốn yếu tố cấu thành nên vị thế xã hội của cá nhân, bao gồm:
          - Thu nhập
- Uy thế nghề nghiệp
- Trình độ học vấn
- Chủng tộc
1.4. Các loại vị thế xã hội
          Trong việc phân loại vị thế xã hội tùy thuộc vào lát cắt mà người ta có thể phân chia khác nhau, sau đây là cách phân chia theo một vài lát cắt cơ bản:
          - Căn cứ vào tình trạng tự nhiên và xã hội chúng ta có hai loại vị thế: vị thế có sẵn [hay còn gọi là vị thế xuất thân, vị thế chỉ định] và vị thế giành được.
          + Vị thế có sẵn [hay còn gọi là vị thế xuất thân, vị thế chỉ định], đó là loại vị thế xã hội mà bất kỳ cá nhân nào cũng nhận được ngay khi mới chào đời do nguồn gốc xuất thân từ cha mẹ của đứa trẻ quyết định như tôn giáo, chủng tộc, sắc tộc, dòng dõi, gia thế, nghề nghiệp…
          + Vị thế giành được, đó là những vị trí mà cá nhân có được khi đã trưởng thành. Cá nhân giành được chúng bằng sự nỗ lực không ngừng, bằng tài năng, học vấn, bằng sự chịu khó chăm chỉ và không thể không tính đến cả cơ may và những thủ đoạn mà cá nhân dung để đạt được vị thế xã hội đang nắm giữ.
          - Căn cứ vào vai trò và tầm ảnh hưởng của từng vị thế mà người ta cũng có thể phân chia thành vị thế then chốt và vị thế không then chốt.
          + Vị thế then chốt, còn gọi là vị thế chủ đạo (phụ thuộc vào hai yếu tố: Do chính bản thân con người tạo ra và phụ thuộc vào trật tự ưu tiên trong thang giá trị hiện hành), vị thế then chốt luôn đóng vai trò chi phối, chế ước lên chính toàn bộ nhân cách xã hội của cá nhân như J.H. Fischer đã từng đề cập và ông coi nó như “cửa sổ” để cá nhân, xã hội đánh giá về vị thế xã hội của cá nhân đó.
          + Vị thế không then chốt, là những vị thế không giữ vai trò cơ bản, chủ đạo trong việc quy định đặc điểm và hành vi xã hội của cá nhân.
          Bản thân mỗi cá nhân tồn tại trong xã hội đã là sự tổng hòa của nhiều loại vị thế khác nhau và các vị thế này thường là hòa hợp với nhau, tác động và bổ sung cho nhau. Tuy nhiên, vẫn có thể diễn ra tình trạng xung đột, mâu thuẫn giữa các vị thế trong một cá nhân.
          Ở tình trạng hòa hợp các vị thế sẽ là điều kiện thuận lợi để cá nhân hoàn thành được vai trò xã hội của mình.
          Ở tình trạng mâu thuẫn vị thế sẽ gây ra những rào cản để cá nhân hoàn thành các vai trò được mong đợi của mình. Và người ta thường dung thuật ngữ “status inconsistency”(mâu thuẫn giữa các vị thế) để chỉ tình trạng không ổn định về mặt địa vị hay vị thế xã hội. Từ điểm này G. Lenski đưa ra khái niệm “status crystallization” (kết tinh vị thế) để chỉ tình trạng tương hợp giữa các vị thế. Khi gặp tình trạng mâu thuẫn giữa các vị thế, người ta hoặc là mong muốn thay đổi về cơ bản hệ thống phân tầng xã hội, hoặc là cố gắng “kết tinh” các vị thế của mình lại với nhau cho nhất quán. Thông thường tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp là ba loại vị thế dễ xảy ra mâu thuẫn nhất trong một xã hội.[35]
          Công trình nghiên cứu  của Miyamoto và Dornbusch (1956), đã chứng minh cho thấy là việc tự đánh giá của mỗi người về địa vị xã hội của mình thực ra cũng phản ánh lại cách đánh giá của người khác về mình. Họ đề nghị người điều tra lượng giá về chính mình và về những người xung quanh trong nhóm của mình xét về mức thông minh, tính dễ mến, sự thu hút và về mức độ tin cậy. Kết quả cho thấy cách lượng giá của mỗi người về chính mình có hệ số tương quan rất chặt chẽ với cách đánh giá của người khác về mình.[36]
1.5. Vị thế xã hội và địa vị tổng quát, phân lớp xã hội, cơ động xã hội[37]
          - Vị thế xã hội và địa vị tổng quát, liên quan đến vị thế tổng quát, đó là sự tổng hòa của các vị thế, địa vị của một cá nhân, vị thế tổng quát tạo thành đặc trưng nổi bật về mặt nhân cách của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, không nên đồng nhất địa vị tổng quát với vị thế then chốt.
          - Vị thế và phân lớp xã hội, trong phân lớp xã hội, tầng xã hội là thứ bậc của một nhóm người có cùng chung một vị thế. Vị thế có thể là vị thế của một người, nhưng tầng xã hội luôn là tổng thể của nhiều người có cùng vị thế, địa vị và hoàn cảnh xã hội.
          - Vị thế và cơ động xã hội, do sự không ngang bằng nhau giữa các cá nhân trong xã hội (cả mặt tự nhiên và xã hội) mà luôn luôn tồn tại sự chênh lệch nhau về thang bậc của những cá nhân trong một xã hội. Tuy nhiên, những vị thế này không phải là bất biến mà luôn có sự biến đổi, thay thế cho nhau, gọi là cơ động xã hội. Sự thăng tiến hay tụt xuống về thang bậc xã hội gọi là sự cơ động xã hội theo chiều dọc. Mặt khác, cũng có sự dịch chuyển vị trí xã hội song chưa có sự thay đổi về mặt vị thế gọi là cơ động xã hội theo chiều ngang.
1.6. Cơ chế sắp đặt vị thế xã hội[38]
          Mỗi xã hội đều có cơ chế sắp đặt vị thế xã hội, tức là mỗi cá nhân có được vị thế xã hội cho bản thân bằng các cơ chế nhất định. Hiện nay có ba cơ chế cơ bản sau để sắp đặt vị thế xã hội. Đó là, cơ chế tiến cử, cơ chế bầu cử và cơ chế thi cử.
          - Cơ chế tiến cử, là cơ chế trong đó một cá nhân được một cá nhân hay tổ chức đề bạt với cấp trên bổ nhiệm vào một vị thế xã hội nào đó.
          - Cơ chế bầu cử, là cơ chế trong đó cộng đồng lựa chọn một cá nhân hoặc một nhóm người lãnh đạo cộng đồng bằng các hình thức bỏ phiếu lựa chọn.
          - Cơ chế thi cử, là cơ chế trong đó người được bổ nhiệm vào vị thế xã hội phải trãi qua một kỳ thi giám định khả năng làm việc hoặc qua một hội đồng giám định khả năng làm việc.
          Trong bất kỳ xã hội nào người ta cũng sử dụng ba cơ chế trên, song khuynh hướng sử dụng cơ chế ở các loại vị thế xã hội khác nhau có khác nhau tùy thuộc vào bản chất của xã hội đó và tùy thuộc vào ưu nhược điểm của mỗi loại cơ chế.
2. Vai trò xã hội (Social role)
2.1. Khái niệm
          G.H. Mead (nhà xã hội học người Mỹ, thuộc trường phái lý thuyết tương tác biểu trưng của trường Đại học Tổng hợp Chicago), là người đầu tiên đưa thuật ngữ Vai trò xã hội (Social role) vào trong khoa học lần đầu tiên vào năm 1934. Thuật ngữ này bắt nguồn từ việc người diễn viên đóng vai và diễn trò trên sân khấu. Có thể nói vai trò xã hội là khái niệm để chỉ sự mong đợi xã hội đối với hành vi diễn xuất của một cá nhân trong một tình huống xã hội cụ thể và trong một khung cảnh xã hội nhất định.
          - Theo Ralph Linton (1936), coi vai trò là những lối ứng xử đã được qui định sẵn và áp đặt, tương ứng với những vị trí cụ thể nhất định.[39]
          - Theo Jean Stoetzel, “Vai trò như là tập hợp ứng xử của mỗi cá nhân mà mọi người khác chờ đợi”.[40]
          - Theo I. Robertsons, vai trò là tập hợp các chuẩn mực, hành vi, nghĩa vụ và quyền lợi gắn với một vị thế nhất định.[41]
          - Theo J.H. Fischer, sự phối hợp và tương tác qua lại của các khuôn mẫu được tập trung thành một nhiệm vụ xã hội gọi là vai trò. Nói một cách khác, vai trò là những hành động, hành vi ứng xử, những khuôn mẫu tác tác phong mà xã hội chờ đợi, đòi hỏi một người hay một nhóm xã hội nào đó phải thực hiện trên cơ sở vị thế của họ.[42]
          Vai trò xã hội của một người có nghĩa là người đó phải đảm nhận hay thể hiện đầy đủ các hành vi, nghĩa vụ, hệ thống chuẩn mực trên cơ sở vị thế của người đó. Đồng thời họ cũng nhận được những quyền lợi xã hội tương ứng với việc thực hiện vai trò của họ. Như vậy ta thấy rằng, khái niệm vai trò xã hội có sự liên hệ gắn bó chặt chẽ với khái niệm vị thế xã hội, hay có thể nói vị thế nào thì vai trò ấy. Trong suốt cuộc đời của mình các cá nhân chiếm giữ nhiều vị thế khác nhau do đó họ cũng phải diễn nhiều vai trò khác nhau, trong một thời điểm nào đó cá nhân nắm giữ cùng lúc nhiều vị thế thì họ cũng đồng thời phải diễn nhiều vai trò cùng một lúc.
Chúng ta có thể coi mỗi cá nhân hiện hữu trong xã hội chính là hiện hữu qua các vai trò xã hội, và rằng các cá nhân khi thực hiện hành vi giao tiếp với nhau chính là giao tiếp qua các vai trò xã hội và chỉ qua các vai trò xã hội chúng ta mới có thể thực hiện được cái gọi là “quan hệ xã hội”.[43] 
2.2. Những vấn đề cần lưu ý khi nghiên cứu vai trò xã hội
          - Một vai trò xã hội có thể có nhiều mức độ biểu hiện, hay những sắc thái khác nhau về khuôn mẫu tác phong.
          - Vai trò không chỉ bao gồm những khuôn mẫu tác phong biểu hiện ra bên ngoài mà còn bao hàm cả những khuôn mẫu nội dung tinh thần ở bên trong.
          - Nội dung của bất kỳ vai trò xã hội nào cũng luôn được liên hệ với những vai trò xã hội khác.
          - Giới hạn của sự co giãn trong mức độ biểu hiện của vai trò. Mức độ biểu hiện của vai trò có sự co giãn nhất định, nhưng mức độ co giãn chỉ được chấp nhận đến một giới hạn nhất định, vượt khỏi giới hạn đó thì sẽ dẫn đến sai lệch; có nghĩa là người ta sẽ không làm đúng vai trò của mình nữa.
          - Căng thằng và xung đột vai trò. Căng thẳng vai trò xảy ra khi khi cá nhân thấy rằng vai trò không thích hợp và họ khó khăn trong việc thực hiện vai trò đó, nhất là những vai trò được nhiều người mong đợi, kỳ vọng quá nhiều. Xung đột vai trò xảy ra khi cá nhân cùng lúc chiếm giữ hai hay nhiều vị thế, vai trò và khi cá nhân tham gia nhiều nhóm xã hội khác nhau, họ phải đáp ứng những mong đợi của những nhóm xã hội khác nhau, nhiều khi những mong đợi đó xung đột với nhau về lợi ích.
          - Vai trò và nhân cách. Theo J.H. Fischer, trên phương diện xã hội học, nhân cách xã hội là toàn bộ những vai trò của cá nhân, nhân cách xã hội chính là hệ thống toàn vẹn của những vai trò làm trung gian trong những nhóm, những đoàn thể, những tổ chức xã hội mà cá nhân thực hiện những vai trò của mình.
          - Một người không chỉ có một vai trò mà có nhiều vai trò. Một người nào đó tham gia vào bao nhiêu đoàn thể xã hội thì có bấy nhiêu vai trò. Mức độ nhiều hay ít các vai trò phụ thuộc vào mức độ tham gia nhiều hay ít của một người nào đó vào các đoàn thể, tổ chức xã hội.
          - Nghiên cứu vai trò cũng cần phân biệt giữa những vai trò chung trừu tượng với vai trò cụ thể.
2.3. Những kỳ vọng nơi vai trò và sự cưỡng chế của xã hội[44]
          Khi đảm nhận một vai trò nào đó, người ta luôn chú ý đáp ứng lại những điều mà người khác kỳ vọng hay mong đợi nơi mình. Quá trình xã hội hóa  chính là quá trình mà mỗi cá nhân học cách đóng các vai trò của mình trong xã hội, để gia nhập vào xã hội.
          Trong cuộc sống, do những vai trò đều có những kỳ vọng riêng mà xã hội đòi hỏi, nên mỗi khi phải đảm nhận một vai trò mới, nhân cách của mỗi người cũng có thể thay đổi theo.
          Vấn đề kiểm soát và cưỡng chế của xã hội đối với cá nhân đó là những kỳ vọng và đòi hỏi của xã hội nơi mỗi vai trò có phải là những điều hoàn toàn áp đặt đối với mỗi cá nhân chúng ta hay không? Người ta thường phân biệt ba loại kỳ vọng mà xã hội và các nhóm xã hội thường có để thúc đẩy cá nhân tuân thủ các qui tắc xã hội. Đó là:
          - Kỳ vọng tất yếu (attentes nécessaire), là loại kỳ vọng mà xã hội buộc cá nhân phải tuân thủ bằng mọi giá. Thường gắn với luật pháp.
          - Kỳ vọng mang tính chất nghĩa vụ (attentes obligatoires), trong nhiều nhóm xã hội, các kỳ vọng đối với thành viên trong nhóm tuy cũng là điều bắt buộc, nhưng không mang tính chất cưỡng bức và không dẫn tới những biện pháp gắt gao như trong trường hợp trên.
          - Kỳ vọng không cưỡng chế (attentes facultatives), trong một số nhóm xã hội, khi một thành viên đi ngược lại kỳ vọng của nhóm hoặc vi phạm nội quy của nhóm, người này sẽ không bị đe dọa hứng chịu biện pháp cương bức cụ thể nào. Nhóm chỉ áp dụng những áp lực tinh thần để tác động vào các thành viên.
          Bên cạnh những biện pháp chế tài mang tính chất trừng phạt như nói trên xã hội còn có những biện pháp chế tài tích cực: khen ngợi và thưởng. Đối với những kỳ vọng bắt buộc, thì khi làm đúng theo kỳ vọng này, cá nhân làm tròn nhiệm vụ của mình. Nhưng còn đối với những kỳ vọng không bắt buộc, thì thường kèm theo những hình thức khen thưởng tích cực.
          Áp lực xã hội thực ra được thực hiện chủ yếu thông qua những biện pháp tích cực hơn là tiêu cực. Những biện pháp về mặt hành chính hay pháp lý thường chỉ được áp dụng nhằm đạt được một trật tự xã hội tối thiểu nào đó; trong khi đó, toàn bộ xã hội muốn vận hành tốt đòi hỏi nhiều biện pháp mang tính chất tích cực hơn.
2.4. Các loại vai trò xã hội
          Tùy theo những dấu hiệu phân tích khác nhau mà có những vai trò khác nhau. Trong nghiên cứu người ta thường phân ra các loại vai trò sau:
          - Vai trò chế định, đây là loại vai trò mà khi cá nhân thực hiện nó buộc phải tuân theo những diễn xuất theo những cách thức nhất định do một tổ chức chính thức nào đó quy định và kèm theo đó là những biện pháp, chế tài. Các cá nhân phải hành động theo những khuôn mẫu đã được vạch sẵn. Để đóng được các vai trò chế định cá nhân thường phải trãi qua những khóa học tập, huấn luyện để có được những kiến thức và kỹ năng cần thiết mà vai trò đó đòi hỏi.
          - Vai trò thường nhật, đây là loại vai trò mà chúng ta thường xuyên đóng và liên tục thay đổi chúng trong đời sống thường ngày. Đối với loại vai trò này cá nhân không cần phải trãi  qua học tập, tập huấn mà chỉ cần bắt chước, học hỏi một cách đơn giản là có thể đóng được. Vai trò thường nhật là loại vai trò chiếm đại đa số trong tổng số vai trò mà chúng ta đóng trong suốt cuộc đời.
          - Vai trò kỳ vọng, là loại vai trò khi mà cá nhân đóng nó sẽ nhận được rất nhiều sự mong đợi, niềm tin và hy vọng từ rất nhiều cá nhân, nhóm xã hội khác gửi gắm vào vai trò đó và cá nhân có trách nhiệm đáp lại sự mong mỏi đó. Có những vai trò mà khi cá nhân đóng nhận được sự mong đợi của cả một cộng đồng, một quốc gia, một dân tộc.
          - Vai trò gán, là loại vai trò mà các cá nhân có được do một tổ chức xã hội chính thức hay một nhóm người nào đó gán cho qua kết quả của một lựa chọn, bình xét hay tôn vinh.
          - Vai trò chỉ định, là loại vai trò gán cho một người nào đó từ bên ngoài mang tính chất tự nhiên “tự động” mà người đó dù muốn hay không muốn cũng không thể tự mình lựa chọn được.
          - Vai trò tự chọn, là loại vai trò mà cá nhân có thể lựa chọn theo ý muốn để đi đến quyết định là đóng hay không đóng.
          - Vai trò cao: tổng thống, bộ trưởng….
          - Vai trò thấp: gác cổng, lao công….
          - Vai trò phức tạp và vai trò ít phức tạp
          - Vai trò then chốt và vai trò không then chốt
          - Vai trò tổng quát, đó là sự phối hợp của các vai trò khác nhau trong một con người tạo ra bộ mặt chung – đặc trưng cho người đó, hay có thể gọi nó là nhân cách của cá nhân đó.
          Theo T. Parsons, thì có 5 dạng biểu hiện của vai trò, đó là:[45]
          + Một số vai trò đòi hỏi sự kiềm chế tình cảm khi thực hiện, trong khi một số khác thì không.
          + Một số vai trò dựa trên vị thế, vị trí đã có sẵn.
          + Một số vai trò định hẹp còn một số khác lại được xác định rộng.
          + Một số vai trò đòi hỏi các cá nhân có thái độ ứng xử với mọi người theo quy tắc chung. Ngược lại một số vai trò khác đòi hỏi phải đối xử với người khác theo cách đặc thù vì những mối quan hệ xã hội đặc biệt với họ.
          + Các vai trò xã hội khác nhau thì có động cơ xã hội khác nhau.
2.5. Sự khác biệt giữa vị thế và vai trò
          Giữa vị thế xã hội và vai trò xã hội có sự khác nhau tương đối. Nếu vị trí xã hội (ở đây xét theo khía cạnh địa vị xã hội) thường mang tính ổn định khá cao trong một thời gian dài, thường được một tổ chức xã hội nào đó thừa nhận, thì vai trò xã hội lại không ổn định mà luôn luôn có sự thay đổi tùy theo từng tình huống xã hội và khung cảnh xã hội. Nếu địa vị xã hội trả lời cho câu hỏi: anh là ai?, thì vai trò xã hội trả lời cho câu hỏi: anh cần diễn xuất như thế nào? Cần phải làm gì? trong tình huống đó, khung cảnh đó. Địa vị xã hội có thể xem như một cái trục định vị cá nhân thì vai trò xã hội có thể được xem như những biểu hiện đa dạng, phong phú quanh nó. Trong một số thời điểm địa vị và vai trò chồng lên nhau, nhưng số đó không nhiều lắm, bởi vì địa vị xã hội hữu hạn hơn nhiều so với vai trò xã hội.[46]
2.6. Mối quan hệ giữa vị thế và vai trò[47]
          Vị thế và vai trò luôn gắn bó mật thiết với nhau. Không thể nói tới vị thế mà không nói tới vai trò và ngược lại. Vai trò và vị thế là hai mặt của một vấn đề.
          Vai trò phụ thuộc vào vị thế (vị thế nào vai trò ấy). Theo lý thuyết Nho giáo của Khổng Tử, mối quan hệ giữa vị thế và vai trò chính là vấn đề “chính danh định phận”, có nghĩa là con người luôn phải vận động, ứng xử theo cái danh, cái phận tức là vị trí xã hội của họ. “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” – Vua phải hành động ra vua, bề tôi phải hành động ra bề tôi, cha ra cha, con ra con, vợ ra vợ, chồng ra chồng.
          Trong xã hội hiện đại ngày nay, chúng ta có thể chỉ ra vô số những ví dụ minh chứng cho mối quan hệ này.
          Một vị thế có thể có nhiều vai trò. Ví dụ: giáo sư đại học là một vị thế, nhưng có thể thực hiện nhiều vai trò khác nữa.
          Trong mối quan hệ giữa vị thế và vai trò thì vị thế thường ổn định hơn, ít biến đổi hơn, còn vai trò thì động hơn hay biến đổi hơn.
          Sự biến đổi của vai trò phụ thuộc vào sự biến đổi của vị thế, vị thế biến đổi thì vai trò cũng biến đổi… Sự biến đổi của vai trò phụ thuộc vào sự biến đổi của vị thế qua mỗi giai đoạn cụ thể của từng cá nhân cũng như nhóm xã hội.
          Vai trò và vị thế thường thống nhất với nhau, song đôi khi cũng gặp phải những mâu thuẫn, gây ra tình trang xung đột giữa vị thế và vai trò.
II. Xã hội hóa cá nhân
Xã hội hóa là một trong nhưng khái niệm cơ bản của xã hội học. Trong lý thuyết đồng cảm, các nhà xã hội học đã sử dụng khái niệm này cùng với khái niệm văn hoá để giải thích đời sống xã hội. Nhờ quá trình xã hội hoá, chúng ta có khả năng giao tiếp với nhau, nắm vững các vai trò xã hội nhất định của mình và thậm chí xã hội tạo điều kiện cho sự duy trì bản thân xã hội.
Vậy xã hội hoá là gì? Bằng cách nào xã hội hoá mang lại cho chúng ta khả năng hành động qua lại và bảo đảm sự giữ gìn, duy trì xã hội trong quá trình thay thế các thế hệ. Có những điều kiện gì để tồn tại xã hội hoá và ảnh hưởng của xã hội hoá tới cấp độ vi mô và vĩ mô của xã hội như thế nào?
1. Một số quan niệm về “con người xã hội”
a) Quan niệm khác nhau về con người xã hội
Trong lịch sử tư tưởng, có rất nhiều cách tiếp cận về vấn đề con người:
- Theo quan niệm duy tâm, con người được giải thích từ sáng tạo và chi phối của thánh thần và từ ý thức trừu tượng. Việc giải thích con người theo quan điểm này không đem lại ý nghĩa tích cực trong cuộc sống.
- Theo quan niệm duy vật, từ thời Arixtốt đến các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII đều cho rằng, con người là một sinh vật – xã hội, “sinh ra đã có tính xã hội”. Quan điểm này cho rằng, bản chất con người chỉ ở mặt tự nhiên của nó. Ngay cả Phơbách cũng chỉ mới dừng lại ở chủ nghĩa nhân bản tự nhiên, bởi vì theo nhận thức của ông, con người chỉ là một cá nhân trừu tượng, một sinh vật thuần tuý về sinh học.
- Theo quan điểm mácxít, xuất phát từ hoạt động thực tiễn của con người, C.Mác cho rằng, bản chất con người chính là nhân cách. Nhân cách ấy tìm thấy bản chất trong các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Mác vẫn thừa nhận tính sinh vật trong chỉnh thể người.
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học:
+ Là một đơn vị sinh lý, con người là đối tượng được nghiên cứu của các nhà sinh học và y học…
+ Những giá trị trong cuộc sống tình thần của con người được nghiên cứu trong đạo đức học, triết học, luật học…
+ Là đơn vị tâm lý có những nhu cầu và trạng thái tâm lý phức tạp, con người là đơi tượng tìm hiểu của các nhà tâm lý học, phân tâm học, thần kinh học…
Xuất phát từ những lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, các nhà khoa học có những quan điểm khác nhau về bản chất con người. Hiện nay có ba loại quan điểm khác nhau về vai trò của yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người.
b) Quan niệm của các nhà xã hội học về con người xã hội.
Do nghiên cứu từ nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội, các nhà xã hội học cũng có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất con người.
- Quan niệm của các nhà xã hội học theo thuyết sinh hoá:
Quan niệm này cho rằng, yếu tố sinh học quyết định sự hình thành hành vi, tích cách của con người. Tính di truyền ảnh hưởng lớn tới hành vi của con người. Họ tin ở sự tồn tại của cái gọi là bản năng con người. Họ cho rằng, sự tổng hoà của những tố chất di truyền hay những khuynh hướng di truyền xác định hành vi của con người cụ thể. Phrớt đại diện cho quan điểm này cho rằng, con người như là cá thể sinh vật đối lập với xã hội và xem sức mạnh của con người là sức mạnh khả năng vô thức, trong đó, đam mê tình dục giữ vai trò chủ đạo. Quan điểm này không thấy được khả năng của con người sử dụng những biểu tượng và lập luận lôgíc, thích nghi cao để nắm được những kiểu hành vi nhất định, tạo nên thể chế xã hội, điều hoà việc sử dụng hoặc vượt qua những nhân tố sinh học.
- Quan niệm của các nhà xã hội học theo thuyết quyết định luận xã hội học:
Quan niệm này cho rằng, nhân cách được hình thành trên cơ sở đa số những sự tác động của con người với thế giới xung quanh. Nó là sản phẩm của xã hội và được hình thành trên cơ sở của mối quan hệ qua lại giữa con người với con người. Đại biểu cho quan niệm này là C. H. Cooley ; G. Mead…
- Bên cạnh quan niệm sinh học hoá cũng như quyết định luận xã hội, nhiều nhà xã hội học đã nhìn nhận con người như một chỉnh thể trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó. Theo Tsunesaburo Makiguchi: “khái niệm người không chỉ bao hàm một thực thể vật chất, cảm quan, hữu hình mà còn bao gồm một khía cạnh tâm linh khác với thể chất, nhưng lại tồn tại trên cơ sở thể chất ấy”.
Theo Giôhan Gôtlíp Phíchtơ: “Con người khác với loài vật ở chỗ, có khả năng suy tư trừu tượng, có thể quyết định và lựa chọn. Con người là con vật tự điều khiển lấy mình. Con người có thể làm các dự án, trù liệu, tính toán cho tương lai, suy nghĩ về những hoạt động và những phản ứng của mình, chịu chách nhiệm về hành vi của mình và có khả năng phát triển ý thức trách nhiệm với người khác”.
+Nếu trong định nghĩa của Makiguchi, tác giả lấy chỉnh thể sinh học – xã hội làm điểm xuất phát cho khái niệm con người thì trong định nghĩa của Phíchtơ, điểm xuất phát lại nặng về những gì con người khác với động vật, vượt lên động vật.
+ Con người xuất hiện chỉ có thể trên cơ sở những quy luật tiến hoá hữu cơ và đồng thời với những quy luật xã hội, vận động sinh học gắn liền với vận động xã hội trong chỉnh thể người. Đối với quá trình phát sinh, phát triển và hoàn thiện ở một cá thể thì những yếu tố sinh học và yếu tố xã hội tác động không giống nhau ở từng thời kỳ trưởng thành. “Yếu tố sinh học và yếu tố xã hội không phải là song song tồn tại trong con người mà làm môi giới cho nhau, thâm nhập vào nhau và in dấu lên toàn bộ hoạt động sống của con người”.
Tuy nhiên khi nghiên cứu con người, nhà xã hội học mặc dù thừa nhận mặt sinh học của con người nhưng cái chính vẫn tập chung tìm hiểu khía cạnh mang tính xã hội của con người. Song khác với các nhà khoa học khác, các nhà xã hội học xem xét con người trong mối tương tác giữa con người với con người, giữa con người với nhóm xã hội và xã hội nói chung. Chính vì vậy mà Phíchtơ cho rằng, “Con người được gọi là con người xã hội theo nghĩa một con người vừa có khuynh hướng kết hợp với người khác mà cũng có nhu cầu tương quan với người khác”. Có nghĩa là, nhà xã hội học đã xem xét cách thức con người liên lạc với đồng loại của nó như thế nào.
2. Khái niệm xã hội hoá
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau của các nhà xãhội học khi bàn về xã hội hoá:
- Xã hội hoá bao gồm tất cả quá trình tiếp diễn văn hoá giao tiếp, học hỏi, qua đó cá nhân con người phát triển bản chất xã hội và có khả năng tham gia vào đời sống xã hội.
- Xã hội hoá là quá trình trong đó cá nhân con người học hỏi và nhập tâm suốt đời vào các yếu tố của môi trường văn hoá, xã hội, hoà nhập chúng vào cấu trúc nhân cách của anh ta dưới ảnh hưởng của các tác nhân xã hội quan trọng và những kinh nghiệm cá nhân. Do đó làm anh ta thích nghi với môi trường xã hội, nơi anh ta sinh sống.
- Xã hội hoá là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội, trong đó những cá nhân học hỏi và thực hành những tri thức, kỹ năng và phương pháp cần thiết để hội nhập với xã hội.
- Xã hội hoá là quá trình theo đó con người học cách thích ứng với xã hội và tuân thủ các quy tắc xã hội. Quá trình này cho phép xã hội luân chuyển nền văn hoá của mình từ thế hệ này sang thế hệ khác.
- Xã hội hoá là quá trình mà qua đó cá nhân học hỏi được cách sống và phát triển khả năng đóng các vai trò xã hội vừa với tư cách là một cá thể vừa với tư cách là thành viên của nhóm.
- Xã hội hoá tức là những con đường mà bằng cách đó con người có được những kinh nghiệm và hiểu biết, nắm vững những mục đích phù hợp với những vai trò xã hội của mỗi con người. Có hai mục đích: tạo ra những mối liên hệ xã hội của chúng ta trên cơ sở những vai trò xã hội và đảm bảo sự tồn tại xã hội nhờ sự lĩnh hội những quan niệm và mâu thuẫn hành vi bởi những thành viên mới của xã hội.
Tất cả những định nghĩa trên đều có điểm chung như sau:
Xã hội hoá trước hết là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội, qua đó cá nhân học hỏi, lĩnh hội, tiếp nhận nền văn hoá của xã hội như khuôn mẫu tác phong xã hội, chuẩn mực giá trị văn hoá xã hội để hoà nhập vào xã hội cũng như đáp ứng các kỳ vọng của xã hội
Trong thực tế, xã hội hoá là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội. Nhưng khi nói đến xã hội hoá người ta nhấn mạnh quá trình con người tự học hỏi, thực hành một cách tích cực những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của xã hội để từ đó hội nhập với xã hội và giữ đúng vai trò nhất định của cá nhân do xã hội phân công.
3. Một số nội dung nghiên cứu cơ bản về xã hội hoá
3.1. Các học thuyết khác nhau về xã hội hoá trong quá trình phát triển nhân cách
Để biết xã hội hoá diễn ra như thế nào trong mức độ cá thể, chúng ta bắt đầu từ câu hỏi: nhân cách phát triển như thế nào? Nhân cách được phát triển, hình thành trong quá trình tương tác xã hội giữa con người với nhau. Trong thế kỷ trước, các nhà tâm lý học, xã hội học đưa ra hàng loạt những cách giải thích khác nhau về sự hình thành nhân cách, trên cơ sở tác động qua lại của những nhân tố khác nhau như tính chất lý tính, môi trường xung quanh, kinh nghiệm cá nhân và văn hoá.
a) Học thuyết phát triển nhân cách
Sự tác động của những nhân tố môi trường xung quanh v.v.. tạo nên nhân cách. Cooley cho rằng, nhân cách được hình thành nhờ “Cái tôi lăng kính” do chúng ta hiểu được tình cảm của những người xung quanh. Họ đặt ra ra vấn đề là làm thế nào để mỗi cá nhân phát hiện ra “cái tôi” của mình. Quá trình này chỉ thực hiện được thông qua sự tương tác. Họ đề ra lý thuyết “ Soi gương tự phản thân”
Theo quan điểm Mead, quá trình hình thành nhân cách bao gồm ba giai đoạn khác nhau: sự bắt trước những mẫu hành vi của người lớn, giai đoạn trò chơi khi trẻ em tiếp nhận hành vi của mọi người như là thực hiện đóng vai trò và trò chơi tập thể khi trẻ em hiểu được sự mong chờ của toàn thề nhóm người đối với chúng.
b) Học thuyết phân tích tâm lý
Theo học thuyết phát triển nhân cách của S. Freud, nhân cách bao gồm ba yếu tố: “Id” - nguồn gốc của năng lượng được nuôi dưỡng bằng sự cố gắng thoả mãn, “Ego” - sự thực hiện kiểm tra hành vi cá nhân trên cơ sở của “ nguyên tắc thực tiễn” và “Super-ego”- thực hiện chức năng đạo đức và đánh giá. Sự hình thành ba yếu tố nhân cách này đưa ra giả thiết có sự xuất hiện liên tục của bốn giai đoạn, trong đó mỗi giai đoạn gắn liền với với từng bộ phận nhất định của cơ thể, được gọi là vùng cảm giác.
c) Học thuyết phát triển nhận thức
Theo học thuyết phát triển tư duy của Pít, trẻ em trải qua hàng loạt những giai đoạn liên tục, trong quá trình đó chúng lĩnh hội được những thói quen mới xác định giới hạn khả năng nhận thức của chúng. Những giai đoạn này trao đổi cho nhau trong một sự liên tục triệt để.
d) Học thuyết phát triển đạo đức
Kôlơbéc đưa học thuyết về sự phát triển nhân cách vào những quá trình của sự hoàn thiện đạo đức được tạo thành từ sáu giai đoạn. Ở những giai đoạn sớm hơn, trẻ em cố gắng thoát khỏi sự trừng phạt hoặc nhận phần thưởng. Ở giai đoạn giữa, mọi người hiểu được những ý kiến của người khác về họ, sự mong đợi của xã hội và những quy tắc hành vi trong đó họ được khẳng định. Ở giai đoạn cuối, diễn ra sự hình thành những nguyên tắc đạo đức về nhân cách, không phụ thuộc vào những giá trị được thừa nhận.
3.2. Quá trình xã hội hoá và các dạng thức xã hội hoá
a) Xã hội hoá như là diễn tiến xã hội liên tục
Theo Joseph H. Fischer, Xã hội hoá mô tả theo hai quan niệm:
- Quan niệm khách quan: xã hội ảnh hưởng tới cá nhân.
- Quan niệm chủ quan: cá nhân đáp ứng lại xã hội.
Theo quan niệm thứ nhất, xã hội hoá là diễn tiến theo đó xã hội truyền văn hoá của mình từ thế hệ này qua thế hệ tiếp theo và làm cho cá nhân thích ứng với những nếp sống sinh hoạt được chấp nhận và được tán thành trong một đời sống có tổ chức. Có nghĩa là, nhiệm vụ của xã hội hoá là truyền thống và phát triển những kỹ năng, kiến thức mà cá nhân cần tới, truyền đạt những hệ thống giá trị văn hoá xã hội và trang bị cho cá nhân vai trò nhất định bảo đảm cho sự duy trì xã hội và văn hoá.
Theo quan niệm thứ hai, xã hội hoá là một quá trình cá nhân đang thích ứng với những người xung quanh, liên tục thực hiện để dần dần nhập vào xã hội trong một nền văn hoá và xã hội nhất định. Có nghĩa đó là quá trình con người học hỏi khi tiếp xúc với xã hội trong mối tương quan xã hội.
Từ các quan niệm trên, chúng ta thấy xã hội hoá là sự thống nhất đối lập giữa hai khuynh hướng:
- Tiêu chuẩn hoá, được thể hiện trong sự cố gắng của cá nhân muốn giống như những người khác, để thể hiện trong sự nắm vững những phương pháp giao tiếp chung và hoạt động chung.
- Cá thể hoá, được thể hiện trong sự cố gắng để hình thành “cái tôi của mình”, để triển khai những phương pháp độc đáo của sự giao tiếp và hoạt động.
Vậy xã hội hoá diễn ra như thế nào?
Xã hội hoá thành công được xác định bởi ba yếu tố: sự chờ đợi, sự thay đổi hành vi, sự cố gắng đến khuôn phép:
- Sự chờ đợi thể hiện ở chỗ những người trong nhóm gia đình, bạn bè, nhà trường… mong đợi ở cá nhân có phương thức ứng sử phù hợp với những mô hình, tác phong của họ. Đồng thời, trong quá trình tương tác xã hội, cá nhân cũng mong muốn học hỏi những mô hình tác phong trong đó nó cho là phù hợp với vai trò của nó.
Như vậy, trong quá trình tương tác xã hội, các cá nhân dần dần thay đổi hành vi của mình sao cho phù hợp với chính vai trò của mình.
Xã hội như là lực lượng mạnh mẽ và hùng hậu. Các cá nhân cố gằng vươn tới sự khuôn phép, loại trừ bớt đi những hành vi ứng xử không phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Điều này được giải thích bởi hai nguyên nhân:
- Khả năng sinh học hạn chế của con người.
- Những hạn chế do nền văn hoá.
Theo bản chất của mình, xã hội hoá là quá trình tác động nhiều hướng khác nhau mang tính hai mặt, phản ánh sự tác động qua lại giữa nhân tố sinh học và văn hóa, giữa những ai thực hiện xã hội hoá và những ai bị xã hội hoá.
b) Các dạng thức xã hội hoá
- Xã hội hoá trẻ em
Theo Joseph H.Fichter, hai diễn tiến quan trọng nhất của học hỏi xã hội là sự bắt chước và sự ganh đua. Sự bắt chước không chỉ là hành vi của trẻ em mà còn thể hiện ở người lớn. Sự ganh đua là một diễn tiến kích thích trong quá trình tương tác xã hội cho thấy con người có khuynh hướng học hỏi theo khuôn mâu tác phong đã được xã hội chấp nhận và loại bỏ cái không được chấp nhận.
- Xã hội hoá người lớn
Gold.R.L cho rằng, xã hội hoá người lớn gắn liền với sự từ chối dần dần những quan niệm ấu trĩ trẻ thơ.
Sau này, các nhà xã hội học bắt đầu nghiên cứu xã hội hoá người già. Nhưng một số người lại cho là, những người già không có những vai trò nhất định một cách rõ ràng. Chẳng hạn ở Mỹ, Rozốp không công nhận xã hội hoá người già ở Mỹ, và coi đó là không có hiệu quả.
- Những đặc điểm khác nhau của xã hội hoá người lớn và trẻ em
Brim phân biệt xã hội hoá người lớn và trẻ em bằng những đặc điểm sau:
+ Xã hội hoá người lớn – đó là sự thay đổi hành vi bên ngoài, còn trong xã hội hoá trẻ em diễn ra hình thành định hướng giá trị.
+ Những người lớn có khả năng đánh giá những chuẩn mực, còn trẻ em có thể lĩnh hội được chúng.
+ Xã hội hoá người lớn có mục đích của mình là giúp cho con người lĩnh hội được những thói quen nhất định, xã hội hoá trẻ em ở mức độ động chạm đến môi trường lý do hoá.
Như vậy, xã hội hoá chính là quá trình con người học cách thể hiện vai trò xã hội của mình trong quá trình gia nhập vào xã hội. Quá trình xã hội hoá phải xử lý mối tương tác giữa yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan của con người và xã hội. Qúa trình xã hội hóa là qúa trình bản thân cá nhân tác động vào xã hội diễn ra trên lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, nhu cầu của cá nhân và nhu cầu xã hội. Qúa trình xã hội hoá luôn luôn nảy sinh sự thống nhất và xung đột giữa cá nhân và xã hội. Quá trình xử lý nó là quá trình đào tạo ra con người. Quá trình xã hội hoá diễn ra từ thấp đến cao qua các giai đoạn nhất định từ giai đoạn đâu khi đứa trẻ bước vào đời cho đến khi con người ra đi giai đoạn cuối. Qúa trình đó là qúa trình con người học cách thích ứng với xã hội, tuân thủ các nguyên tắc, phong tục tập quán, là quá trình luân chuyển nền văn hoá từ thế hệ này đến thế hệ khác để giữ gìn xã hội và văn hoá.
3.3. Những yếu tố tác động đến xã hội hoá
a) Môi trường cơ bản của xã hội hoá.
Gia đình là môi trường xã hội hoá có tầm quan trọng chính yếu, bởi vì quá trình xã hội hoá của một người từ những năm tháng đầu tiên của cuộc đời có ảnh hưởng quyết định tới những thái độ và hành vi khi đã lớn. Cho nên gia đình được coi là nhóm người đầu tiên mà mỗi cá nhân xã hội phải phụ thuộc vào. Gia đình là khuôn khổ cần thiết cho sự phát triển của đứa trẻ, làm cho sự trưởng thành sinh học và những mối liên hệ của nó phù hợp với môi trường xã hội. Đó là giai đoạn xã hội hoá tự nhiên đầu tiên. Xã hội hoá thông qua tình cảm và bằng tình cảm là đặc trưng riêng của gia đình. Ở những đứa trẻ sơ sinh, những mối quan hệ với người lớn – những người quan tâm đến chúng, được thiết lập một cách chặt chẽ hơn. Đó là cha mẹ, anh chị em, những người thân và bạn bè của gia đình. Những người này là những đại diện cơ bản của xã hội hoá trong cuộc sống đứa trẻ. Mục đích của xã hội hoá trong giai đoạn này là sự hình thành ở đứa trẻ lý do hoá trong mối ràng buộc với những người khác, thể hiện ở lòng tin, sự vâng lời và mong muốn làm họ vui lòng.
Nhà trường là cơ quan, môi trường xã hội hoá chính yếu đối với tuổi trẻ. Đây là thiết chế được lập ra một cách có chủ định để phổ biến những kỹ năng và kiến thức môn học mà còn tiếp thu cả những quy tắc và cách thức quy định hành vi, cả cách ứng xử quan hệ với giáo viên và các bạn học.
Quá trình xã hội hoá mà học sinh tiếp thu ở trường do vậy không chỉ liên quan đến việc tiếp thu những kỹ năng quy định mà còn cả những kỹ năng xã hội khác. Thí dụ, ở đó trẻ học được cách sống của nhóm bạn và làm sao đáp ứng được những người có uy quyền.
Hiện nay đang có sự bất cập giữa những yêu cầu xã hội và nội dung giáo dục của trường học. Thông thường, trường học chủ yếu chỉ truyền thụ những tri thức khoa học hơn là truyền thụ những kỹ năng lao động cho trẻ; và những tri thức và kỹ năng của trẻ nhận được ở trường học có khi không ăn khớp với yêu cầu cuộc sống độc lập sau này của chúng. Xã hội hoá đặc biệt chú trọng đến vai trò của sự giao tiếp giữa thầy và trò ở trường vì đó là cơ sở của những trao đổi làm phong phú tri thức và nhân cách của đứa trẻ, trong đó người thầy giáo giữ vị trí chủ đạo không phải như một quyền uy độc đoán mà như một người hướng dẫn các giá trị xã hội.
Các phương tiện thông tin đại chúng. Trong xã hội hiện đại, ở một mức độ nhất định, trẻ em lĩnh hội được vai trò và những quy định hành vi trong xã hội từ những chương trình truyền hình, báo chí, phim ảnh và những phương tiện thông tin đại chúng khác. Tác dụng đển hình thể hiện trong những phương tiện thông tin đại chúng là sự tác động sâu sắc tới quá trình xã hội, tạo điều kiện cho sự hình thành những giá trị nhất định và hình mẫu nhất định của hành vi.
Tuy nhiên, truyền hình cũng có thể gợi nên những kết quả tiêu cực đến quá trình xã hội hóa. Một số chương trình tác động tai hại đến thế hệ trẻ, kích động những hành vi không được kiềm chế của trẻ em, lôi kéo trẻ em bỏ những giờ học bổ ích.
b) Sự khác nhau về giai cấp, chủng tộc, dân tộc và văn hoá tác động đến quá trình xã hội hoá.
Công trình nghiên cứu văn hoá những gia đình ở Mỹ và Italia do Mellen Kon tiến hành năm 1969 đã chỉ ra rằng, sự khác nhau về giai cấp có ảnh hưởng quan trọng đến quá trình xã hội hoá. Những cha mẹ ở tầng lớp trung lưu khích lệ sáng kiến và sự tự do tư duy của con cái mình. Trong lúc đó, những đứa trẻ của những công nhân được giáo dục trong sự khuôn phép. Trong những gia đình theo Đạo thiên chúa, người mẹ đánh giá tính khuôn phép cao hơn so với gia đình theo Đạo tin lành. Khuôn phép của những người bố da đen ảnh hưởng đến con cái mình nhiều hơn so với những ông bố da trắng.



























CHƯƠNG 6. PHÂN TẦNG XÃ HỘI
VÀ DI ĐỘNG XÃ HỘI

I. Bất bình đẳng xã hội
I.1. Khái niệm bất bình đẳng
- Bất bình đẳng là một vấn đề trung tâm của xã hội học, nó là cơ sở tạo nên sự phân tầng xã hội. Bất bình đẳng không phải là hiện tượng tồn tại một cách ngẫu nhiên giữa các cá nhân mà nó xuất hiện khi có một nhóm xã hội kiểm soát và khai thác các nhóm xã hội khác.
- Con người trong xã hội mang nhiều đặc điểm khác nhau về giới tính, tuổi tác, chủng tộc, tôn giáo, tài sản và uy tín xã hội, quyền hành… chúng ta gọi những sự khác biệt này là bất bình đẳng xã hội. Ở đây bất bình đẳng xã hội chưa mang một phê phán giá trị tốt hay xấu.
Nhà xã hội học nổi tiếng người Pháp Pierre Bourdieu quan niệm rằng trong cuộc chơi của chúng ta trong xã hội, chúng ta đã thừa hưởng và mang theo bên mình ba loại vốn (cappitaux) – trong nghĩa đen cũng như nghĩa bóng: vốn liếng kinh tế, vốn liếng xã hội và vốn liếng văn hóa. Chính những khác biệt về vốn liếng đã đặt mỗi cá nhân vào những vị trí khác nhau trong các tầng lớp xã hội khác nhau. Và đây là những cơ sở đầu tiên đặt nền móng cho sự bất bình đẳng xã hội và phân tầng xã hội.
Các nhà xã hội học đã cố gắng khám phá nguồn gốc những bất bình đẳng trong cơ cấu và trong văn hóa của chính các xã hội này. Họ thấy rằng những khác biệt bẩm sinh giữa những cá nhân, và sự phát triển của từng cá nhân cũng đào sâu những khác biệt này, nhưng mặt khác các nhà xã hội học cũng quan niệm nền văn hóa và cơ cấu xã hội có thể cũng cố và duy trì những khác biệt, những bất bình đảng của cá nhân đó. Hơn thế nữa, mỗi xã hội có những phương cách khác nhau trong việc sở hữu các tư liệu sản xuất và các tư liệu này đế lượt chúng chi phối quá trình tái sản xuất và đào tạo các thế hệ kế tiếp. Do đó, nhà xã hội học cần nghiên cứu xem những sự khác biệt trên hình thành nên những mô thức bất bình đẳng khác nhau như thế nào trong các xã hội cụ thể.
Nhưng sự bất bình đẳng chỉ trở thành phân tầng xã hội khi các cá nhân được sắp xếp theo các vị trí cao thấp theo những thuộc tính của mình như lợi tức, của cải, quyền hành uy tín, tuổi tác, dân tộc… Như vậy, khái niệm phân tầng xã hội ám chỉ những phương thức mà xã hội sắp xếp các thành viên của mình trên cơ sỡ sự giàu có, quyền lực hay uy tín xã hội.
- Khái niệm bất bình đẳng: bất bình đẳng là sự không ngang bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích đối với những cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhóm.
     - Bất bình đẳng xã hội gồm 2 loại:
·        Bất bình đẳng mang tính tự nhiên: đó là sự khác biệt giữa các cá nhân về các đặc điểm sẵn có như: giới, tuổi, chủng tộc, trí lực, phẩm chất sẵn có…
·        Bất bình đẳng mang tính xã hội: Đó là sự phân công xã hội dẫn đến cá nhân có sự phân tầng, từ đó tạo ra  lợi ích khác nhau giữa các cá nhân.
-  Nhìn trên quan điểm của các nhà xã hội học nghiên cứu về cơ cấu xã hội thì:
+ Bất bình đẳng được xem như là điều kiện để tổ chức xã hội.
+ Bất bình đẳng là cơ sở cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
+ Bất bình đẳng đảm bảo cho đời sống và phát triển xã hội.
1.2.  Cơ sở tạo nên sự bất bình đẳng
          - Bất bình đẳng thường xuyên tồn tại với những nguyên nhân và kết quả cụ thể liên quan đến giai cấp xã hội, giới tính, chủng tộc, tôn giáo, lãnh thổ..
          - Tất cả các nguyên nhân đa dạng của bất bình đẳng được quy về 3 dạng: những cơ hội trong cuộc sống, địa vị xã hội, ảnh hưởng chính trị.
·        Những cơ hội trong cuộc sống: Gồm tất cả thuận lợi về vật chất có thể cải thiện chất lượng cuộc sống. Thuận lợi vật chất: của cải, thu nhập, tài sản và những điều kiện như lợi ích chăm sóc sức khoẻ, an sinh xã hội… Cơ hội trong cuộc sống là cơ sở khách quan của bất bình đẳng xã hội.
·        Cơ sở địa vị xã hội: Bất bình đẳng về địa vị xã hội là do những thành viên của các nhóm trong xã hội tạo nên và thừa nhận chúng. Cơ sở địa vị ở đây có thể là bất cứ cái gì mà một nhóm xã hội cho là ưu việt và được nhóm xã hội khác thừa nhận.
·         Bất bình đẳng trong ảnh hưởng chính trị: có được do có ưu thế vật chất hoặc địa vị cao. Thực tế, bản thân chức vụ chính trị là cơ sở đạt được địa vị và những cơ hội trong cuộc sống. Như vậy, có thể nói gốc rễ của sự bất bình đẳng nằm trong mối quan hệ kinh tế, địa vị xã hội và quan hệ chính trị.
II. Phân tầng xã hội
2.1. Khái niệm phân tầng xã hội
Phân tầng xã hội là một trong những khái niệm cơ bản của xã hội học. Tuy nhiên, ở nước ta khái niệm này mới chỉ được đề cập và nghiên cứu trong thời gian cách đây không lâu. Để hiểu được khái niệm phân tầng, cần thiết phải hiểu khái niệm Tầng xã hội.
a, Tầng xã hội (Stratum of society)
Tầng xã hội là tổng thể, tập hợp các cá nhân có cùng một hoàn cảnh xã hội, họ giống nhau hay bằng nhau về địa vị kinh tế (tài sản), địa vị chính trị (quyền lực), địa vị xã hội (uy tín), về khả năng thăng tiến cũng như giành được những ân huệ hay vị trí trong xã hội.
b. Phân tầng xã hội (Social stratification)
Phân tầng xã hội là một thuật ngữ của địa chất được các nhà xã hội học mượn để mô tả một hệ thống dọc được tạo bởi các hạng người trong xã hội nhất định được sắp xếp theo một hệ thống thứ bậc dựa trên một loại tiêu chí nào đó. Mỗi tầng như vậy là một hạng gồm có nhiều đơn vị từ khởi đầu cho đến hết và các hạng trong hệ thống có cùng chủng loại.
Khái niệm phân tầng xã hội (social stratification): Phân tầng xã hội là sự bất bình đẳng mang tính cơ cấu của xã hội loài người (trừ xã hội sơ khai). Đó là sự phân chia xã hội thành các tầng xã hội khác nhau về địa vị chính trị, kinh tế và xã hội, cũng như những sự khác nhau về trình độ học vấn, nghề nghiệp, phong cách sinh hoạt, kiểu ăn mặc, nơi cư trú, thị hiếu nghệ thuật, mức độ tiêu dùng…
            - Từ định nghĩa trên chúng ta có thể hiểu phân tầng xã hội theo ba đặc trưng:
·        Thứ nhất: phân tầng xã hội là sự phân hoá các cá nhân thành những tầng lớp, thứ bậc khác nhau trong cơ cấu xã hội (phân chia thành lớp trên, dưới).
·        Thứ hai: phân tầng xã hội luôn gắn với bất bình đẳng xã hội và phân công lao động.
·        Thứ ba: phân tầng xã hội được lưu truyền qua thế hệ và có sự thay đổi nhất định.
Quan niệm của một số nhà xã hội học về phân tầng xã hội
Quan niệm của Max Weber:
Weber là người đầu tiên đề cập đến khái niệm phân tầng. Ông đưa ra nguyên tắc tiếp cận ba chiều đối với vấn đề phân tầng, coi khái niệm phân tầng xã hội bao hàm cả việc phân chia xã hội thành các giai cấp. Ba chiều hay ba khía cạnh là địa vị kinh tế (tài sản), địa vị chính trị (quyền lực), địa vị xã hội (uy tín) cấu thành các tầng lớp xã hội. Theo Weber tài sản, quyền lực và uy tín có thể độc lập với nhau song trong thực tế chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng có thể chuyển hóa cho nhau, củng cố hoặc chi phối lẫn nhau. Người có tài sản có thể dễ dàng sử dụng để đạt được quyền lực, uy tín; ngược lại, người có quyền lực, uy tín lại có thể sử dụng để nhận được những bổng lộc và quyền lợi kinh tế do xã hội mang lại.
Quan niệm của P.A.Sorokhin:
Sorokhin coi phân tầng xã hội là sự phân hóa của tổng thể các cá nhân thành những giai cấp trong thang bậc của đẳng cấp. Phân tầng xã hội thể hiện rõ nhất trong sự tồn tại của tầng lớp cao nhất và tầng lớp thấp nhất.
Quan niệm của I. Robertsons:
I. Robertsons (nhà xã hội học người Mỹ) coi phân tầng xã hội là sự bất bình đẳng mang tính cơ cấu của tất cả các xã hội loài người, là sự khác nhau về khả năng thăng tiến xã hội bởi địa vị của họ trong thang bậc xã hội.
2.2.  Đặc tính chung của phân tầng xã hội
Nhà xã hội học Mỹ J.Macionis đã chỉ ra hệ thống phân tầng xã hội có một vài đặc tính chung sau đây:
·        - Có tính phổ quát trên toàn cầu .
·        - Tồn tại dai dẳng theo thời gian.
·        - Tồn tại trong tất cả các tầng lớp dân cư, các giai cấp và tầng lớp.
·        - Được duy trì bền vững trước hết do điều kiện vật chất xã hội, thể chế chính trị và niềm tin xã hội.
2.3. Nguyên nhân của hiện tượng phân tầng: Có thể xác định hiện tượng phân tầng qua hai nguyên nhân:
·        Thứ nhất: đó là do sự bất bình đẳng mang tính cơ cấu của tất cả các chế độ xã hội (trừ giai đoạn đầu của thời kỳ nguyên thuỷ). Thực tế, mỗi con người trong mỗi một xã hội luôn có sự khác biệt về thể chất, trí tuệ (có người khoẻ, yếu, thông minh, kém cỏi, người gặp những cơ may thăng tiến, người chịu rủi ro, thiệt thòi…). Chính sự khác biệt một cách tự nhiên, khách quan này tạo ra những khả năng chiếm giữ các địa vị xã hội cao thấp, khác nhau.
·        Thứ hai: do sự phân công lao động đưa đến sự khác nhau về nghề nghiệp, thu nhập, các điều kiện làm việc… đó cũng là những yếu tố tạo nên sự khác nhau về địa vị xã hội. Ngoài ra, còn có những yếu tố chủ quan cá nhân tác động vào quá trình phân tầng xã hội. Ví dụ: trong xã hội cực quyền, sự lạm dụng và thao túng quyền lực của các lãnh chúa (xã hội cũ) và giáo hội cũng tạo ra sự phân tầng hoặc làm gay gắt hơn, làm biến dạng những trật tự vốn có.
2.4. Các loại phân tầng
          - Khi xét đến hậu quả của phân tầng ta có thể phân chia phân tầng thành hai loại: phân tầng xã hội hợp thức, phân tầng xã hội không hợp thức.
·        Phân tầng xã hội hợp thức: dựa trên cơ sở đạo đức, tài năng, mức độ đóng góp trong thức tế cho xã hội. Sự phân tầng này đưa đến công bằng xã hội, là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội, góp phần tạo nên trật tự và ổn định xã hội. Do đó, ta thừa nhận sự tồn tại và thiết chế hoá sự phân tầng hợp thức.
·        Phân tầng xã hội không hợp thức: dựa trên cơ sở sự tham nhũng, làm ăn phi pháp, lười biếng, thủ đoạn, trộm cướp. Nó đưa đến bất công xã hội, kìm hãm, cản trở sự phát triển xã hội, tạo ra sự bất bình đẳng xã hội, đưa đến xung đột, mâu thuẫn và mất ổn định xã hội. Chúng ta không chấp nhận sự tồn tại của hiện tượng phân tầng này, kiên quyết phê phán, kiểm soát, quản lý, trừng phạt và xoá bỏ chúng.
2.5. Hệ thống phân tầng xã hội:
          -  Phân tầng xã hội theo tuổi:
·        Là hiện tượng phổ biến trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ (thời kỳ tiền giai cấp). Đến xã hội có giai cấp, vẫn tiếp tục có sự bất bình đẳng về lứa tuổi. Lứa tuổi thể hiện sự khác nhau về uy tín xã hội và kinh nghiệm. Người cao tuổi có quyền dạy bảo người ít tuổi hơn (chứ không có sự ngược lại).
·        Trong xã hội truyền thống (dựa trên kinh tế nông nghiệp với các công xã nông thôn), quyền lực của các công lão được coi là chuẩn mực. Ở xã hội hiện đại “sống lâu lên lão làng” không còn là con đường thăng tiến địa vị xã hội chủ yếu nữa nhưng vẫn là dấu ấn đậm nét trong nhiều sinh hoạt cộng đồng khác nhau.    
           -  Phân tầng đóng:
·        Tồn tại trong xã hội có sự phân chia đẳng cấp. Ở chế độ này con người rất khó có thể thay đổi địa vị của mình. Vị thế của họ được ấn định bởi dòng dõi, nguồn gốc của cha mẹ, hầu như là bất biến nếu không có những biến động xã hội to lớn.
·        Quan hệ hôn nhân mang tính “nội giao”, cấm sự kết hôn giữa những người thuộc đẳng cấp khác. Sự cấm đoán này diễn ra hết sức nghiêm ngặt, nếu vi phạm điều này có thể bị trừng phạt rất nặng nề.
·        Hệ thống phân tầng đóng kìm hãm, níu kéo sự phát triển của xã hội. Hiện nay vết tích của hệ thống phân tầng đóng vẫn còn ở một số vùng như Bắc Phi, Trung Đông và Châu Á (vào năm 1981 vẫn còn hơn 1 triệu người sống trong cảnh nô lệ).
          - Phân tầng mở:
·        Đó là hệ thống phân tầng trong xã hội có giai cấp. Địa vị cá nhân thường phụ thuộc trực tiếp vào nghề nghiệp và thu nhập của họ. Vị thế con người có được phần lớn là do chủ quan đạt được chứ không phải là vị thế sẵn có.
- Phân tầng dựa theo trình độ phát triển xã hội, gồm có:
·        Phân tầng xã hội hình chóp: Phản ánh xã hội có sự bất bình đẳng ở mức cao, dù cho kinh tế rất phát triển hay lạc hậu (Hoa Kì).
·        Phân tầng xã hội hình thoi: Hai nhóm xã hội giàu và nghèo đều chiếm tỷ lệ nhỏ, nhóm trung lưu ở giữa chiếm đại đa số (Nhật Bản). Tuy vậy khoảng cách giũa giàu và nghèo còn rất cao, điều đó cho thấy sự bất bình đẳng còn lớn.
·        Phân tầng xã hội hình quả trứng: Trung lưu chiếm đa số, bất bình đẳng vẫn còn cao song không còn những người quá nghèo hoặc tình trạng một số ít nắm tuyệt đại bộ phận tài sản của xã hội (Bắc Âu)
·        Phân tầng hình giọt nước: Khoảng cách giàu nghèo vẫn còn nhưng không đáng kể. Đại bộ phận nhân dân có mức sống trung bình và khá (các nước Đông âu cũ).
         Ví dụ về mô hình về tháp phân tầng ở Việt Nam năm 1992.








2.6.  Một số lý thuyết về sự phân tầng
Theo Jean Cazênuve, có thể xếp học thuyết về phân tầng xã hội làm hai loại:
- Lý thuyết xung đột: đây là lý thuyết của những người chịu ảnh hưởng bởi quan niệm tiếp cận về hình thái kinh tế - xã hội và quan niệm về giai cấp của Mác, những người này chủ yếu nhấn mạnh đến vấn đề quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Họ coi đó là đặc trưng chủ yếu của sự phân tầng xã hội hay là dấu hiệu chủ yếu nhận biết hoặc sự phân chia xã hội ra thành những giai cấp này hay giai cấp khác.
Họ cũng nhấn mạnh đến đấu tranh giai cấp, đến xung đột xã hội, coi đó là nguồn gốc và động lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.
- Lý thuyết chức năng: những người theo thuyết chức năng nhấn mạnh đến trạng thái cân bằng, đến cơ cấu hơn là đến những biến đổi của cơ cấu ấy. Theo họ, phân tầng là một hiện tượng khách quan và có tính chức năng, nhằm đáp ứng những nhu cầu cần thiết của xã hội và đặt ra vấn đề là làm sao phải có một xã hội đẳng cấp. Theo Parsons, một đại biểu của thuyết chức năng, phân tầng được coi là sự sắp xếp cá nhân vào trong một hệ thống xã hội trên cơ sở những tiêu chuẩn của một hệ thống chung về giá trị, phân tầng là kết quả trực tiếp và cũng là phương tiện của hoạt động xã hội.
- Lý thuyết dung hoà: G.Lenski cho rằng, trong xã hội luôn có những động cơ thôi thúc người ta giữ các vị trí xã hội, đồng thời cũng diễn ra các qúa trình xung đột và đấu tranh giành quyền thống trị.
Max Weber đặt ra nguyên tắc nghiên cứu “ba chiều” về xã hội, coi khái niệm xã hội bao hàm cả việc phân chia xã hội thành các giai cấp. Ông đã tách một luận điểm về giai cấp thành ba phần riêng biệt nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, đó là: địa vị kinh tế hay tài sản, địa vị chính trị hay quyền lực, địa vị xã hội hay uy tín.
III. Di động xã hội (tính cơ động xã hội)
Nghiên cứu cơ cấu xã hội đòi hỏi phải gắn liền với nghiên cứu tính “cơ động xã hội”. Theo quan niệm của các nhà xã hội học, đặc trưng nổi bật của xã hội là có tính linh hoạt, linh động, thường biến đổi vì chúng phụ thuộc vào tính cơ động xã hội.
3.1.  Định nghĩa
Tính cơ động xã hội là tính linh hoạt của các cá nhân và các nhóm xã hội trong kết cấu xã hội. Nó là sự chuyển đổi vị trí của một người hay một nhóm xã hội này cho một người, một nhóm xã hội khác trong cùng một tầng hay khác tầng trong bậc thang giá trị xã hội.
3.2. Các loại cơ động xã hội
Cơ động xã hội theo “chiều ngang”. Đó là sự chuyển đổi vị trí của một người hay một nhóm người sang vị trí xã hội khác cùng nằm trên một cấp độ xã hội như nhau (có nghĩa là chỉ có sự thay đổi về vai trò xã hội mà không thay đổi vị thế xã hội).
Cơ động xã hội theo “chiều dọc”. Đó là sự chuyển dịch vị trí của cá nhân hay một nhóm xã hội sang một vị trí xã hội khác không cùng một tầng với họ. Sự cơ động xã hội theo chiều dọc nhấn mạnh đến sự vân động về chất lượng cua cá nhân trong các nhóm xã hội có liên quan đến sự thăng tiến hay sút giảm vị thế xã hội của mỗi người.
Cơ động chuyển đổi. Đó là sự thay đổi địa vị xã hội của một số người vì họ trao đổi vị trí cho những người khác tại tầng lớp xã hội khác nhau trong bậc thang xã hội.
Thí dụ: những người thiếu năng lực ở vị trí cao có thể mất việc hoặc tụt xuống địa vị thấp hơn, trong khi đó những người có khả năng ở vị trí thấp hơn được tiến cử vào những vị cao. Số lượng của loại cơ động xã hội này phụ thuộc vào mức độ “đóng” hay “mở” của xã hôị. Trong hệ thống xã hội “đóng” hay “đẳng cấp”, loại cơ động xã hội này ít xảy ra, nhưng trong hệ thống “mở” có nhiều tiềm năng cho loại cơ động này.
Cơ động theo cơ cấu. Đó là sự thay đổi địa vị của một số người do kết quả của những thay đổi trong cơ cấu kinh tế. Loại cơ động theo cơ cấu này xuất hiện nhiều vào thời kỳ cách mạng kỹ thuật, cách mạng trong cơ cấu kinh tế hoặc cách mạng chính trị.
Ngoài ra, còn có các loại cơ động “thô”, cơ động “tinh”, cơ động do ý trí. Cơ động trong cùng thế hệ liên quan đến sự vận động của cá nhân trong suốt cuộc đời họ. Cơ động giữa các thế hệ xác định quá trình tiếp nối vị trí xã hội giữa ông bà, cha mẹ, con cái (tức là cha truyền con nối).
3.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ động xã hội
- Nguồn gốc giai tầng xã hội:
- Trình độ học vấn.
- Lứa tuổi và thâm niên nghề nghiệp.
- Giới tính.
- Điều kiện sống (hay nơi cư trú).
- Ngoài những yếu tố nói trên, còn phải kể một số yếu tố khác như chủng tộc, chế độ dinh dưỡng tuổi thơ, sức khoẻ, tuổi kết hôn, địa vị của người bạn đời, ý chí kiềm chế sự thoả mãn nhất thời, chiều cao, hình thức bề ngoài, trí tuệ và lĩnh vực công danh, những thiên chức về sự sắc sảo, ý tưởng, sáng tạo, sự tế nhị, khéo léo trong giao dịch, ý chí dám mạo hiểm ..v..v..
Sau cùng, cũng cần phải xem xét tính cơ động xã hội như là một hiện tượng xã hội, có logíc bên trong và các quy luật phát triển của mình. Cần phải tính đến sự lệ thuộc của tính cơ động xã hội đối vơi các điều kiện lịch sử - xã hội như: quan hệ sản xuất, phân công lao động xã hội, cơ sở vật chất, kỹ thuật, các yếu tố thiết chế xã hội, hệ thống giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng và chính sách sử dụng cán bộ. Tính cơ động xã hội cần được nghiên cứu như là một qúa trình phức tạp có cơ cấu riêng và ngày càng được mở rộng cùng với sự phát triển của thời gian.
Nghiên cứu tính cơ động xã hội “hướng tới lối vào” đòi hỏi phải phân tích xuất xứ của các nhóm xã hội – nghề nghiệp, xem họ đã tận dụng bản năng và trình độ nghề nghiệp của thế hệ trước đó ra sao. Nghiên cứu tính cơ động xã hội “hướng tới lối ra” cần phải xem xét tuổi trẻ sẽ rời vào nhóm xã hội nào khi họ rời khỏi những nhóm xã hội của cha mẹ. Như vậy khi nghiên cứu, ta cần đặt tính cơ động xã hội trong từng thế hệ và bối cảnh chung của toàn bộ tính xu hướng của sự vận động xã hôi.
Khi nghiên cứu tính cơ động xã hội, chúng ta còn bắt gặp phạm trù “cơ động xã hội phụ thêm” hoặc “cơ động xã hội thặng dư”, có nghĩa là một người nào đó đã vận động ra khỏi nhóm xã hội xuất thân và nhập vào nhóm xã hội khác. Và phạm trù “cơ động xã hội hồi quy” có nghĩa là quá trình cơ động của một người nào đó quay về với nhóm xã hội xuất thân.


CHƯƠNG 7.  PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
XÃ HỘI HỌC
         
I. Các khái niệm
1. Khoa học
          Đó là một phương pháp phát triển khối lượng kiến thức thông qua việc sử dụng kỹ thuật logic và khách quan.
          + Mục tiêu của phương pháp này là tri thức khoa học.
          + Cái mà ta chú ý là phương pháp khoa học nó sẽ là điều kiện, tiền đề để chúng ta tìm ra chân lý khác.
2. Logic
          Mỗi ý kiến, mỗi bước đi đều gắn chặt chẽ với ý kiến, bước đi trước đó. Một nhận định khoa học không thể chứa những mâu thuẫn chưa được giải quyết.
3. Tính khách quan
          Phản ánh đúng sự thật vốn có trong hiện thực, điều này có nghĩa là nhà khoa học phải dựa vào các thủ thuật có khả năng giảm thiểu ảnh hưởng của những phỏng đoán, trực giác, thiên kiến trong lúc quan sát và lý giải.
4. Lý thuyết
          Khái niệm: Lý thuyết là những tập hợp những lời phát biểu được xắp xếp một cách có logic, mà ở đó người ta cố gắng miêu tả, dự đoán hay giải thích một sự kiện.
          Những trình bày có hệ thống này giúp chúng ta hình thành các ý kiến của chúng ta về sự kiện đang nghiên cứu.
          Mục đích của các lý thuyết nhằm giới thiệu cho chúng ta những biến lượng có ý nghĩa về mặt phương thức, phương cách và các nhân tố, yếu tố có liên quan đến hiện tượng và vấn đề mà chúng ta đang nghiên cứu.
5. Giả thuyết
          Các giả thuyết là những nhận định dựa trên sự tin tưởng chưa được kiểm chứng. Các nhà xã hội học đưa ra những giả thuyết, những nhận định về bản chất ứng xử của con người, bản chất của xã hội và cách thức mà cả hai tác động lẫn nhau.
II. Các bước trong quá trình nghiên cứu xã hội học thực nghiệm
          Bước 1: Xác định chủ đề nghiên cứu.
          - Trong một đề cương nghiên cứu phải phát họa được rõ ràng lĩnh vực xã hội có liên quan đến chủ đề nghiên cứu.
          - Trong nghiên cứu muốn xác định chủ đề phải qua 3 tiêu chuẩn sau:
          + Tính khả thi: căn cứ vào năng lực thực hiện và tính khả thi của nó đối với đời sống xã hội.
          + Được các nhà nghiên cứu quan tâm, xã hội quan tâm: Vấn đề nghiên cứu có tính áp dụng vào thực tế cao hơn giúp tạo ra hiệu quả cao của nghiên cứu.
          + Góp phần mở rộng được tri thức xã hội.
          Bước 2: Nêu ra được những tư liệu có liên quan đến chủ đề nghiên cứu
          Bước 3: Định nghĩa các khái niệm và những số đo của chúng.
          Tính chính xác của các khái niệm là điều hết sức quan trọng trong các ngành KHXH và không dễ để đạt được điều đó.
          Trong đề cương nghiên cứu xã hội học phải đưa ra những định nghĩa rõ ràng các khái niệm. Phải diễn giải cách đo lường để chứng tỏ các vấn đề tìm ẩn trong việc đo các khái niệm đã được suy nghĩ thảo luận thấu đáo.
          Bước 4: Xác định phương pháp thu thập thông tin thích hợp.
          + Thu thập số liệu bằng bảng Anket.
          + Thu thập số liệu bằng phỏng vấn sâu.
          + Thu thập số liệu bằng điện thoại.
          + Thu thập số liệu bằng thư tín.
          + Thu thập số liệu bằng phỏng vấn nhóm.
          + Phương pháp quan sát.
          + Các phương pháp nghiên cứu đồng tham gia (Biểu đồ venn, cây vấn đề, thảo luận nhóm, mạng xã hội,…)
          Bước 5: Thao tác hóa các khái niệm và thiết kế các công cụ.
          Trong cuộc điều tra các khái niệm được thao tác sẽ thể hiện ngay trong bảng hỏi. Nếu các khái niệm được thao tác không tốt thì cho dù các khâu khác có thực hiện tốt, các số liệu thu thập được cũng sẽ trở nên vô nghĩa hoặc có rất ít ý nghĩa đối với đề tài.
          Bước 6: Chọn mẫu đối tượng nghiên cứu.
          Chọn mẫu là phương pháp mà chúng ta làm sao cho số mẫu được lấy ra khảo sát phải mang được tính đại diện cho tổng thể mẫu khảo sát. Việc chọn mẫu giúp cho nhà nghiên cứu tiết kiệm được thời gian, nguồn lực mà vẫn đảm bảo được độ tin cậy của nghiên cứu.
 







                                 Đại diện                                        Đại diện
 



          Bước 7: Xem xét mục tiêu, giá trị và đạo đức của công trình nghiên cứu.
          Bước 8: Thu thập số liệu
          + Thu thập số liệu định lượng.
          + Thu thập dữ liệu định tính.
          Bước 9: Xử lý số liệu
          + Xử lý thủ công.
          + Xử lý bằng máy vi tính (SPSS, SATA, …)
          Bước 10: Phân tích số liệu
          Bước 11: Trình bày kết quả nghiên cứu
III. Cách thức tiến hành một cuộc nghiên cứu xã hội học
          Trong bất kỳ một cuộc nghiên cứu xã hội học nào, dù lớn hay nhỏ cũng thường phải trãi qua 3 giai đoạn chính sau:
          + Giai đoạn chuẩn bị.
          + Giai đoạn tiến hành điều tra.
          + Giai đoạn xử lý và giải thích thông tin.
          Một số nguyên tắc trong quá trình tiến hành một cuộc điều tra xã hội học:
          - Duy trì tính khách quan.
          - Tôn trọng sự toàn vẹn và kín đáo của đối tượng nghiên cứu.
          - Có cái nhìn tổng quát từ nhiều góc độ khi giải thích bản chất của các hiện tượng.
          - Những hiện tượng nghiên cứu phải mang tính đặc trưng, đáng tin cậy.
1. Giai đoạn chuẩn bị
          a, Xác định chủ đề nghiên cứu.
          Vd: Vấn đề nghiên cứu (lối sống, định hướng, giá trị, nhu cầu văn hóa,…)
          b, Thu thập và phân tích những thông tin sẵn có.
          Tìm hiểu thêm về vấn đề nghiên cứu, làm rõ chủ đề nghiên cứu. (kế thừa? phát triển? à tránh trùng lặp với các nghiên cứu trước).
          c, Xác định nội dung nghiên cứu và khách thể nghiên cứu.
          Từ những vấn đề đã được xác định trong nội dung đi đến xác định ai là người được hỏi – căn cứ trên những tiêu chí nào.
          Vd: Đề tài “Tìm hiểu lối sống của sinh viên trường Đại học Đà Lạt”
          Nội dung nghiên cứu:  Lối sống của sinh viên.
          Khách thể nghiên cứu: Sinh viên trường ĐH Đà Lạt.
          d, Xác định giả thuyết nghiên cứu.
          - Giả thuyết là giả định chủ quan của người điều tra.
          - Giả thuyết cho chúng ta biết chúng ta cần thu thập những loại thông tin nào cho đề tài nghiên cứu.
          - Giả thuyết được công nhận hay bác bỏ thì cuộc nghiên cứu đều thành công.
          e, Xây dựng mô hình lý luận.
          Việc xây dựng mô hình lý luận giúp chúng ta khái quát hóa vấn đề, đưa ra các lý giải có tính khoa học, mô hình lý luận là cái nền cho sự lý giải một vấn đề.
          Mô hình lý luận chính là khuôn mẫu, cái khung để chúng ta có thể xắp xếp các số liệu rời rạc thành một hệ thống nhất.
          f, Thao tác hóa khái niệm.
          Là quá trình chúng ta chẻ nhỏ các khái niệm, các quan điểm, các giả thuyết, việc làm này là vô cùng quan trọng và khó khăn. Nếu chúng ta thao tác hóa khái niệm không tốt thì các thông tin mà chúng ta thu thập được sẽ rời rạc và có rất ít giá trị, dẫn đến mục tiêu nghiên cứu của đề tài không đạt.
          Vd:  Thao tác hóa khái niệm Xã hội hóa
Xã hội hóa
 
         

 









                                                    …….………….        ……………

          g, Xác định phương pháp, công cụ nghiên cứu và thang đo.
          Ngoài các phương pháp nghiên cứu ra còn việc chọn người (cộng tác viên, điều tra viên,…), cách thức xử lý thông tin.
          h, Chọn mẫu.
          i, Điều tra thử.
          Điều tra thử giúp chúng ta khắc phục các sai sót của bảng hỏi, mà khi thiết kế không thấy được.
2. Giai đoạn tiến hành điều tra
          a, Thủ tục xin phép
          Là khâu rất quan trọng trước khi tiến hành điều tra.
          b, Huấn luyện điều tra viên
          Tập huấn cho các điều tra viên (nếu có) để đảm bảo thống nhất cách hỏi giống nhau, thông tin thu thập được là nhất quán.
          c, Tiếp xúc với những người cung cấp thông tin và thu thập thông tin
3. Giai đoạn xử lý và giải thích thông tin
          a, Xử lý thông tin
          Việc xử lý thông tin, số liệu ngày nay đã được giao cho máy vi tính, nhưng các phương án xử lý thông tin phải được chuẩn bị từ trước (các phân tổ, tương quan giữa các biến,…).
          b, Phân tích, viết báo cáo
          So sánh, nhận xét, đánh giá về những kết quả thu được à đối chiếu với giả thuyết nghiên cứu, mục tiêu, mục đích nghiên cứu à Viết báo cáo kết quả nghiên cứu.
IV. Các phương pháp thu thập thông tin trong nghiên cứu xã hội học
1. Các phương pháp thu thập thông tin định lượng
1.1. Phỏng vấn (bảng Anket)
          a, Khái niệm
          Anket là một bảng câu hỏi được sử dụng để thu thập thông tin sơ cấp. Những câu hỏi đó được trình bày theo những nguyên tắc nhất định nhằm mục tiêu khai thác thông tin từ đối tượng.
          Bảng anket được coi là hình thức thu thập thông tin nhanh nhất, thuận tiện, ít tốn kém tính trên đầu người, thực hiện được trên một số đông người trong một khoảng thời gian hạn chế, thông tin nhận được có thể được xử lý nhanh chóng. Tuy nhiên đối với các cuộc nghiên cứu quan trọng và có quy mô lớn thì đòi hỏi người nghiên cứu phải có trình độ tay nghề cao.
          Với bảng anket người ta có thể sử dụng để:
          + Trưng cầu ý kiến: Đây là hình thức mà người ta muốn thu nhận nhiều ý kiến đóng góp từ nhiều phía để thay đổi, chỉnh lý một kế hoạch, đề án, chương trình chuẩn bị đưa ra thực hiện hoặc đã thực hiện nhưng bên trong gặp phải vấn đề không ổn.
          + Nhận diện và mô tả: để nhận diện một thực trạng xã hội nào đó hay mô tả các nguyện vọng và nhu cầu trong một cộng đồng dân cư rộng lớn phục vụ trực tiếp cho việc ra chính sách các nhà nghiên cứu thường sử dụng phương pháp này, chẳng hạn nhận diện tình trạng ly hôn,…
          + Thăm dò dư luận xã hội: Trong xã hội có nhiều vấn đề bức xúc, nhưng do một lý do tế nhị nào đó người ta không muốn phát ngôn, trong trường hợp như thế nhà xã hội học tiến hành “khoan thử” vài mũi xem thực tế như thế nào. Trong trường hợp này người ta gọi là dư luận chìm.
          + Điều tra dư luận xã hội: Đây là hình thức được sử dụng để nghiên cứu về một vấn đề gì đó đã trở nên ồn ào, thu hút sự chú ý của nhiều người trong xã hội, mà ta gị là dư luận nổi. Lúc này nhà nghiên cứu sử dụng bảng anket để định lượng thông tin và chất lượng thông tin.
          Với phương pháp thu thập thông tin bằng bảng anket người ta có thể sử dụng vào rất nhiều mục đích đa dạng khác nhau như: thăm dò thị hiếu khách hàng, trưng cầu ý kiến các vấn đề trong đời sống xã hội, bảng anket được thực hiện theo 3 dạng thức:
          + Bảng anket đăng báo.
          + Bảng anket gửi qua đường bưu điện.
          + Bảng anket phân phối tại chỗ, được điều tra viên trực tiếp hỏi hay gửi cho người được hỏi trả lời và thu lại.
          b, Các loại câu hỏi được sử dụng
          Câu hỏi đóng:
+ Câu hỏi đóng giản đơn: Chỉ bao gồm câu trả lời khẳng định hay phủ định về một vấn đề. 

+ Câu hỏi đóng lựa chọn: Đây là dạng câu hỏi người trả lời chọn các phương án đã được lập sẵn trên mẫu phiếu.
          Câu hỏi mở: Người trả lời sẽ trả lời các câu hỏi theo ý kiến của mình mà không phụ thuộc vào bất cứ điều kiện ràng buộc nào.
          Câu hỏi kết hợp: Là sự kết hợp của câu hỏi đóng và mở. Nhà nghiên cứu thiết lập sẵn các phương án trả lời có sẵn, đồng thời cũng để ngõ phương án cho người được hỏi trả lời thêm nếu họ thấy cần thiết.
          c, Bố cục một bảng anket: thường thì một bảng anket có 3 phần chính sau:
          + Phần mở đầu: giới thiệu mục đích, mục tiêu của cuộc nghiên cứu, cơ quan (cá nhân) chủ trì, lời cảm ơn,…
          + Phần thông tin về nhân khẩu: tùy thuộc vào tính chất của cuộc nghiên cứu mà nhà nghiên cứu yêu cầu các thông tin nhân khẩu khác nhau: giới tính, tuổi, nghề nghiệp, học vấn, thu nhập,… đối với phần này có thể để trước hay cuối cùng của bảng hỏi tùy thuộc ý đồ của nhà nghiên cứu.
          + Phần nội dung: Bao gồm những câu hỏi để thu thập thông tin của cuộc nghiên cứu. Lưu ý, nên bố trí các câu hỏi theo mức độ khó, phức tạp tăng dần để tạo đà tốt cho việc lấy thông tin.
1.2. Phân tích các số liệu thống kê.
          Ngoài việc thu thập các số liệu định lượng từ các cuộc nghiên cứu bằng các bảng anket, nhà nghiên cứu cũng có thể sử dụng lại kết quả của các cuộc điều tra trước đó có liên quan để phân tích lại theo ý đồ của mình, hay có thể sử dụng kết quả của các cuộc điều tra dân số, mức sống, nhà ở để phân tích những vấn đề mà mình quan tâm.
2. Các phương pháp thu thập thông tin định tính.
2.1. Thu thập các tư liệu có sẵn về đối tượng nghiên cứu.
          a, Khái niệm về tài liệu:
          Tài liệu là một hiện vật mà con người tạo ra dùng để lưu truyền các thông tin, để truyền thông. Trong khái niệm của xã hội học thì tài liệu gồm có:
          - Tài liệu viết hay còn gọi là hồ sơ: chúng bao hàm tài liệu lưu trữ, báo chí, ấn phẩm văn hóa, tài liệu cá nhân (thư từ, nhật ký),…
          - Tài liệu thống kê: Đó là những biểu mẫu, biểu đồ, đồ thị, số liệu thống kê nhằm phản ánh lại các mặt lượng của các sự kiện, hiện tượng, quá trình xã hội,…
          - Tài liệu tạo hình và ngữ âm: chúng gồm có phim, ảnh, tranh, băng đĩa các loại,…
          b, Phương pháp phân tích tài liệu:
          - Phương pháp phân tích bên ngoài: Khi tiếp xúc với tài liệu trước tiên là tiếp xúc với cái võ bên ngoài của nó, những câu hỏi được đặt ra ở đây: tài liệu là cái gì? (hình thức, chất liệu), thời gian và địa điểm xuất hiện? ai là tác giả? Tài liệu được xây dựng với mục đích gì và văn cảnh của nó ra sao? Nó đến tay nhà nghiên cứu bằng con đường nào và độ tin cậy của nó tới đâu? Thật hay giả?
          - Phương pháp phân tích bên trong: đây là quá trình đi sâu vào nội dung bên trong của tài liệu. Qua tài liệu nhà nghiên cứu có thể hình dung được toàn bộ hay một phần sự kiện, hiện tượng đã xảy ra. Đồng thời xác định được quan điểm của tác giả về vấn đề được đề cập đến trong tài liệu. Trên cơ sở đó xác định xem tài liệu này sẽ được khai thác như thế nào là phù hợp, những gì có thể sử dụng được ngay, những gì cần có sự làm rõ ở đây.
          c, Sưu tầm tài liệu.
          Sưu tầm tài liệu là một công việc vô cùng quan trọng không thể thiếu đối với các nghiên cứu, nó phục vụ cho mục đích sau:
          + Gợi ý cho những ý tưởng mới nảy sinh.
          + Phục vụ trực tiếp cho đề tài đã được định trước.
          + Lưu trữ trong kho tư liệu cá nhân theo dạng phiếu đã được phân nhóm để tiện lấy ra khi cần thiết.
2.2. Phỏng vấn sâu.
          a, Khái niệm.
          Phỏng vấn là cách thu thập thông tin sơ cấp thông qua việc hỏi và trả lời, các câu hỏi được dùng là các câu hỏi mở.
          Phỏng vấn có thể được thực hiện dưới các hình thức sau:
          - Phỏng vấn mặt đối mặt.
          - Phỏng vấn qua điện thoại.
          - Phỏng vấn qua thư tín.
          b, Các kiểu phỏng vấn.
          - Phỏng vấn cơ cấu hóa: đây là cuộc phỏng vấn diễn ra theo kế hoạch đã được vạch sẵn tỷ mỉ và chu đáo. Người phỏng vấn dựa vào một bảng câu hỏi đã được soạn sẵn và in đồng loạt, có thể người trả lời cũng có sẵn một bản ở trên tay. Người thực hiện phỏng vấn phải tuân thủ một số nguyên tắc:
          + Không đảo lộn thứ tự các câu hỏi.
          + Đọc đúng câu hỏi trong bảng hỏi, không thêm bớt, không gợi ý.
          Kiểu phỏng vấn này thường được dùng khi tiến hành phỏng vấn tập trung hoặc phỏng vấn hàng loạt cá nhân với cách thức mặt đối mặt trong một khoảng thời gian hạn chế với cùng một nội dung đã được ấn định.
          - Phỏng vấn bán cơ cấu hóa: cũng tương tự như phỏng vấn cơ cấu hóa, trong phỏng vấn bán cơ cấu hóa bảng câu hỏi được thiết kế chỉ là các chủ đề mà nhà nghiên cứu quan tâm, tùy thuộc vào điều kiện bên ngoài mà khai thác thông tin cho phù hợp, có thể đảo thứ tự các câu hỏi, gợi mở cho người trả lời.
          - Phỏng vấn không cơ cấu: cuộc phỏng vấn được dựa trên một số chủ đề mà nhà nghiên cứu quan tâm, các chủ đề được vạch ra trên giấy, trong quá trình hỏi người phỏng vấn có thể hỏi bất cứ chủ đề nào mà mình quan tâm. Quan trọng là làm sao lấy được thông tin mà mình quan tâm. Lối phỏng vấn này có nhiều tên khác nhau như: phỏng vấn tự do, phỏng vấn sâu, phỏng vấn mở, hay phỏng vấn mạn đàm.
          c, Cách thức ghi thông tin.
          - Thực hiện ghi chép.
          - Sử dụng máy ghi âm, máy quay phim,… (phải có sự xin phép trước)
2.3. Quan sát.
          a, Khái niệm.
          Là phương pháp thu thập thông tin sơ cấp về đối tượng bằng cách tri giác trực tiếp và ghi chép thẳng mọi nhân tố có liên quan. Quan sát khác với cách nhìn thông thường ở chỗ quan sát có sự chủ định trước, hướng vào mục đích mà nhà nghiên cứu quan tâm.
          b, Các kiểu quan sát.
          - Quan sát không cơ cấu hóa: Đây là kiểu quan sát mà người nghiên cứu không chủ định trước về các nhân tố sẽ được quan sát, sự quan sát không có kế hoạch, chương trình chi tiết, chỉ có đối tượng được quan sát là được xác định trước.
          - Quan sát cơ cấu hóa: Đây là kiểu quan sát được lên kế hoạch tỉ mỉ. Trong chương trình quan sát có xác định rõ những yếu tố, tình huống sẽ được quan sát và ghi chép lại, cái gì là chính, cái gì là bổ trợ. Tất cả chương trình quan sát phải được lên kế hoạch một cách tỉ mỉ, chính xác và phải bằng văn bản.
          c, Các phương pháp quan sát.
          - Quan sát không tham dự: Đây là hình thức quan sát mà người quan sát đứng bên ngoài với tư cách là quan sát viên chứ tuyệt nhiên không tham gia vào tiến trình đang xảy ra. Họ chỉ đơn thuần ghi chép lại những gì đang xảy ra trước mắt mà thôi.
          - Quan sát có sự tham dự: Là hình thức quan sát trong đó người nghiên cứu trực tiếp tham gia vào quá trình đang diễn ra ở một mức độ nào đó. Trong lối quan sát này người ta thường phân ra thành một số hình thức sau.
          + Sự tham gia đầy đủ: Lúc này người nghiên cứu gia nhập thực sự vào tập thể và hoạt động như các thành viên khác. Anh ta tiến hành quan sát theo chiều sâu từ bên trong đối tượng, chỉ có điều quan trọng là anh ta giấu mình đi để tập thể được quan sát đó không hề hay biết là nhà nghiên cứu.
          + Tham gia công khai: Là hình thức mà người nghiên cứu tham gia vào trong tập thể bị quan sát, nhưng không giấu giếm vai trò của mình. Được sự đồng ý của tập thể, anh ta quan sát mọi diễn biến trong tập thể đó trong một thời gian nhất định. Anh ta không chỉ thuần túy quan sát mà còn kết hợp với các phương pháp khác nữa như phỏng vấn, sử dụng bảng hỏi.
          - Quan sát tại hiện trường: Là hình quan sát đối tượng trong hoàn cảnh tự nhiên với các tình huống thực đang diễn ra mà không có sự sắp xếp, chủ động nào cả.
          - Quan sát trong phòng thí nghiệm: Là hình thức quan sát trong đó bản thân đối tượng và khung cảnh do nhà nghiên cứu sắp xếp, bố trí theo ý đồ, kịch bản đã ấn định từ trước
          - Quan sát theo chu kỳ: Là hình thức quan sát được tiến hành trên cùng một đối tượng và được lặp lại theo những thời gian định kỳ.
          - Quan sát ngẫu nhiên: Là sự quan sát các hiện tượng, sự kiện, tình huống không hề xác định trước mà chỉ là tình cờ bắt gặp, nhưng chúng gây ấn tượng buộc nhà nghiên cứu lưu tâm bỏ thời gian quan sát.




V. Xử lý thông tin, kiểm định giả thuyết, trình bày báo cáo và xã hội hoá kết quả điều tra thực nghiệm
Giai đoạn này gồm ba công đoạn sau:
1. Tập hợp tài liệu, phân nhóm và miêu tả, giải thích.
2. Kiểm tra giả thuyết nghiên cứu
3. Trình bày báo cáo và xã hội hoá kết quả.
1. Tập hợp tài liệu, phân nhóm và miêu tả, giải thích
Kết hợp giai đoạn hai, có thể thu được một khối lượng lớn các thông tin; nhưng chủ yếu vẫn tồn tại dưới dạng thông tin cá biệt, chưa được phân loại. Các thông tin này thường bao gồm phiếu điều tra ankét, nhật ký ghi chép biên bản hoặc phiếu phỏng vấn sâu, tài liệu thống kê, sách báo, văn bản, tranh ảnh, băng ghi âm, đĩa hình..v..v
Nhiệm vụ đầu tiên của nhà nghiên cứu trong giai đoạn này là:
- Tập hợp các tài liệu, sắp xếp chúng vào các nhóm dấu hiệu riêng. Thí dụ:
+ Tài liệu kinh tế, chính trị, pháp luật.
+ Tài liệu thống kê hay các văn bản báo cáo.
+ Tài liệu về mức sống hay các dấu hiệu khác về học vấn, nghề nghiệp.
Trong giai đoạn xử lý thông tin bước đầu, có thể sử dụng cả các biện pháp đơn giản để phân loại đối với các tài liệu kết hợp với xử lý bằng máy vi tính.
Xử lý bằng máy vi tính theo ba bước:
- Lập sơ đồ lôgíc, xử lý và phân tích thông tin
+ Mẫu tài liệu thu thập thông tin.
+ Thống kê các phương pháp xử lý bảo đảm kiểm tra được giả thuyết.
+ Lập sơ đồ phân tích kết quả thu được. Nêu hướng phân tích chính.
- Lập trình để xử lý trên máy vi tính (do chuyên gia vi tính đảm nhiệm)
Người lãnh đạo cuộc điều tra phải đưa ra những yêu cầu cụ thể để các chuyên gia vi tính lập trình theo phương án tối ưu, đáp ứng được tối đa yêu cầu của giả thuyết nghiên cứu.
- Chuẩn bị tài liệu để đưa vào máy vi tính (thông thường là các phiếu ankét)
+ Đánh số, làm sạch số liệu (xử lý thô)
+ Thống nhất các biến số thu thập được của các câu hỏi mở, mã hoá chúng thành các nhóm dấu hiệu. Theo kinh nghiệm, khâu này phải làm trước lúc lập trình, hoặc nến đã lập trình rồi phải xử lý, chỉnh lý bổ sung vào số liệu.
Công việc tiếp theo là do chuyên gia vi tính đảm nhiệm. Như vậy, nhiệm vụ của giai đoạn này là chuyển các thông tin cá biệt thành các thông tin tập hợp. Trên cơ sở của những thông tin tập hợp (lại được đặt trong các bảng phân nhóm liên hợp) ta mới có thể có cơ sở lựa chọn phương tiện quan trọng để tiếp tục phân tích hoặc áp dụng các phương pháp thống kê tinh vi hơn.
Sau khi đã tiến hành xử lý, sàng lọc thông tin, phân nhóm các tài liệu thì bước tiếp theo là phân tích thông tin. Có hai cách phân tích thông tin: miêu tả và giải thích.
Miêu tả: là sự ghi lại những kết quả nghiên cứu xã hội học kinh nghiệm bằng hệ thống các ký hiệu đã được lựa chọn và biểu đạt những kết quả đó trong những khái niệm khoa học. Nó là khâu trung gian từ kinh nghiệm đến giải thích khoa học, có nghĩa là nó chưa vạch ra được bản chất và mối liện hệ có tính quy luật của các sự kiện, do vậy nó vẫn nằm trong khuôn khổ của kinh nghiệm. Thành phần của miêu tả thường có ít nhất ba thành tố:
+ Những tài liệu nghiên cứu có tính chất kinh nghiệm.
+ Hệ thống ký hiệu đem lại cho các miêu tả (các đồ thị, biểu bảng, các sơ đồ…..)
+ Những khái niệm có liên quan đến hệ thống ký hiệu. Người ta thường tiến hành miêu tả hay lý giải các kết quả của công việc nghiên cứu xã hội học kinh nghiệm bằng các biểu đồ của các chuỗi biến phân như lược đồ tổ chức, đa giác phân chia, lược đồ tích luỹ, đường cong phân chia…v..v..
Ưu điểm chính của sự mô tả bằng biểu đồ là tính trực quan của nó.
Giải thích: là sự phát hiện ra bản chất của đối tượng quan sát trên cơ sở những tài liệu kinh nghiệm và lý thuyết xã hội học bằng cách chỉ ra ở đối tượng những vấn đề mà giả thuyết của cuộc nghiên cứu đặt ra. Nó xác nhận hoặc loại bỏ một giả thuyết nào đó hay toàn bộ hệ thống giả thuyết.
2. Kiểm tra giả thuyết nghiên cứu
Theo quan điểm lôgíc học, kiểm tra là một quá trình xác nhận bằng kinh nghiệm những kết quả rút ra từ giả thuyết đưa ra ban đầu. Có thể tiến hành kiểm tra giả thuyết bằng thực nghiệm xã hội học, phương pháp thống kê hoặc biện pháp áp dụng các biến số kiểm tra.
Theo quan điểm duy vật khoa học, hoạt động thực tiễn xã hội của con người là tiêu chuẩn cao nhất và có uy tín để kiểm tra tính chân thật của một kết quả nghiên cứu nào đó. Bởi vậy, việc kiểm tra giả thuyết một cách toàn diện và có sức thuyết phục cao đòi hỏi nhà nghiên cứu phải vượt ra khỏi khung cảnh của những suy luận lôgíc đơn thuần (chỉ từ kết quả đến sự luận chứng). Ở đây, sự khẳng định bằng kinh nghiệm hệ thống những giả thuyết là rất có ý nghĩa.
Điều quan trọng là phải biết kết hợp sự kiểm tra giả thuyết bằng chính các thao tác lôgíc với những tri thức có được bằng kinh nghiệm; đồng thời không nên coi là sai lầm nghiêm trọng nếu như một giả thuyết nào đó đã bị kết quả của cuộc điều tra phủ nhận. Trong thực tế, chính sau những sự kiện như vậy thì đồng thời lại là điểm khởi đầu của một giả thuyết nghiên cứu đúng đắn hơn: hơn nữa, chính sự bác bỏ các giả thuyết bằng những kết quả kinh nghiệm của cuộc nghiên cứu, tự nó cũng có giá trị nhất định.
3. Trình bày bản báo cáo và xã hội hoá kết quả
a) Báo cáo và tờ trình có thuyết minh:
Kết quả điểu tra xã hội học thực nghiệm thường được trình bày dưới dạng báo cáo. Kèm theo nó là tờ trình có thuyết minh về việc giải quyết những nhiệm vụ đã đặt ra và các phụ lục kèm theo. Trong tờ trình có thuyết minh quá trình thực hiện chương trình của cuộc nghiên cứu, có thông báo các tư liệu tính toán, luận chứng. Trong phụ lục kèm theo có các chỉ tiêu, bảng số, đồ thị, các bảng ankét, những mẫu, những phiếu ghi, những phép thử. Sau các bản báo cáo là những cuốn sách chuyên khảo, những bài báo, tuyển tập, các bản luận..v..v..
b) Những yêu cầu đối với bản báo cáo:
- Chỉ ra mục đích, nhiệm vụ của cuộc điều tra (tương quan giữa mục đích lý luận và mục đích thực hiện) - Làm sáng tỏ tình trạng nghiên cứu (vấn đề hiện nay và những quan điểm hiện có đối với đề tài)
- Phần đặc biệt của bản báo cáo cần trình bày những vấn đề có tính chất phương pháp luận cho việc lựa chọn và luận chứng bộ công cụ phương pháp của cuộc nghiên cứu, phân loại việc lựa chọn, các phương pháp thu thập thông tin xã hội.
- Trình bày một cách đầy đủ mọi giai đoạn nghiên cứu đã được tiến hành với đối tượng, sự liên kết lẫn nhau giữa tất cả các khâu của nó và lôgíc của bản thân sự tìm kiếm khoa học, chỉ ra được vị trí và vai trò của thể thức nghiên cứu..v..v..
- Chỉ ra mức độ thích ứng của kế hoạch nghiên cứu so với nhiệm vụ và sự phù hợp của giả thuyết nghiên cứu so với những kết quả của cuộc nghiên cứu mang lại độ tin cậy của hệ thống mã hoá thông tin và sự tái hiện của nó trong bản báo cáo.
- Bản báo cáo cũng cần chỉ ra được mức độ của việc giải quyết các nhiệm vụ, nội dung khoa học và khả năng có thể suy rộng các kết luận từ cuộc nghiên cứu sang các lĩnh vực khác có hoàn cảnh tương đồng.
- Cuối cùng là việc đưa ra các dự báo, kiến nghị.
Thông thường, ngoài bản báo cáo đầy đủ, người viết báo cáo còn có thêm một bản giản lược khác phản ánh được cô đọng và súc tích hơn những nội dung của bản báo cáo đầy đủ.
Đời sống hiện thực luôn luôn biến đổi, phong phú, sinh động, vì vậy, để các cuộc điều tra xã hội học thu được kết quả mỹ mãn, mô hình này cũng cần được tiếp thu, vận dụng một cách linh hoạt, cơ động và sáng tạo.











Tài liệu tham khảo
-----*****-----

- Lương Văn Úc (2009), Xã hội học, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân.
- Lê Minh Chiến (2008), Xã hội học đại cương, Đại học Đà Lạt (tài liệu lưu hành nội bộ).
- Ngọ Văn Nhân (2008), Xã hội học, Nxb Công an nhân dân.
- Lê Anh Vũ (2008), Xã hội học nhập môn, Đại học Đà Lạt (tài liệu lưu hành nội bộ).
- Bùi Nhựt Phong (2008), Xã hội học đại cương, Đại học Đà Lạt (tài liệu lưu hành nội bộ).
- Nguyễn Đình Tấn (2005), Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, Nxb Lý luận chính trị.
- Phạm Tất Dong (chủ biên) (2001), Xã hội học, NXB ĐHQG Hà Nội.
- Trần Thị Kim Xuyến (2005), Phương pháp nghiên cứu xã hội học, ĐH KHXH & NV Tp.HCM. (tài liệu lưu hành nội bộ).
- Trần Thị Kim Xuyến (2000), Xã hội học nhập môn, NXB Thống kê.
- Phạm Tất Dong - Lê Ngọc Hùng (1999), Xã hội học, NXB giáo dục.
- Trần Hữu Quang (1998), Xã hội học nhập môn, ĐH Mở Tp.HCM.
- Hermann Korte (bản dịch) (1997), Nhập môn lịch sử xã hội học, NXB Thế giới.
- Nguyễn Minh Hòa (1997), Xã hội học – Những vấn đề cơ bản, ĐH KHXH&NV Tp.HCM.







[1] Phạm Tất Dong (chủ biên) (2001), Xã hội học, NXB ĐHQG Hà Nội, Tr39-40.
[2] Lương Văn Úc (2009), Xã hội học, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, tr.45.
[3] Nguyễn Đình Tấn (2005), Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, Nxb Lý luận chính trị, tr.12.
[4] Nguyễn Đình Tấn (2005), Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, Nxb Lý luận chính trị, tr.14.
[5]Nguyễn Đình Tấn (2005), Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, Nxb Lý luận chính trị, tr.19.
[6] Nguyễn Đình Tấn (2005), Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, Nxb Lý luận chính trị, tr.19-21.
[7] Lương Văn Úc (2009),sđd, tr.38.
[8] Lương Văn Úc (2009),sđd, tr.38-40.
[9] Lương Văn Úc (2009),sđd, tr.40-42.
[10] Đặng Cảnh Khanh, PHÂN TÍCH XÃ HỘI HỌC QUÁ TRÌNH PHÂN GIẢI VÀ TÁI TẠO CƠ CẤU XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY, VNH3.TB6.737


[11] Ngọ Văn Nhân (2008), Xã hội học, Nxb Công an nhân dân, tr.81-82.
[12] Nguyễn Đình Tấn (2005), sđd, tr.38.
[13] Nguyễn Đình Tấn (2005), sđd, tr.39
[14] Lương Văn Úc (2009),sđd, tr.80.
[15] Trần Đình Tuấn, Công tác xã hội – Lý thuyết và thực hành.
[16] Trần Hữu Quang (1998), Xã hội học nhập môn, ĐH Mở Tp.HCM, tr.20. 
[17] Nguyễn Đình Tấn (2005), sđd, tr.43.
[18] Trần Hữu Quang (1998), sđd, tr.20.
[19] Nguyễn Minh Hòa (1997), Sđd, tr.188-191.
[20] Trần Hữu Quang (1998), Sđd, tr.58.
[21] Nguyễn Đình Tấn (2005), Sđd, tr.67.
[22] Lương Văn Úc (2009), Sđd, tr.105-106
[23] Lương Văn Úc (2009), Sđd, tr.106.
[24] Nguyễn Đình Tấn (2005), Sđd, tr.67.
[25] Nguyễn Đình Tấn (2005), Sđd, tr.68.
[26] Trần Hữu Quang (1998), Sđd, tr.58.
[27] Trần Hữu Quang (1998), Sđd, tr.59-60.
[28] Trần Hữu Quang (1998), sđd, tr.39.
[29] Trần Hữu Quang (1998), sđd, tr.45-46.
[30] Nguyễn Đình Tấn (2005), sđd, tr.44.
[31] Nguyễn Đình Tấn (2005), sđd, tr.44.
[32] Nguyễn Minh Hòa (1997), Xã hội học những vấn đề cơ bản, ĐH KHXH & NV Tp.HCM, tr.54.
[33] Nguyễn Đình Tấn (2005), sđd, tr.45.
[34] Lương Văn Úc (2009),sđd, tr.186-187.
[35] Trần Hữu Quang (1998), sđd, tr.46.
[36] Trần Hữu Quang (1998), sđd, tr.46.
[37] Nguyễn Đình Tấn (2005), sđd, tr.50-52.
[38] Lương Văn Úc (2009),sđd, tr.187-188.
[39] Trần Hữu Quang (1998), Sđd, tr.44.
[40] Nguyễn Minh Hòa (1997), Sđd, tr.50.
[41] Nguyễn Đình Tấn (2005), sđd, tr.52.
[42] Nguyễn Đình Tấn (2005), sđd, tr.52-53.
[43] Nguyễn Minh Hòa (1997), Sđd, tr.50.
[44] Trần Hữu Quang (1998), Sđd, tr.42-43.
[45] Lương Văn Úc (2009), Sđd, tr.189.
[46] Nguyễn Minh Hòa (1997), Sđd, tr.55-56.
[47] Nguyễn Đình Tấn (2005), Sđd, tr.64-65.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét