Chương III
TỔ CHỨC XÃ HỘI VÀ THIẾT CHÉ XÃ HỘI
I. NHÓM XÃ HỘI
Khái niệm nhóm xã hội
Nhóm xã hội là tập hợp người có liên hệ với nhau theo một kiểu nhất định, hay nói một cách đầy đủ hơn, nhóm xã hội là một tập hợp người có liên hệ với nhau về vị thế, vai trò, những nhu cầu lợi ích và những định hướng nhất định.
Gurvitch (nhà
xã h ội học người Pháp, 1894-1965) cho rằng nhóm là một đơn vị tập thể hiện thực
dựa trên những thái độ tập thể liên tục và tích cực và có sự nghiệp chung để
thực hiện. Như vậy, theo Gurvitch đặc trưng cơ bản của nhóm là sự thống nhất về
tinh thần, t ình cảm, mục đích và phương thức hoạt động của nhóm.
Nhóm là một
trong những đơn vị cơ bản tạo thành xã hội. Con người luôn sống th ành nhóm.
Tuy nhiên, khái ni ệm nhóm ở con người không chỉ có tính sinh học tự nhi ên, mà
còn mang tính xã h ội, quan hệ cá nhân - cá nhân - nhóm và quan h ệ nhóm - nhóm
tác động và chịu ảnh hưởng của những quan hệ x ã hội. Xã hội tác động tới các
cá nhân thông qua nhóm, hay nói cách khác, nhóm gi ữ vai trò trung gian để liên
kết cá nhân và xã hội.
Nhóm là đối
tượng nghiên cứu của nhiều khoa học khác nhau. X ã hội học tìm hiểu nhóm như là
một cộng đồng của những tương tác, những vị thế và cơ cấu xã hội trong mối quan
với các nhóm khác cũng như với toàn thể xã hội
Để làm rõ vai
trò trung gian của nhóm (liên kết cá nhân - xã hội), cần xem xét nhóm như một tập
hợp, một tiểu hệ thống x ã hội trong bối cảnh xã hội rộng lớn. Trong đó, yếu tố
li ên kết cơ bản của nhóm (dấu hiệu chính của nhóm) l à hoạt động xã hội của
nhóm với những dạng cụ thể và hình thức phù hợp của nhóm. Các th ành viên tham
dự vào hoạt động chung của nhóm phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức của nhóm. Ngược lại,
cơ cấu xã hội, tiểu văn hoá của nhóm ảnh hưởng tới hoạt động của các thành viên
trong nhóm.
Cần phân biệt nhóm x ã hội với cộng đồng x ã hội. Là
biến thái của nhóm xã hội, trong nhiều trường hợp cụ thể, cộng đồng x ã hội lại
đồng nhất với nhóm x ã hội. Sự khác biệt ở đây l à chất keo dính kết nội tại của
cộng đồng xã hội là sự liên kết các lợi ích, giá trị, truyền thống văn hoá,
huyết thống tôn giáo, tín ngưỡng... của các th ành viên không ph ải bằng pháp
luật thành văn; mỗi thành viên trong cộng đồng tự nguyện phấn đấu, giữ g ìn và phát tri ển các giá trị
chung, gắn bó, đo àn kết với nhau trong đời sống xã hội.
Nhóm xã hội
là một khái niệm rất rộng đi từ gia đ ình đến giai cấp, giới tính, lứa tuổi; đi
từ quy mô đến thời gian tồn tại và các chức năng của nhóm.
Dù khó có thể
đưa ra một tiêu chuẩn nào để phân biệt loại nhóm một cách chính xác tuyệt đối,
các nh à xã hội học vẫn cố gắng tiến h ành việc này dựa trên một số cơ sở sau
đây:
Căn cứ vào số lượng thành viên tham gia thì có nhóm nhỏ (gia đình,
nhóm bạn bè, đơn vị sản xuất kinh doanh...) và nhóm lớn (các tổ chức
chính trị, tôn giáo giai cấp, đảng phái...).
Căn cứ vào tính chất liên kết thì có nhóm sơ
cấp (nhóm cấp I), trong đó, các thành viên quan hệ trực tiếp với nhau theo
truyền thống, tình cảm, sở thích và nhóm thứ cấp (nhóm cấp
II), các thành viên trong nhóm này quan h ệ một cách gián tiếp với nhau bởi những
quy định, điều lệ chung... do nhóm đặt ra.
Căn cứ vào hình thức biểu hiện mối li ên hệ giữa các
th ành viên trong nhóm có nhóm chính thức; nhóm chính
thức là nhóm có cơ chế vận hành thông qua luật pháp và quản lý hành chính và nhóm
không chính thức là nhóm được hình thành từ những quan hệ tự phát; các
thành viên của nhóm có thủ lĩnh ri êng và quan h ệ theo những luật lệ không
thành văn nhưng được họ tán đồng, tự nguyện v à trung thành.
Căn cứ vào cách thức gia nhập của th ành viên có nhóm tự
nguyện và nhóm áp đặt, nhóm tự phát và nhóm có
tổ chức.
Tổ chức xã hội
là một phạm trù cơ bản của xã hội học. Trong các ngành khác nhau, khái ni ệm tổ
chức x ã hội được sử dụng gắn liền với đối tượng nghiên cứu của nó, nên có nhiều
ý nghĩa khác nhau.
Xã hội học coi tổ chức x ã hội là một thành tố của cấu trúc
x ã hội. Từ giác độ đó, có thể đi đến khái niệm: Tổ chức xã hội là một hệ thống các quan hệ, tập hợp, liên kết những cá
nhân nào đó để hoạt động xã hội, nhằm đạt được một mục đích nhất định.
Như vậy, khái
niệm tổ chức x ã hội của x ã hội học nhấn mạnh hệ thống các quan hệ li ên kết
cá nhân chứ không chỉ dừng lại ở h ình thức của một tập hợp những cá nhân nào
đó và mối quan hệ ở đây l à mối quan hệ xã hội.
Xét trên giác
độ nhóm, tổ chức x ã hội là một dạng nhóm thứ cấp (nhóm cấp II) khá phổ biến.
Tuy nhi ên, không ph ải nhóm thứ cấp n ào cũng là tổ chức xã hội. Để được coi
là tổ chức xã hội, nhóm thứ cấp cần phải có năm dấu hiệu đặc trưng dưới đây:
Thứ nhất, là nhóm xã hội có mục tiêu, có chủ
đích và có ý thức.
Thứ hai, quan hệ quyền lực phải được biểu
hiện cụ thể trong cấu trúc của nhóm; các thành viên c ủa nhóm được phân bố
trong mạng lưới các quan hệ quyền lực theo thứ bậc trên dưới, cao thấp; những
cá nhân có bậc thang quyền lực cao hơn có khả năng điều chỉnh hành vi, thái độ
của cá nhân ở nấc thang quyền lực thấp h ơn.
Thứ ba, cùng với hệ thống quyền lực, tổ chức
x ã hội, đồng thời là một tập hợp các vị thế v à vai trò. Vị thế của các th ành
viên trong t ổ chức xã hội được xác định rõ ràng, được tổ chức xã hội đó thừa
nhận, gắn liền với trách nhiệm v à quyền hạn nhất định. Để thể hiện đún g vị thế của các th ành viên, tổ chức
phải đặt ra những tập hợp các h ành vi được phép và và những hành vi không được
phép để kiểm soát và điều chỉnh hành vi của các thành viên.
Thứ tư, Vai trò của các thành viên trong tổ
chức xã hội được thể hiện theo yêu cầu của tổ chức. Tổ chức x ã hội thông qua
các quy tắc do mình đặt ra, điều chỉnh quan hệ giữa các th ành viên nhằm phối hợp
thực hiện vai trò của họ với mục đích đưa tổ chức đi vào nề nếp, ổn định.
Thứ năm, phần lớn các
tổ chức xã hội chính thức công khai hoá các mối quan hệ trong tổ chức cũng như
ngoài tổ chức, mục đích hoạt động của tổ chức. Quan hệ b ên trong và bên ngoài
c ủa tổ chức dựa tr ên hệ thống vị thế và vai trò xã hội đã được thừa nhận một
cách chính thức.
Tổ chức xã hội
được xem như một thể chế xã hội, một phương thức quản lý hay như là một thuộc
tính của x ã hội. Hình thức của tổ chức xã hội luôn thay đổi c ùng với những
thay đổi khách quan của ho àn cảnh xã hội và sự thay đổi chủ quan của con người.
Hướng chủ yếu của sự thay đổi về tổ chức xã hội là làm cho tổ chức ngày càng có
trình độ hoà hợp cao hơn, ngày càng phát huy khả năng tự quản. Nói cách khác,
đó là quá trình dân chủ hoá tổ chức. Mọi x ã hội dân chủ đều l à xã hội có tổ
chức.
Căn cứ vào mức độ hình thức hoá của
tổ chức
Có hai loại tổ chức l à tổ chức chính thức v à tổ chức
không chính thức như sau:
Tổ chức chính thức (tổ chức hình thức hoá) là tổ chức
có các quy tắc tổ chức chặt chẽ và được pháp luật thừa nhận. Loại tổ chức x ã hội
này có những chức năng rõ rệt, thể hiện ở nghĩa vụ, quyền lợi của của các thành
viên; có nh ững công cụ điều tiết l à những chuẩn mực h ành vi của mỗi th ành
viên; có nh ững mối li ên hệ theo thứ bậc của các chức vụ cũng như liên hệ chức
năng trong tổ chức.
Tổ chức không chính thức là tổ chức
không có quy tắc chặt chẽ, không có sự thừa nhận của pháp luật. Tổ chức không
chính thức h ình thành một cách tự phát ở b ên trong hoặc bên ngoài t ổ chức
chính thức. Có hai loại tổ chức không chính thức dưới đây:
+ Tổ chức
ngoài quy tắc là loại tổ chức được hình thành một cách tự phát giữa
các th ành viên của một tổ chức chính thức nhằm thực hiện những nhiệm vụ của tổ
chức đó nhưng lại không tuân theo những phương thức được quy định chính thức m
à có những liên hệ ngoài quy tắc và trong nhi ều trường hợp những li ên hệ
ngoài quy tắc lại tỏ ra hiệu quả hơn. Hai nhân tố tạo nên mối liên hệ bên trong
tổ chức ngo ài quy tắc là lợi ích chung và hiệu quả.
+ Tổ chức
tâm lý - xã hội là tổ chức được hình thành một cách tự phát, ở ngoài
tổ chức chính thức từ những liên hệ cá nhân của những người có chung nhu cầu
nào đó như thời trang, giải trí, học tập, văn học, nghệ thuật...
Tổ chức ngoài
quy tắc và tổ chức tâm lý - xã hội có khi thâm nhập vào nhau nhưng vẫn duy trì
những chức năng ri êng. Thực chất, tổ chức không chính thức là sự tự tổ chức của
những cá nhân được hình thành một cách tự nhiên gắn liền với mọi hệ thống xã hội,
mọi tổ chức. Ưu điểm của nó là tính hiệu quả trực tiếp v à nhanh chóng, linh ho
ạt về hình thức hoạt động. Nhược điểm của tổ chức n ày là tuy dễ hình thành
nhưng cũng dễ tan rã, gây nhiễu những li ên hệ chính thức v à thiếu phương hướng
bền vững.
Căn cứ vào mục tiêu
Căn cứ vào mục
tiêu, có thể chia tổ chức x ã hội thành tổ chức xã hội “có tổ chức” v à tổ chức
xã hội “không có tổ chức”.
Tổ chức xã hội “có tổ chức ” gồm hai loại nhỏ:
+ Tổ chức
quản lý (xí nghiệp, cơ quan...) nhằm giải quyết những nhiệm vụ nhất định, mục ti
êu của tổ chức được áp đặt cho các th ành viên và sự điều tiết b ên trong của
nó dựa vào quy tắc quản lý - bị quản lý.
+ Tổ chức
liên kết liên kết các hiệp hội quần chúng, trong đó, mục tiêu
chung trùng hợp với mục tiêu cá nhân ở mức độ nào đó, các tổ chức loại này được
điều tiết theo những quy tắc do các th ành viên thi ết lập thông qua điều lệ.
+ Tổ chức “không có tổ chức” (tổ chức tự
phát) bao gồm tổ chức liên hợp và tổ chức cư trú, trong đó:
+ Tổ chức
liên hợp (gia đình, trường phái khoa học, nghệ thuật...) với mục
ti êu chung trùng h ợp với mục ti êu cá nhân, các chức năng điều tiết hình
thành một cách tự phát theo những chuẩn mực v à giá trị tập thể, ít hoặc không
chính thức.
+ Tổ chức
cư trú được hình thành từ những cá nhân, những gia đình cùng chung địa bàn cư trú
nhằm giải quyết những vấn đề có li ên quan đến sinh hoạt chung v à những liên hệ
láng giềng ổn định.
Các loại tổ
chức x ã hội này có liên quan m ật thiết với nhau. Trong thực tế, nhiều trường
hợp còn lồng ghép vào nhau để tăng cường và bổ sung lẫn nhau trong hoạt động x
ã hội như trường hợp các tổ chức đo àn thể trong cơ quan.
Hiệp hội tự nguyện
Hiệp hội tự nguyện là dạng tổ
chức xã hội tương ứng với nhóm không chính th ức với những đặc điểm sau đây:
Hiệp hội được lập ra v ì nhu cầu và lợi ích của bản
thân các th ành
viên.
Việc gia nhập hiệp hội l à hoàn toàn t ự nguyện với những
ti êu chuẩn không khắt khe.
Hiệp hội tự nguyện không có mối li ên hệ trực tiếp với
các cơ quan quyền lực nhà nước. Như vậy, hiệp hội không chịu sự điều h ành, chỉ
đạo trực tiếp của các cơ quan chính quyền và các cấp chính quyền cũng không can
thiệp v ào các tổ chức tự n guyện nếu hoạt động của các hiệp hội nằm trong
khuôn khổ của pháp luật.
Các hiệp hội
tự nguyện không có một c ơ cấu chắc chắn hoặc một hệ thống quyền lực cưỡng bức
để duy tr ì hoạt động của m ình, mà chỉ dựa vào sự tự nguyện của các th ành
viên và m ột hệ thống hành động không bị ràng buộc chặt chẽ.
Các hiệp hội thu hút được khá đông th ành viên và ngu ồn
kinh phí thông qua quyên góp, tài tr ợ.
Các hiệp hội
tự nguyện có xu hướng ngày càng mở rộng gắn liền với trình độ phát triển của xã
hội. Đây là dạng tổ chức không thể thiếu trong đời sống xã hội, nhằm đáp ứng v
à thoả mãn nhu cầu vật chất v à tinh thần của các cá nhân trong x ã hội; thoả
mãn một phần nhu cầu tổ chức hoạt động sống của các th ành viên trong xã h ội,
đồng thời, vẫn tôn trọng tự do cá nhân của mỗi th ành viên.
Tổ chức biệt lập
Tổ chức
biệt lập là tổ chức xã hội được lập ra nhằm phục vụ những lợi
ích của nhà nước, của tôn giáo hoặc của những c ơ quan khác, tức là lợi ích xã
hội nói chung. Tổ chức biệt lập có những đặc điểm sau đây:
Các thành viên của tổ chức bị cô lập, tách biệt khỏi x
ã hội.
Rất nhiều luật
lệ, quy tắc do x ã hội và tổ chức biệt lập đặt ra để duy trì trật tự, đồng thời
khiến cho các th ành viên ph ải phụ thuộc lẫn nhau.
Tổ chức biệt lập thường có cơ cấu quan hệ phân cấp
trên - dưới rất rõ ràng và ch ặt chẽ.
Các tổ chức biệt lập có thể chia th ành nhiều loại
khác nhau:
Các tổ chức dành cho những cá nhân không thể chăm sóc
được bản thân như bệnh viện, nhà dưỡng lão, nhà trẻ mồ côi...;
Các tổ chức dùng để giam giữ, cách ly nhữn g phần tử bị coi l à nguy hiểm cho xã
hội như nhà tù, trại cải tạo, trại tập trung...;
Các tổ chức thực hiện những nhiệm vụ đặc biệt cho x ã
hội như doanh trại quân đội, tàu chiến, pháo đài...;
Các tổ chức biệt lập của tôn giáo như nhà dòng, tu viện...
Các tổ chức
biệt lập tồn tại do nhu cầu v à lợi ích chung của x ã hội. Chỉ khi nào xã hội
không có nhu cầu về sự tồn tại của các tổ chức biệt lập nữa thì các tổ chức này
mới chuyển hoá ho àn toàn thành các t ổ chức xã hội thông thường, hoặc có thể
xoá bỏ chú ng trong hệ thống tổ chức xã hội.
Hiện nay, ở
nhiều quốc gia, tính chất của các tổ chức biệt lập đang có nhiều thay đổi. Tính
biệt lập hoàn toàn đã giảm đi. Các th ành viên của tổ chức biệt lập đã được tiếp
xúc với thế giới b ên ngoài một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Bộ máy công chức
Bộ máy
công chức l à một hệ thống thứ bậc của quyền lực, nghĩa vụ và trách nhiệm. Hệ
thống này là một tổ chức chính thức có thể sử dụng vào hoạt động để hướng tới
những mục đích chuy ên biệt. Trong hệ thống công chức, tất cả
các vị trí, vai trò của các thành viên đã được sắp xếp theo một chương trình định
trước; do vậy, các mục đích chuy ên biệt có thể thực hiện được với hiệu quả
cao.
Bộ máy công
chức ra đời, tồn tại v à phát triển trong hệ thống tổ chức xã hội; trở thành một
loại hình hoạt động hiệu quả hơn các tổ chức khác. Nó s ử dụng tối đa khả năng
của người lao động v à giảm tới mức tối thiểu sức ép căng thẳng cũng như sự va
chạm trực tiếp giữa các thành viên của tổ chức trong quan hệ l ãnh đạo - phục
tùng để có thể đạt được mục đích.
Bộ máy công
chức có thể đặt các th ành viên vào nh ững vị trí đa dạng trong bậc thang quyền
lực tương ứng với trình độ tri thức và năng lực thực sự của mỗi th ành viên.
Theo nhà phân t ầng học nổi tiếng người Đức Max Weber, bộ máy công chức có năm đặc tính
chính sau đây:
Đặc tính chuy ên môn hoá yêu cầu mỗi
thành viên trong hệ thống công chức thực hiện một số nhiệm vụ chuy ên môn hẹp
được ấn định theo quy chế. Hệ thống n ày yêu cầu quá trình chuyên môn hoá cao h
ơn các loại hình tổ chức xã hội khác. Quá trình chuyên môn hoá t ạo ra lợi thế
trong nhiều khâu hoạt động trong đó có khâu đ ào tạo; nó cho phép thực hiện quy
trình đào tạo cá nhân theo một nhiệm vụ hoặc chuy ên môn hẹp.
Đặc tính ti êu chuẩn và chất lượng đòi hỏi các
tổ chức trong hệ thống bộ máy công ch ức phải tuyển chọn nhân vi ên thoả mãn những
yêu cầu đã được đề ra trước. Mỗi một vị trí trong hệ thống đó đ òi hỏi những
tiêu chuẩn và chất lượng tương ứng. Các tiêu chuẩn và chất lượng đó cũng có ý
nghĩa bảo vệ người nhân viên khỏi sự đối xử bấ t công trong vi ệc xử lý các vấn
đề về quyền lợi, trách nhiệm v à nghĩa vụ của họ.
Đặc tính quy tắc thành văn bắt buộc các
tổ chức trong hệ thống bộ máy công chức phải điều h ành hoạt động của các th
ành viên b ằng các quy định và quy ch ế một cách r õ ràng, được ban hành thành
văn bản quản lý như điều lệ, nội quy, quy chế...
Đặc tính thứ bậc quyền lực chứng tỏ một
hiện thực hết sức quan trọng là trong hệ thống bộ máy quyền lực bao giờ cũng tồn
tại một hệ thống thứ bậc quyền lực. Mỗi cá nhân có một vị trí t heo thứ bậc
trên dưới và kèm theo đó là trách nhi ệm, quyền hạn v à phận sự. Mỗi cá nhân phải
chấp nhận thứ bậc đó v à chấp nhận các cá nhân ở thứ bậc tr ên trực tiếp thông
qua cơ chế kiểm tra, giám sát, chấp h ành và báo cáo. Các t ổ chức trong bộ máy
công chức dù lớn hay nhỏ đều có sự r àng buộc các cá nhân gắn chặt với nhau th
ành hệ thống móc xích, mà trong đó, cấp dưới phải chấp h ành mệnh lệnh của cấp
tr ên.
Đặc tính đối xử lãnh đạm yêu cầu các
thành viên trong hệ thống bộ máy công chức sống v à làm việc theo phận sự, nghĩa
vụ trên căn bản mối quan hệ công tác thiếu cảm xúc v à mang tính lãnh đạm. Kiểu
quan hệ lãnh đạm trong chừng mực nào đó là cần thiết bởi vì nếu tất cả mọi cá
nhân trong tổ chức đều xây dựng mối quan hệ công việc phi chính tắc thì ít nhiều
sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của bộ máy.
Bộ máy công
chức là một dạng tổ chức xã hội có nhiều ưu điểm hơn các dạng tổ chức x ã hội
khác nhưng không phải là hoàn hảo. Bản thân dạng tổ chức n ày chứa đựng những
khiếm khuyết, xét cả những yếu tố bên trong cũng như bên ngoài bộ máy và thường
đặt ra nhiều vấn đề khó giải quyết như con người công chức, chủ nghĩa h ình thức...
cần phải đề phòng và khắc phục.
Quyền lực xã hội
Một trong những
lý do để tổ chức x ã hội tồn tại v à phát triển là sự phân chia quyền lực xã hội.
Nhưng quyền lực không chỉ tồn tại trong các tổ chức xã hội mà còn tồn tại trong
các nhóm x ã hội (dân tộc, giai cấp, gia đình...).
Quyền lực xã hội là một loại quan hệ x ã hội (theo chiều dọc) biể u hiện
ở khả năng một cá nhân hoặc một nhóm trong việc điều khiển h ành vi, thái độ,
quan điểm của cá nhân khác, của nhóm khác.
Quyền lực xã
hội có thể có từ những nguồn gốc khác nhau nh ư tôn giáo, kinh tế, chính trị...
nhưng điểm thống nhất của quyền lực là sức mạnh cưỡng chế của nó dựa tr ên những
phương tiện và biện pháp trừng phạt những cá nhân n ào không tuân th ủ.
Xã hội học dựa
tr ên sự phân tích mối quan hệ của chủ thể v à khách thể (đối tượng) của quyền
lực để phân biệt quyền lực tiến bộ hay quyền lực phản động. Chủ thể và khách thể
thực hiện quyền lực xã hội có thể là một cá nhân, một nhóm xã hội hay một cộng
đồng xã hội. Thực chất của quyền lực chính l à việc giới hạn đồng thời với việc
nới rộng mức độ tự do của chủ thể v à khách th ể thực hiện quyền lực.
Quyền lực xã
hội có thể biểu hiện dưới hình thức cưỡng bức v à quyền uy. Cưỡng bức l à một dạng
quyền lực có sử dụng một cách ép buộc về thể xác v à tinh thần để áp đặt ý chí
của người này cho người khác. Uy quyền là một dạng quyền lực được sự đồng t ình
của công chúng, được hợp thức hoá theo thứ bậc để người ra lệnh kiểm soát h ành
vi của người dưới quyền. Khi người lãnh đạo thiếu sự đồng tình của nhóm thành
viên thì th ường thực thi quyền lực của m ình bằng dạng quyền lực cưỡng bức hoặc
phải chấp nhận chia sẻ, hay, thậm chí từ bỏ quyền lực đó.
Ngoài hai dạng
thức cơ bản nêu trên của quyền lực x ã hội, còn tồn tại những dạng quyền lực
khác như quyền lực tuyệt đối v à quyền lực giới hạn, quyền lực quân chủ, quyền
lực thiểu số, quyền lực dân chủ...
Trật tự xã hội
Trật tự
xã hội là khái niệm chỉ sự hoạt động h ài hoà của các th
ành phần trong cấu trúc x ã hội. Trật tự xã hội biểu hiện tính tổ
chức của đời sống xã hội, tính chuẩn mực của hành động xã hội. Nhờ có trật tự x
ã hội mà hệ thống xã hội đạt được sự ổn định và hoạt động một cách hiệu quả dưới
tác động của các yếu tố b ên trong và bên ngoài xã h ội.
Các cơ chế đảm
bảo cho trật tự x ã hội là các thiết chế xã hội (chủ yếu là quan hệ về kinh tế
giữa các nhóm hoặc giai cấp x ã hội). Các lợi ích này sẽ được điều chỉnh cho đến
khi nào đạt được sự công bằng theo quan niệm của một x ã hội nào đó cụ thể.
Thông qua chức năng kiểm soát xã hội, các thiết chế x ã hội đảm bảo tính ổn định,
tính có thể dự đoán, tính có thể điều khiển của những h ành vi cá nhân (tuân
theo những giới hạn xã hội). Một khi h ành vi của cá nhân vượt qua giới hạn này
sẽ làm giảm bớt sự ổn định v à trật tự xã hội.
Biểu hiện bên
ngoài của sự phá vỡ tính ổn định v à trật tự xã hội là sự suy giảm tính năng động
của hệ thống, xuất hiện sự tr ì trệ, hoặc là xung đột xã hội tăng lên về phạm
vi và số lượng; hay là suy giảm mức độ hài lòng về xã hội của dân cư; hoặc giả
là sự tăng lên về số lượng những hiện tượng chống đối x ã hội như bãi công, bãi
khoá, b ạo động...
Sự vi phạm
tính ổn định v à trật tự xã hội mang tính chất định tính hoặc định lượng. Nó
mang tính định lượng trong trường hợp t ình huống và hệ thống xã hội có thể khắc
phục được. Nó mang tính định tính khi sự vi phạm n ày chuyển thành một cuộc khủng
hoảng x ã hội, dẫn đến việc chuyển đổi hệ thống xã hội sang một dạng mới hơn về chất.
Đối lập với trật
tự x ã hội là rối loạn xã hội. Trong đó, các th ành phần của cấu trúc x ã hội
hoạt động không nhịp nhàng. Các hành động của chủ thể xã hội xung đột với nhau
do sự khác biệt lợi ích hoặc thiếu hụt các giá trị, chuẩn mực để đối chiếu.
Kiểm soát xã hội
Kiểm
soát xã hội là sự bố trí các chuẩn mực, các giá trị c ùng những chế tài để ép
buộc việc thực hiện chúng. Sự kiểm soát nhằm đưa các hành vi
của các cá nhân, các nhóm v ào các khuôn mẫu đã được xã hội thừa nhận là đúng,
dùng các ch ế tài tiêu cực để đẩy lùi các hành vi lệch chuẩn v ào khuôn phép
hay vào tr ật tự.
Chức năng kiểm
soát x ã hội là tạo ra những điều kiện cho sự bền vững, ổn định v à trật tự xã
hội, mặt khác tạo ra những thay đổi mang tính hợp lý và tích cực (thay đổi
trong khuôn khổ được phép, không ảnh hưởng xấu đến độ bền vững v à tính ổn định
của hệ thống xã hội).
Kiểm soát x ã
hội cần phải có tính mềm dẻo, linh hoạt; như vậy chức năng kiểm soát mới có thể
nhận biết ý nghĩa của những sai lệch chuẩn mực. Nhữn g sai lệch nào có tính ch ất tiêu cực,
đe doạ phá hoại sự ổn định và trật tự xã hội, còn những sai lệch n ào là mầm mống
của sự tiến bộ, của sự phát triển. Nếu như kiểm soát xã hội không thể phân định
và kiểm soát được vấn đề n ày thì nó s ẽ triệt ti êu mọi nhân tố tích cực của sự
phát triển xã hội.
Thông qua quá
trình xã h ội hoá để các cá nhân tiếp nhận cơ chế kiểm soát xã hội. Trong quá
tr ình này, các cá nhân, m ột mặt, tiếp nhận cách hành động, cách nhận thức như
thế nào là chuẩn, là đúng, mặt khác, các cá nhân có thể thực hiện sự tự kiểm
soát (điều chỉnh h ành vi của mình bằng cách so sánh, đối chiếu h ành vi của
mình với các giá trị và chuẩn mực đ ã tiếp nhận). Nhờ đó, các cá nhân có thể thực
hiện tốt những yêu cầu của xã hội với các vai tr ò mà họ đảm nhận.
Kiểm soát xã hội biểu hiện trong mọi lĩnh vực của đời
sống x ã hội để các cá nhân tiếp nhận cơ chế kiểm soát x ã hội dưới dạng kiểm
soát chính thức và kiểm soát không chính thức. Trong đó:
Kiểm soát chính thức gắn liền với hoạt động của một số
tổ chức chính thức, với các quy định v à luật lệ để ép buộc các tổ chức phải
tuân theo. Những tổ chức n ày là những tổ chức thi h ành pháp lu ật như công
an, toà án, vi ện kiểm sát, trại giam...
Kiểm soát phi chính thức thường gắn liền với các tổ chức
x ã hội không chính thức và các nhóm sơ cấp, gắn liền với phản ứng xã hội (thái
độ tán thành, ủng hộ hay chê trách, phản đối) không công khai v à chỉ phổ biến
trong các nhóm nhỏ.
Khái niệm thiết chế x ã hội
Xã hội muốn tồn
tại v à phát triển thì phải dựa vào thiết chế xã hội để tổ chức, điều chỉnh v à
kiểm soát các hoạt động x ã hội của các cá nhân, các nhóm xã h ội và xã hội. Xã
hội học xin được giới thiệu một số khái niệm về thiết chế x ã hội như sau:
Thiết chế xã hội là các ràng bu ộc xã hội được xã hội
chấp nhận và được hầu hết các cá nhân, nhóm x ã hội và cả xã hội tuân thủ.
Thiết chế xã hội là một hệ thống các quan hệ x ã hội ổn
định, tạo nên một loạt các khuôn mẫu x ã hội thống nhất, được xã hội công k hai
thừa nhận nhằm mục đích thoả m ãn các nhu c ầu cơ bản của xã hội.
Thiết chế xã hội là một kiểu tổ chức hoạt động x ã hội
và quan hệ xã hội nhất định, đảm bảo tính bền vững v à tính kế thừa cho các
quan hệ đó.
Từ những khái niệm về thiết chế x ã hội đã dẫn, xã hội học
khái quát định nghĩa: Thiết chế xã hội
là hình thức cộng đồng và hình thức tổ chức của con người trong quá trình tiến hành các hoạt động
xã hội. Thiết chế xã hội chính l à các ràng bu ộc được mọi cá nhân, nhóm cộng đồng
và toàn thể xã hội chấp nhận và tuân thủ.
Đặc trưng của thiết chế x ã hội
Mỗi một thiết
chế có đối tượng riêng để hướng tới phục vụ, nhằm đáp ứng các nhu cầu xã hội
chuyên biệt liên quan đến đối tượng. Để làm được điều đó, mỗi thiết chế x ã hội
lại có những chức năng ri êng, cụ thể:
Các thiết chế xã hội bao gồm các giá trị cơ bản mà các
giá trị đó được các thành viên thừa nhận.
Các quan h ệ được thiết lập trong thiết chế đó tỏ ra
khá bền vững, các khuôn mẫu hành vi được hình thành trong thi ết chế trở th ành
một phần truyền thống văn hoá của một cộng đồng x ã hội như dấu ấn của gia đình
truyền thống ảnh hưởng sâu sắc đến gia đ ình hiện đại ở các x ã hội phương
Đông.
Mỗi một thiết chế x ã hội có tính độc lập tương đối của
nó v à có tầm bao quát rộng đến mức các hoạt động của nó chiếm một vị trí trung
tâm trong xã h ội. Mỗi một thiết chế tự nó được cấu trúc ở mức cao v à được tổ
chức và được tổ chức xung quanh hệ thống các giá trị, chuẩn mực, quy tắc, các
khuôn mẫu đ ã được xã hội thừa nhận.
Mục tiêu của một thiết chế được đại đa số các thành
viên của xã hội thừa nhận, cho dù thành viên đó có tham gia trực tiếp hay không
vào trong thi ết chế. Một cá nhân nào đó chỉ chú trọng đến công tác chuyên môn,
không quan tâm đến các vấn đề chính trị, nhưng cá nhân không thể không thừa nhận
sự cần thiết phải có thiết chế nhà nước trong xã hội.
Mặc dù các thiết chế xã hội có tính độc lập tương đối,
nhưng giữa chúng có mối quan hệ tương tác với nhau hết sức chặt chẽ. Khi có sự
thay đổi về cơ cấu tổ chức hay khuôn mẫu h ành vi của một thiết chế nào đó, có
thể kéo theo sự thay đổi của các thiết chế các lĩnh vực khác.
Khi trong thi
ết chế chính trị diễn ra sự thay đổi về giai cấp cầm quyền thì có thể ảnh hưởng
đến thiết chế kinh tế (các tổ chức kinh tế, pháp luật kinh tế...).
Các yếu tố hợp th ành thiết chế xã hội
Các đặc trưng
nêu trên được biểu hiện một cách chi tiết, cụ thể ở những đơn vị nhỏ nhất của một
thiết chế x ã hội.
Các thành tố
chung nhất của thiết chế x ã hội được cô đọng trong ba phạm trù sau đây:
Các biểu tượng văn hoá là các dấu
hiệu để giúp gợi nhớ diện mạo của thiết chế. Các biểu tượng đó có thể l à vật
chất hoặc mang tính tinh thần như quốc kỳ, quốc ca, ch ùa, nhà thờ...
Mã hoá hành vi là sự chỉ đạo tư cách đạo đức của
các cá nhân thích hợp với vai tr ò. Với sự tham gia của p hạm trù mã hoá hành
vi, các cá nhân sẽ ít bị lệch chuẩn khỏi thiết chế.
Hệ tư tưởng là hệ thống các tư tưởng liên kết
lại với nhau để giải thích cho sự tồn tại hợp lý của đạo đức, quyền lợi kinh tế,
chính trị của một nhóm x ã hội đặc thù. Hệ tư tưởng chính trị bao giờ cũng biện
hộ cho giai cấp cầm quyền, hệ tư tưởng tôn giáo biện hộ cho niềm tin v ào thần
tượng tôn giáo...
Quy định hành vi
Các thiết chế
cơ bản cho các cá nhân hoạt động với các kiểu h ành vi xã hội được chấp nhận
trong nhiều trạng thái x ã hội khác nhau. Thông qua xã h ội hoá, đồng thời với
sự hoạt động của các thiết chế, các cá nhân ti ếp nhận các khuôn mẫu h ành vi
và th ực hiện theo các khuôn mẫu đó tuỳ theo từng t ình huống cụ thể.
Định hướng vai trò xã hội của cá
nhân
Các thiết chế
xác định phần lớn các vai tr ò của cá nhân m à xã hội chấp thuận để cá nhân nhận
biết trong quá tr ình xã hội hoá. Từ đó, các cá nhân có thể lựa chọn vai trò
nào đó đối với mình là phù hợp, có thể biết được sự mong đợi của vai trò trước
khi cá nhân đó thể hiện (x ã hội hoá đón trước).
Đem lại sự ổn định và kiên định cho
các th ành viên của xã hội
Để các cá
nhân hướng nhận thức của m ình tới các thiết chế x ã hội như là một sự chấp nhận
các giá trị, chuẩn mực x ã hội và khuôn mẫu hành vi, nh ằm củng cố nhận thức v
à thống nhất hành động của mọi thành viên trong xã h ội.
Điều chỉnh và kiểm soát hành vi của
các cá nhân, các nhóm xã hội để chúngph ù hợp với mong đợi của x ã hội
Ngoài các ch ức
năng cơ bản (chức năng chung) n êu trên, còn có chức năng riêng biệt cho các loại
thiết chế ri êng lẻ.
Các nhà xã hội
học phân biệt hai loại chức năng ri êng biệt của thiết chế (xét theo h ình thức
biểu hiện) l à chức năng công khai của thiết chế
là những phần bộc lộ ra bên ngoài để cho các th ành viên trong nhóm hoặc xã hội
nhận hội biết một cách r õ ràng và chức năng tiềm ẩn là chức năng
không bộc lộ ra b ên ngoài một cách rõ ràng, do đó, các thành viên trong xã h ội
hoặc trong nhóm không nhận thấy được.
Giữa các thiết
chế đôi khi xảy ra sự di chu yển chức năng. Sự di chuyển này xảy ra khi xuất hiện
một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau đây:
Thiết chế không đáp ứng được nhu cầu;
Các thiết chế
đều có khả năng đáp ứng được nhu cầu, nhưng một trong số đó nổi trội hơn, có khả
năng đáp ứng ở mức độ cao hơn so với các thiết chế khác.
Có nhiều cách
phân loại thiết chế x ã hội khác nhau dựa tr ên các tiêu chí khác nhau như tính
cưỡng bức, phạm vi áp dụng, giá trị x ã hội. Để dễ dàng phân biệt, xã hội học
có thể chia thiết chế xã hội thành hai loại là thiết chế
chủ yếu và thiết chế phụ thuộc. Căn cứ để
thực hiện sự phân chia này là ba đặc điểm nổi bật như sau:
Tính phổ
quát;
Sự cần thiết;
Tầm quan trọng
của các thiết chế.
Những thiết
chế chủ yếu l à thiết chế có tính phổ quát cao nhất, cần thiết nhất cho x ã hội
và được coi là quan trọng nhất cho lợi ích của cá nhân và xã h ội. Dưới đây,
xin giới thiệu những thiết chế chủ yếu (bao gồm các thiết chế phụ thuộc k èm
theo) và nh ững chức năng chuy ên biệt của những thiết c hế chủ yếu đó:
Thiết chế gia đình là hệ thống quy định ổn định v à
tiêu chuẩn hoá quan hệ tính giao nam nữ để duy tr ì nòi giống của con người.
Hình thức phổ biến của thiết chế gia đ ình hiện nay là chế độ một vợ, một chồng
sống với các con trong gia đ ình. Các thiết chế phụ thuộc nằm trong thiết chế
gia đ ình là thiết chế hôn nhân, nuôi dưỡng con, quan hệ họ hàng... Các chức
năng chuyên biệt của thiết chế gia đ ình gồm có:
+ Điều chỉnh hành vi tình dục và giới;
+ Duy trì sự
sinh sản các thành viên trong gia đ ình từ thế hệ này sang thế hệ khác;
+ Chăm sóc, bảo
vệ trẻ em, người già và phụ nữ;
+ Xã hội hoá
trẻ em;
+ Gắn vai trò
và thiết lập vị thế đã được thừa kế từ gia đ ình;
+ Đảm bảo
cung cấp kinh tế gia đ ình.
Thiết chế
giáo dục là quá trình xã hội hoá phát triển một cách không
chính th ức ngay trong gia đ ình và trong môi tr ường văn hoá chung và m ột
cách chính thức trong tổ chức giáo dục phức tạp của x ã hội. Các thiết chế phụ
thuộc l à thi tuyển, bằng cấp, học vị... Các chức năng chuyên biệt của thiết chế
giáo dục là:
+ Chuẩn bị nghề
nghiệp x ã hội cho cá nhân;
+ Truyền bá
và chuyển giao di sản văn hoá qua các thế hệ;
+ Giúp cá
nhân làm quen d ần với các giá trị x ã hội;
+ Chuẩn bị cho các cá nhân tiếp nhận các vai tr ò xã hội
và đảm nhận các vai trò phù hợp với sư mong đợi của xã hội;
+ Tham gia kiểm
soát và điều chỉnh hành vi cá nhân c ũng như các quan hệ xã hội.
Thiết chế kinh tế là thiết chế mà nhờ đó xã hội được
cung cấp đầy đủ về vật chất v à dịch vụ. Nó bao gồm chủ yếu quá tr ình sản xuất,
phân phối và trao đổi các sản phẩm. các thiết chế phụ thuộc l à tín dụng, ngân
hàng, qu ảng cáo, hợp đồng kinh tế... Các chức năng chuy ên biệt của thiết chế
kinh tế gồm có:
+ Sản xuất,
trao đổi h àng hoá và d ịch vụ;
+ Phân phối
hàng hoá và d ịch vụ;
+ Tiêu dùng sản
phẩm và sử dụng dịch vụ.
Thiết chế chính trị là biểu hiện
tập trung nhất về quan hệ chính trị tồn tại trong x ã hội. Thiết chế chính trị
quyết định bản chất giai cấp của hệ hệ thống chính trị - xã hội, quyết định mức
độ dân chủ hoá các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các thiết chế phụ thuộc là hệ
thống pháp luật, hệ thống to à án, cảnh sát, quân đội. Các chức năng ri êng biệt
của thiết chế chính trị l à:
+ Thể chế hoá
hiến pháp, các bộ luật hoặc các quy định d ưới luật vào đời sống xã hội;
+ Thực thi các điều luật đ ã được thông qua;
+ Giải quyết
các xung đột x ã hội về quyền lực chính trị giữa các nhóm thành viên xã h ội;
+ Thiết lập
các bộ phận dịch vụ an sinh x ã hội như chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, giáo dục,
phúc lợi.
Thiết chế tôn giáo được biểu hiện bằng các tín ngưỡng
và hình thức thờ phụng mà con người đang thực hiện. Thiết chế tôn giáo bao gồm
hệ thống luân lý và đạo đức, chỉ rõ điều phải trái trong những khuôn mẫu tác
phong. Các thiết chế phụ thuộc l à thể thức cầu nguyện, nghi thức tổ chức h ành
lễ... Các chức năng chuy ên biệt của thiết chế tôn giáo là:
+ Thoả mãn nhu cầu tâm linh của các th ành viên trong
xã h ội;
+ Thúc đẩy sự hoà đồng và cố kết xã hội thông qua cộng
đồng tôn
giáo;
+ Tạo ra văn
hoá tôn giáo (tiểu văn hoá , một khía cạnh bản sắc văn hoá dân tộc).
Những thiết
chế phụ thuộc l à những thiết chế cụ thể, chi tiết nằm trong thiết chế chủ yếu.
Các thiết chế
chủ yếu đ ã nêu trên có m ối qua lại ở mức độ cao. Trong quá trình vận động và
phát triển, hệ thống xã hội cần thiết phải duy trì sự cân bằng v à ổn định của
các thiết chế chủ yếu. Bởi v ì nhiều chức năng của các thiết chế chủ yếu có thể
có một phần hay to àn bộ trùng nhau, ho ặc gối nhau, cho n ên, việc duy trì sự
cân bằng của các thiết chế trong c ùng một thời gian, cùng m ột vị trí là hết sức
khó khăn.
Các thiết chế
xã hội hình thành, tồn tại và phát triển để phục vụ cho một xã hội nhất định. Bởi
vậy, giữa chúng phải có sự phối hợp, hỗ trợ và bảo vệ lẫn nhau. Thiết chế giáo
dục v à thiết chế chính trị bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với nhau từ trung ương
đến cơ sở. Hơn thế nữa, sự thay đổi vị trí của một thiết chế thường sẽ dẫn đến
sự thay đổi vị trí của một thiết chế khác.
Giữa các thiết
chế x ã hội cũng không tránh khỏi mâu thuẫn v à sự cạnh tranh. Mâu thuẫn v à cạnh
tranh có thể dẫn đến sự suy yếu ở một hoặc nhiều th ành phần trong thiết chế.
Chẳng hạn, sự cạnh tranh giữa thiết chế chính trị v à thiết chế tôn giáo có thể
làm thay đổi thành phần, cơ cấu các giáo sĩ trong nghị viện.
Xu hướng hợp
tác giữa các thiết chế là xu hướng cơ bản, xuyên suốt quá trình vận động, biến
đổi v à phát triển của xã hội. Đó là điều kiện để duy trì ổn định và trật tự xã
hội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét