CHƯƠNG MỞ ĐẦU
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
VÀ Ý NGHĨA HỌC TẬP MÔN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1.
Khái niệm tư tưởng và tư tưởng
Hồ Chí Minh
a.
Khái niệm tư tưởng
Tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu
hiện quan hệ của con người với thế giới chung quanh. Trong thuật ngữ tư tưởng Hồ
Chí Minh, khái niệm tư tưởng có ý nghiã ở tầm khái quát triết học. Tư tưởng ở
đây không phải dùng với ý nghĩa tinh thần – tư tưởng, ý thức, tư tưởng của một
cá nhân, một cộng đồng mà với nghĩa là một hệ thống những quan điểm, quan niệm,
luận điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học ( thế giới quan và phương
pháp luận ) nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một
dân tộc, được hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt
động thực tiễ, cải tạo hiện thực.
Khái niệm tư tưởng liên quan trực tiếp đến khái niệm nhà
tư tưởng. Một người xứng đáng là nhà tư tưởng khi người đó biết cách giải quyết
trước người khác tất cả những vấn đề chính trị - sách lược, các vấn đề về tổ chức,
về những yếu tố vật chất của phong trào không phải một cách tự phát.
b. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Quá trình nhận thức của Đảng
ta về tư tưởng Hồ Chí Minh đi từ thấp đến cao, từ những vấn đề cụ thể đến hệ thống
hoàn chỉnh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII ( tháng 6 – 1991 )
đánh dấu một cột mốc quan trọng trong nhận thức của Đảng về tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đảng ta đã khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Văn kiện của Đại hội định
nghĩa: “ tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta, và trong thực tế tư tưởng Hồ
Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc
”.
Kể từ sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng,
công tác nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh được tiến hành nghiêm túc và đạt được
những kết quả quan trọng. Những kết quả nghiên cứu đó đã cung cấp luận cứ khoa
học có sức thuyết phục để Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và XI của Đảng
xác định khá toàn diện và có hệ thống những vấn đề cốt yếu thuộc nội hàm khái
niệm tư tưởng Hồ Chí Minh. “ Tư tưởng Hồ
Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại;
là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi
soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi “
Trong định nghĩa này, Đảng ta đã làm rõ được:
- Bản chất cách mạng, khoa học và nội dung của tư tưởng Hồ
Chí Minh: đó là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam, phản ánh những vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt
Nam; tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam hành động của Đảng và dân tộc Việt Nam.
- Nguồn gốc tư tưởng, lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh:
Chủ nghĩa Mác – Lênin; giá trị văn hóa dân tộc; tinh hoa văn hoa nhân loại.
- Giá trị, ý nghĩa, sức hấp dẫn, sức sống lâu bền của tư
tưởng Hồ Chí Minh: Tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc, mãi mãi soi đường
cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
Dựa trên định hướng cơ bản các văn kiện đại hội của Đảng
Cộng sản Việt nam, các nhà khoa học đã đưa ra định nghĩa:
“ Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam; từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội
chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác –
Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc
và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng
con người “
Dù định nghĩa theo cách nào, tư tưởng Hồ Chí Minh đều được
nhìn nhận với tư cách là một hệ thống lý luận. Hiện nay, tồn tại hai phương thức
tiếp cận hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh đuợc nhận diện như một hệ thống
tri thức tổng hợp, bao gồm: tư tưởng triết học, tư tưởng kinh tế, tư tưởng
chính trị, tư tưởng quân sự, tư tưởng văn hóa, đạo đức và nhân văn.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, bao gồm: tư tưởng về vấn đề dân tộc và
cách mạng giải phóng dân tộc; về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội, về Đảng Cộng sản Việt Nam, về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế,
về dân chủ, nhà nước của dân; do dân; vì dân, về văn hóa, đạo đức,…
Giáo trình này vận dụng phương thức tiếp cận thứ hai để
giới thiệu và nghiên cứu hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
Là một hệ thống lý luận, tư tưởng Hồ Chí Minh có cấu trúc
lôgic chặt chẽ và có hạt nhân cốt lõi, đó là tư tưởng về độc lập dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội nhằm giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
2.
Đối tượng và nhiệm vụ của môn học Tư tưởng Hồ
Chí Minh
a.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh bao
gồm hệ thống các quan điểm, quan niệm, lý luận về cách mạng Việt Nam trong dòng
chảy của thời đại mới mà cốt lõi là tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Các quan điểm cơ bản của hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ
được phản ánh trong các bài nói, bài viết, mà còn được thể hiện qua quá trình
chỉ đạo thực tiễn cách mạng phong phú của Người; được Đảng Cộng sản Việt Nam vận
dụng, phát triển sáng tạo qua các giai đoạn cách mạng.
Như vậy, đối tượng của môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh không
chỉ là bản thân hệ thống các quan điểm, lý luận được thể hiện trong toàn bộ di
sản của Hồ Chí Minh mà còn là quá trình vận động, hiện thực hóa các quan điểm,
lý luận đó trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó là quá trình mang tính quy luật,
bao gồm hai mặt thống nhất biện chứng: sản sinh tư tưởng và hiện thực hóa tư tưởng
theo các mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ, chủ nghĩa xã hội; giải phóng dân tộc;
giải phóng giai cấp; giải phóng con người.
b. Nhiệm vụ
nghiên cứu
Trên cơ sở đối tượng nghiên
cứu, môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh có nhiệm vụ đi sâu nghiên cứu làm rõ các nội
dung sau.
-
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, qua đó khẳng định sự
ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh là một tất yếu khách quan và giải đáp các vấn đề
lịch sử dân tộc đặt ra.
-
Các giai đoạn hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
-
Nội dung, bản chất cách mạng, khoa học, đặc điểm của các quan
điểm trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh
-
Vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của tư tưởng
Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam
-
Quá trình nhận thức, vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh qua các giai đoạn cách mạng của Đảng và Nhà nước ta
-
Các giá trị tư tưởng, lý luận của Hồ Chí Minh đối với kho
tàng tư tưởng, lý luận cách mạng thế giới của thời đại.
3. Mối quan hệ với môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin và môn học Đường lối cách Mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh có quan hệ chặt chẽ với Hồ
Chí Minh học, các khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt là với môn học lý luận
chính trị.
a.
Mối quan hệ với môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mac – Lênin
Chủ nghĩa Mac –
Lênin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận, nguồn gốc tư tưởng, lý luận trực
tiếp quyết định bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí
Minh là người trung thành, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mac –
Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Cuộc đời, sự nghiệp của Hồ
Chí Minh và sự nghiệp của Đảng ta, của cách mạng Việt Nam, thông qua tổng kết
thực tiễn, đã góp phần làm phong phú, bổ sung và phát triển các nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mac – Lênin.
Tư tưởng Hồ Chí
Minh thuộc hệ tư tưởng Mac – Lênin, là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mac – Lênin vào điều kiện thực tế Việt Nam, vì vậy, môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh với môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac –
Lênin có mối quan hệ chặt chẽ. Muốn nghiên cứu tốt, giảng dạy và học tập tốt
tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải nắm vững kiến thức về những nguyên lý của chủ
nghĩa Mac – Lênin.
b. Mối quan hệ
với môn học Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Hồ Chí Minh là
người cộng sản đầu tiên của Việt Nam; người sáng lập, giáo dục, rèn luyện và là
lãnh tụ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bản thân Hồ Chí Minh là người tìm kiếm, lựa
chọn con đường, vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn cho dân tộc và lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng Việt Nam theo mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Trong quan hệ với môn học Đường lối
cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận
tư tưởng của Đảng, nhưng với tư cách là bộ phận nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
hành động của Đảng, là cơ sở khoa học cùng với chủ nghĩa Mac – Lênin để xây dựng
đường lối, chiến lược, sách lược cách mạng đúng đắn. Như vậy, môn học tư tưởng Hồ Chí Minh gắn bó chặt chẽ với
môn học Đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Nghiên cứu, giảng dạy, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm
trang bị cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học để nắm vững kiến thức về
đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Với tư cách là
một môn học có tính độc lập trong hệ thống các môn lý luận chính trị, Tư tưởng Hồ Chí Minh có cơ sở phương pháp luận và các phương pháp
nghiên cứu riêng.
1. Cơ sở
phương pháp luận
Nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn học Tư tưởng
Hồ Chí Minh phải trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ
nghĩa Mac – Lênin và bản thân các quan điểm có giá trị phương pháp luận của Hồ
Chí Minh.
Trong đó, các
nguyên lý triết học Mac – Lênin với tư cách là phương pháp luận chung của các
ngành khoa học cần phải được sử dụng như một công cụ tư duy quan trọng. Dưới
đây là một số nguyên tắc phương pháp luận trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh.
a. Bảo đảm sự thống nhất nguyên tắc tính đảng
và tính khoa học
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh phải đứng trên lập trường, quan điểm, phương pháp luận chủ nghĩa Mac –
Lênin và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam; bảo đảm tính khách quan
khi phân tích, lý giải và đánh giá tư tưởng Hồ Chí Minh, tránh việc áp đặt, cường
điệu hóa hoặc hiện đại hóa tư tưởng của Người. Tính đảng và tính khoa học thống
nhất với nhau trong sự phản ánh trung thực, khách quan tư tưởng Hồ Chí Minh
trên cơ sở lập trường, phương pháp luận và định hướng chính trị.
b. Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc lý luận
gắn liền với thực tiễn
Chủ nghĩa Mac – Lênin cho rằng,
thực tiễn là nguồn gốc, là động lực của nhận thức, là cơ sở và là tiêu chuẩn của
chân lý. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn bám sát
thực tiễn cách mạng dân tộc và thế giới, coi trọng tổng kết thực tiễn như là biện
pháp không chỉ nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn, mà còn là điều kiện để
nâng cao trình độ lý luận. Đồng thời, Người cũng đặc biệt coi trọng việc kết hợp
lý luận với thực tiễn, lời nói đi đôi với việc làm. Hồ Chí Minh khẳng định: thực
tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng, dễ mắc bệnh chủ quan; lý luận mà không liên hệ với
thực tiễn là lý luận suông. Hồ Chí Minh là người luôn xuất phát từ thực tiễn Việt
Nam, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mac – Lênin vào thực tiễn đất nước,
đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó
khăn, thử thách, giành được những thắng lợi vẻ vang.
Vì vậy, nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải
quán triệt tư tưởng lý luận gắn liền với thực tiễn, học đi đôi với hành, phải
biết vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống, thực tiễn, phục vụ cho sự
nghiệp cách mạng của đất nước.
c. Quan điểm lịch sử - cụ thể
Cùng với chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chúng ta cần vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử vào việc nghiên cứu,
học tập tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong nghiên cứu khoa học, chúng ta không được
quên mối liên hệ lịch sử căn bản, nghĩa là phải xem xét một hiện tượng nhất định
đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn
phát triển chủ yếu nào và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xem xét
hiện nay nó đã trở thành như thế nào? Nắm vững quan điểm này giúp chúng ta nhận
thức được bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh.
d. Quan điểm
toàn diện và hệ thống
Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam. Một yêu cầu về khoa học khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
trên bình diện tổng thể hay từng bộ phận là phải luôn luôn quán triệt mối liên
hệ qua lại của các yếu tố, các nội dung khác nhau trong hệ thống tư tưởng đó phải
lấy hạt nhân cốt lõi là tư tưởng độc lập, tự do, dân chủ, và chủ nghĩa xã hội.
Lênin đã từng chỉ rõ: Muốn thực sự hiểu được sự vật thì cần phải nhìn bao quát
và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả mối liên hệ và ” quan hệ gián tiếp “ của sự
vật đó. Trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, cần nắm vững và đầy đủ hệ thống
các quan điểm của Người. Nếu tách rời một yếu tố nào đó khỏi hệ thống sẽ dẫn tới
hiểu sai tư tưởng Hồ Chí Minh. Chẳng hạn, tách rời độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội là xa rời tư tưởng Hồ Chí Minh.
e. Quan điểm kế
thừa và phát triển
Hồ Chí Minh là một
mẫu mực về sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mac – Lênin vào điều kiện
cụ thể của Việt Nam. Người đã bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mac –
Lênin trên nhiều lĩnh vực quan trọng và hình thành nên một hệ thống các quan điểm
lý luận mới. Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi không chỉ biết kế
thừa, vận dụng mà còn phải biết phát triển sáng tạo tư tưởng của Người trong điều
kiện lịch sử mới, trong bối cảnh cụ thể của đất nước và quốc tế.
g. Kết hợp
nghiên cứu các tác phẩm với thực tiễn chỉ đạo cách mạng của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là một
nhà lý luận – thực tiễn. Người xây dựng lý luận, vạch ra cương lĩnh, đường lối,
chủ trương cách mạng và trực tiếp tổ chức, lãnh đạo thực hiện. Từ thực tiễn,
Người tổng kết, bổ sung để hoàn chỉnh và phát triển lý luận, cho nên tư tưởng Hồ
Chí Minh mang tính cách mạng, luôn luôn sáng tạo, không lạc hậu, giáo điều.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ căn cứ vào các tác phẩm, bài viết,
bài nói mà còn coi trọng hoạt động thực tiễn của Người, thực tiễn cách mạng dưới
sự tổ chức và lãnh đạo của Đảng do Người đứng đầu. Vì vậy, chỉ căn cứ vào các
bài viết, bài nói, tác phẩm của Người là hoàn toàn chưa đầy đủ. Kết quả hành động
thực tiễn, chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu và xây dựng của nhân
dân Việt Nam chính là lời giải thích rõ ràng giá trị khoa học của tư tưởng Hồ
Chí Minh
Chân
lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo. Sự sáng tạo cách mạng của Hồ Chí Minh trước
hết là sự sáng tạo về tư duy lý luận, về chiến lược, về đường lối cách mạng. Điều
đó giữ vai trò quyết định hàng đầu dẫn đến thắng lợi cách mạng giải phóng dân tộc.
Tư tưởng, lý luận cách mạng của Hồ Chí Minh đã góp phần làm phong phú thêm và
phát triển lý luận cách mạng của thời đại, trước hết là về cách mạng giải phóng
dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã tỏa sáng vượt ra ngoài biên giới quốc gia Việt
Nam, đến với các dân tộc và nhân dân lao động thế giới.
2. Các phương pháp cụ thể
Với ý nghĩa chung nhất,
phương pháp được hiểu là cách thức đề cập tới hiện thực, cách thức nghiên cứu
các hiện tượng của tự nhiên và của xã hội. Phương pháp là hệ thống các nguyên tắc
điều chỉnh nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn xuất phát từ các quy luật vận
động của khách thể được nhận thức.
- Giữa phương
pháp nghiên cứu và nội dung nghiên cứu có mối liên hệ mật thiết và chi phối lẫn
nhau; phương pháp phải trên cơ sở vận động của bản thân nội dung; nội dung nào
phương pháp ấy. Vì vậy, ngoài các nguyên tắc phương pháp luận chung, với một nội
dung cụ thể cần phải vận dụng một phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp. Trong
đó, việc vận dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic một cách tổng quát
nhằm tìm ra được cái bản chất vốn có của sự vật, hiện tượng là hết sức cần thiết
trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Vận dụng
phương pháp liên ngành trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Là một nhà khoa học,
nhà tư tưởng, Hồ Chí Minh đã thể hiện tư tưởng của mình như một hệ thống, bao
quát nhiều lĩnh vực: tư tưởng triết học, tư tưởng kinh tế, tư tưởng chính trị,
tư tưởng quân sự, tư tưởng văn hóa, tư tưởng đạo đức,…Trong mỗi lĩnh vực lại có
thể tìm thấy những hệ thống nhỏ. Trước một đối tượng nghiên cứu đa dạng và
phong phú nhiều mặt như vậy thì không một lĩnh vực nào có đủ năng lực bao quát
hết để đưa ra một bức tranh tổng thể về tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì thế, cần thiết
phải áp dụng các phương pháp liên ngành khoa học xã hội nhân văn, lý luận chính
trị để nghiên cứu hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như mỗi tác phẩm lý luận
riêng biệt của Người.
- Để nghiên cứu
tư tưởng Hồ Chí Minh đạt được trình độ khoa học ngày một cao hơn cần phải đổi mới
và hiện đại hóa các phương pháp nghiên cứu cụ thể, trên cơ sở không ngừng phát
triển, hoàn thiện về lý luận và phương pháp luận khoa học nói chung. Trong
nghiên cứu hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay, các phương pháp cụ thể thường
được áp dụng có hiệu quả là: phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê
trắc lượng, văn bản học, điều tra điền dã, phỏng vấn nhân chứng lịch sử….Mỗi
phương pháp khi vận dụng vào nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh có những đặc điểm
và đặt ra các yêu cầu khác nhau. Việc vận dụng các phương pháp và kết hợp các
phương pháp cụ thể phải căn cứ vào nội dung nghiên cứu.
III. Ý NGHĨA CỦA
VIỆC HỌC TẬP MÔN HỌC ĐỐI VỚI SINH VIÊN
Đối với sinh viên, trí thức tương
lai của nước nhà, việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với
phát triển kinh tế tri thức, hội nhập quốc tế.
1. Nâng cao năng lực tư duy lý luận và phương pháp
công tác
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng
và nhân dân Việt Nam trên con đường thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Thông qua việc làm rõ và truyền thụ nội dung hệ
thống quan điểm lý luận Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam đã làm cho sinh viên nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của tư tưởng Hồ
Chí Minh đối với đời sống cách mạng Việt Nam; làm cho tư tưởng của Người ngày
càng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của thế hệ trẻ nước ta.
Thông qua học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh để bồi dưỡng, củng cố
cho sinh viên, thanh niên lập trường, quan điểm cách mạng; kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tích cực chủ động đấu tranh phê phán
những quan điểm sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước ta; biết vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống.
2. Bồi dưỡng phẩm chất cách mạng và rèn luyện bản lĩnh chính
trị
Tư tưởng Hồ Chí
Minh giáo dục đạo đức, tư cách, phẩm chất cách mạng cho cán bộ, đảng viên và
toàn dân biết sống hợp đạo lý, yêu cái tốt, cái thiện, ghét cái ác, cái xấu. Học
tập tư tưởng Hồ Chí Minh giúp nâng cao lòng tự hào về Người, về Đảng Cộng sản,
về tổ quốc Việt Nam, tự nguyện “ Sống, chiến đấu, lao động, và học tập theo
gương Bác Hồ vĩ đại “
Trên cơ sở kiến thức đã được học, sinh viên vận dụng vào cuộc sống, tu dưỡng,
rèn luyện bản thân, hoàn thành tốt chức trách của mình, đóng góp thiết thực và
hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
ta đã lựa chọn.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH
THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Cơ sở khách quan
a. Bối cảnh lịch sử
- Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn
lên trong hoàn cảnh đất nước và thế giới có nhiều biến động.
Trong nước, chính quyền triều Nguyễn đã từng bước khuất
phục trước cuộc xâm lược của tư bản Pháp, lần lượt ký kết các hiệp ước đầu
hàng, thừa nhận nền bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam.
Cho đến cuối thế kỷ XIX, các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới
khẩu hiệu Cần vương do các sĩ phu, văn thân lãnh đạo cuối cùng đã thất bại. Hệ
tư tưởng phong kiến tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử.
Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp khiến cho
xã hội nước ta có sự chuyển biến và phân hóa, giai cấp công nhân, tầng lớp tiểu
tư sản và tư sản bắt đầu xuất hiện, tạo ra những tiền đề bên trong cho phong
trào yêu nước giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Cùng vào thời điểm lịch sử đó, các “ tân thư “, “ tân văn
“, “ tân báo “ và những ảnh hưởng của trào lưu cải cách ở Nhật Bản, Trung quốc
tràn vào Việt Nam, phong trào yêu nước của nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng
dân chủ tư sản.
Phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, các sĩ phu
Nho học có tư tưởng tiến bộ, thức thời, tiêu biểu như: Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh đã cố gắng tổ chức và vận động cuộc đấu tranh yêu nước chống Pháp theo mục
tiêu và phương pháp mới. Song chủ trương cầu ngoại viện, dùng bạo lực để khôi
phục độc lập của Phan Bội Châu đã thất bại. Chủ trưởng “ ỷ Pháp cầu tiến bộ “,
khai thông dân trí, nâng cao dân trí trên cơ sở đó mà lần lần tính chuyện giải
phóng….của Phan Chu Trinh cũng không thành công. Còn con đường khởi nghĩa của
người anh hùng Hoàng Hoa Thám thì vẫn mang nặng “ cốt cách phong kiến “, chưa
phải là lối thoát rõ ràng, hướng đi đúng đắn. phong trào cứu nước của nhân dân ta muốn giành được thắng lợi phải đi
theo một con đường mới.
- Bối cảnh
thời đại
Trong khi con thuyền Việt
Nam còn lênh đênh chưa rõ bờ bến phải đi tới, việc cứu nước như trong đêm tối
“không có đường ra“ thì lịch sử thế giới trong giai đoạn này cũng đang có những
chuyển biến to lớn.
Chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển
sang giai đoạn độc quyền đã xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi toàn
thế giới. Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa.
Có một thực tế lịch sử là trong quá trình xâm lược và thống
trị của chủ nghĩa thực dân tại các nước Châu Á, Châu Phi và khu vực Mỹ La tinh,
sự bóc lột phong kiến trước kia vẫn được duy trì và bao trùm lên nó là sự bóc lột
tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh các giai cấp cơ bản trước kia, đã xuất hiện thêm các
giai cấp, tầng lớp xã hội mới, trong đó có giai cấp công nhân và giai cấp tư sản.
Từ cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản
chủ nghĩa vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã dẫn đến một cao trào mới của
cách mạng thế giới với đỉnh cao là Cách Mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Chính cuộc
cách mạng vĩ đại này đã làm “thức tỉnh các dân tộc Châu Á“.
Cách
mạng Tháng Mười Nga đã lật đổ nhà nước tư sản, thiết lập chính quyền Xô viết, mở
ra một thời kỳ mới trong lịch sử loài người.
Cuộc cách mạng vô sản ở nước Nga thành công đã nêu một tấm
gương sáng về sự giải phóng các dân tộc bị áp bức, “mở ra trước mắt họ thời đại
cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc“.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, nhiều dân tộc vốn
là thuộc địa của đế quốc Nga đã được tự do, được hưởng quyền dân tộc tự quyết,
hình thành nên các quốc gia độc lập và dẫn đến sự ra đời của Quốc tế cộng sản (
tháng 3 năm 1919 ), phong trào công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa phương
tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa Phương Đông càng có
quan hệ mật thiết với nhau hơn trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ
nghĩa đế quốc.
b. Những tiền
đề tư tưởng – lý luận
- Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời đã
hình thành nên những giá trị truyền thống hết sức đặc sắc và cao quý của dân tộc
Việt Nam, trở thành tiền đề tư tưởng, lý luận xuất phát hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đó là truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất, là tinh thần
tương thân, tương ái, lòng nhân nghĩa, ý thức cố kết cộng đồng, là ý chí vươn
lên vượt qua mọi khó khăn, thủ thách, là trí thông minh, tài sáng tạo, quý trọng
hiền tài, khiêm tốn tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho văn hóa
dân tộc…
Trong
những giá trị đó, chủ nghĩa yêu nước truyền thống là tư tưởng, tình cảm cao
quý, thiêng liêng nhất, là cội nguồn của trí tuệ sáng tạo và lòng dũng cảm của
người Việt Nam, cũng là chuẩn mực đạo đức cơ bản của dân tộc.
Chính sức mạnh của
chủ nghĩa yêu nước đã thúc dục Nguyễn Tất Thành quyết chí ra đi tìm đường cứu
nước, tìm kiếm những gì hữu ích cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước
sẽ biến thành lực lượng vật chất thực sự khi nó ăn sâu vào tiềm thức, vào ý chí
và hành động của mỗi con người. Chính từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã đúc kết
chân lý: “dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu
của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi,
nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm,
khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ cướp nước và bán nước“.
- Tinh hoa văn
hóa nhân loại
Kết hợp các giá
trị truyền thống của văn hóa Phương Đông với các thành tựu hiện đại của văn
minh Phương Tây – đó chính là nét đặc sắc trong quá trình hình thành tư tưởng,
nhân cách và văn hóa Hồ Chí Minh.
Đối với văn hóa
Phương Đông, cùng với những hiểu biết uyên bác về Hán học, Hồ Chí Minh biết chắt
lọc lấy những gì tinh túy nhất trong các học thuyết triết học, hoặc trong tư tưởng
của Lão tử, Mặc tử, Quản tử…Người tiếp thu những mặt tích cực của Nho gia. Đó
là các triết lý hành động, tư tưởng nhập
thế, hành đạo, giúp đời, đó là ước vọng về một xã hội bình trị, hòa mục, hòa đồng là triết
lý nhân sinh, tu thân dưỡng tính, đề cao văn hóa lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu
học. Người dẫn lời của Lênin: “chỉ có những người cách mạng chân chính mới
thu hái được những hiểu biết quý báu của các đời trước để lại“.
Về Phật giáo, Hồ
Chí Minh tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái,
cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân; là nếp sống có đạo đức,
trong sạch, giản dị, chăm lo làm việc thiện; là tinh thần bình đẳng, dân chủ,
chống phân biệt đẳng cấp; là việc đề cao lao động, chống lười biếng “nhất nhật
bất tác, nhất nhật bất thực“; là chủ trương sống không xa lánh việc đời mà gắn
bó với dân với nước, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ
thù dân tộc….Đến khi đã trở thành người Macxit, Hồ Chí Minh lại tiếp tục tìm hiểu
chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn vì thấy trong đó “những điều thích hợp với
điều kiện của nước ta“.
Cùng với tư tưởng
triết học Phương Đông, Hồ Chí Minh còn tiếp thu nền văn hóa dân chủ và cách mạng
phương Tây. Người sớm làm quen với văn hóa Pháp, tìm hiểu các cuộc cách mạng ở
Pháp và ở Mỹ. Người trực tiếp đọc và tiếp
thu các tư tưởng về tự do, bình đẳng, bác ái qua các tác phẩm của các nhà khai
sáng như Voltaire, Rousseau, Montesquieu. Người tiếp thu các giá trị của Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của
đại cách mạng Pháp, các giá trị về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh
phúc của Tuyên ngôn độc lập Mỹ năm
1776.
Nói tóm lại,
trên hành trình cứu nước, Hồ Chí Minh đã tự biết làm giàu trí tuệ của mình bằng
vốn trí tuệ của thời đại, Đông và Tây, vừa tiếp thu, vừa chọn lọc để từ tầm cao
trí thức nhân loại mà suy nghĩ, lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng và phát
triển.
- Chủ nghĩa Mac
– Lênin
Chủ nghĩa Mac –
Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Việc
tiếp thu chủ nghĩa Mac – Lênin ở Hồ Chí Minh diễn ra trên nền tảng của những
tri thức văn hóa tinh túy được chắt lọc, hấp thụ và một vốn chính trị, vốn hiểu
biết phong phú, được tích lũy qua thực tiễn hoạt động đấu tranh vì mục tiêu cứu
nước và giải phóng dân tộc.
Bản
lĩnh trí tuệ đã nâng cao khả năng tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo ở Người
khi vận dụng những nguyên lý cách mạng của thời đại vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam.
Quá
trình đó cũng diễn ra một cách tự nhiên, chân thành và giản dị. Điều này đã được
Hồ Chí Minh cắt nghĩa trong bài Con đường
dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin: “lúc bấy giờ, tôi ủng hộ Cách mạng Tháng Mười
chỉ là theo cảm tính tự nhiên… Tôi kính yêu Lênin vì Lênin là một người yêu nước
vĩ đại đã giải phóng đồng bào mình…Tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng qua là
vì các “ông bà“ ấy – (hồi ấy, tôi gọi các đồng chí của tôi như thế) – đã tỏ đồng
tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn như Đảng là gì,
công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu”.
Quá
trình tiếp nhận chủ nghĩa Mac – Lênin ở Hồ Chí Minh thực chất “là chặng đường
chiến thắng biết bao khó khăn với sự lựa chọn vững chắc, tránh được những sai lầm
dẫn tới ngõ cụt”.
Thực
tiễn trong gần 10 năm đi tìm đường cứu nước, nhất là sau khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin (1920), Nguyễn Ái Quốc đã “ cảm động,
phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng…vui mừng đến phát khóc…” vì đã tìm thấy con đường
giải phóng dân tộc. Như vậy, chính Luận cương của Lênin đã nâng cao nhận thức của
Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc. Nó phù hợp và đáp ứng những tình cảm,
suy nghĩ, hoài bão được ấp ủ từ lâu, nay đang trở thành hiện thực. Người viết:
“lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa
tôi tin theo chủ nghĩa Lênin, tin theo quốc tế thứ ba”.
Từ
những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đã tiến dần tới những
nhận thức “lý tính”, trở lại nghiên cứu chủ nghĩa Mác sâu sắc hơn, để rồi tiếp
thu học thuyết của các ông một cách có chọn lọc, không rập khuôn máy móc, không
sao chép giáo điều. Người tiếp thu lý luận Mac – Lênin theo phương pháp Macxit,
nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất. Người vận dụng lập trường, quan điểm,
phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mac – Lênin để giải quyết những vấn đề thực
tiễn của cách mạng Việt Nam, chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách
vở.
Thế
giới quan và phương pháp luận Mac – Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tổng kết kiến thức
và kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước: “trong cuộc đấu tranh, vừa
nghiên cứu lý luận Mac – Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được
rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc
bị áp bức và những người lao động trên thế giới”; “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Lênin”, “Chính là do cố gắng vận dụng những lời dạy của Lênin, nhưng
vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam ngày nay, mà chúng tôi
đã chiến đấu và giành được thắng lợi to lớn”
2. Nhân tố chủ quan
a. Khả năng tư
duy và trí tuệ Hồ Chí Minh
Những
năm tháng hoạt động trong nước và bôn ba khắp thế giới để học tập, nghiên cứu,
Hồ Chí Minh đã không ngừng quan sát, nhận thúc thực tiễn, làm phong phú thêm sự
hiểu biết của mình, đồng thời hình thành những cơ sở quan trọng để tạo dựng nên
những thành công trong lĩnh vực hoạt động lý luận của Người về sau.
Các
nhà yêu nước tiền bối và cùng thời với Hồ Chí Minh tuy cũng đã có những quan
sát, nhưng họ chưa nhận thấy, hoặc chưa nhận thức đúng về sự thay đổi của dân tộc
và thời đại. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh khám phá các quy
luật vận động xã hội, đời sống văn hóa và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong
hoàn cảnh cụ thể để khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực
tiễn và được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Nhờ vào con đường nhận thức chân lý
như vậy mà lý luận của Hồ Chí Minh mang giá trị khách quan, cách mạng và khoa học.
b. Phẩm chất
đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn
Mục
tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, sự tác động mạnh mẽ của thời đại và sự nhận
thức đúng đắn về thời đại đã tạo điều kiện để Hồ Chí Minh hoạt động có hiệu quả
cho dân tộc và nhân loại.
Có
được điều đó là nhờ vào nhân cách, phẩm chất và trí tuệ siêu việt của Hồ Chí
Minh.
Phẩm
chất, tài năng đó được biểu hiện trước hết ở tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo,
cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc nhận xét, đánh giá
các sự vật, sự việc chung quanh.
Phẩm
chất, tài năng đó cũng được biểu hiện ở bản lĩnh kiên định, luôn tin vào nhân dân,
khiêm tốn, bình dị, ham học hỏi, nhạy bén với cái mới, có phương pháp biện chứng,
có đầu óc thực tiễn. Chính vì thế, Hồ Chí Minh đã khám phá ra lý luận cách mạng
thuộc địa trong thời đại mới, trên cơ sở đó xây dựng một hệ thống quan điểm
toàn diện, sâu sắc và sáng tạo về cách mạng Việt Nam, kiên trì chân lý và định
ra các quyết sách đúng đắn, sáng tạo để đưa cách mạng đến thắng lợi.
Phẩm
chất cá nhân của Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở sự khổ công học tập để chiếm lĩnh
đỉnh cao trí thức nhân loại, là tâm hồn của một nhà yêu nước chân chính, một
chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước thương dân, sẵn
sàng chịu đựng hy sinh vì độc lập, tự do của tổ quốc, hạnh phúc của đồng bào.
Tóm
lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tổng hòa cuả những điều kiện khách quan
và chủ quan, của truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Từ
thực tiễn dân tộc và thời đại được Hồ Chí Minh tổng kết, chuyển hóa sắc sảo,
tinh tế với một phương pháp khoa học, biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở
thành tư tưởng Việt Nam hiện đại.
II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Thời kỳ trước năm 1911: hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu
nước
Hồ
Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần
gũi với nhân dân. Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Người, là một nhà
nho cấp tiến, có lòng yêu nước, thương dân sâu sắc. Tấm gương lao động cấn cù,
ý chí kiên cường vượt qua gian khổ để đạt được mục tiêu, đặc biệt là tư tưởng thân dân, lấy dân làm hậu thuẫn cho các
cải cách chính trị - xã hội của Cụ Phó bảng đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với quá
trình hình thành nhân cách của Nguyễn Tất Thành.
Sau này, những kiến
thức học được từ người cha, những tư tưởng mới của thời đại đã được Hồ Chí Minh
nâng lên thành tư tưởng cốt lõi trong đường lối chính trị của mình.
Cuộc sống của người mẹ
- bà Hoàng Thị Loan – cũng ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Sinh
Cung về đức tính nhân hậu, đảm đang, sống nhan hòa với mọi người.
Còn phải kể tới mối
quan hệ và tác động qua lại giữa ba chị em Nguyễn Thị Thanh ( Nguyễn Thị Bạch
Liên ), Nguyễn Sinh Khiêm ( Nguyễn Tất Đạt ) và Nguyễn Sinh Cung ( Nguyễn Tất
Thành ) về lòng yêu nước thương nòi.
Nghệ tĩnh là vùng đất
vừa giàu truyền thống văn hóa, vừa giàu truyền thống lao động, đấu tranh chống
ngoại xâm. Nơi đây đã sản sinh ra biết bao anh hùng nổi tiếng trong lịch sử Việt
Nam như Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, những lãnh tụ yêu nước thời cận
đại như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu…, những liệt sĩ trong thời kỳ chống thực
dân Pháp ngay trên mảnh đất Kim Liên như Vương Thúc Mậu, Nguyễn Sinh Quyến…
Từ thuở thiếu thời,
Nguyến Tất thành đã tận mắt chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột
đến cùng cực của đồng bào mình. Khi vào Huế, Anh lại tận mắt nhìn thấy tội ác của
thực dân Pháp và thái độ ươn hèn của bọn phong kiến Nam triều. Thêm vào đó là
những bài học thất bại của các nhà yêu nước tiền bối và đương thời. Tất cả đã
thôi thúc Anh ra đi tìm một con đường mới để cứu dân, cứu nước. Quê hương, gia
đình, truyền thống dân tộc…đã chuẩn bị cho Anh nhiều điều. Quê hương, đất nước
cũng đặt niềm tin lớn ở Anh trên bước đường tìm đến trào lưu mới của thời đại.
Phát huy truyền thống
yêu nước bất khuất của dân tộc, truyền thống tốt đẹp của gia đình, quê hương, với
sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra hạn chế của những
người đi trước. Người nhận ra rằng không thể cứu nước theo con đường của Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám….Người từ chối Đông du không phải vì đã hiểu
bản chất của đế quốc Nhật, mà chỉ cảm thấy rằng: không thể dựa vào nước ngoài để
giải phóng tổ quốc. “Điều mà chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thức được và nó dẫn
Người đi đúng hướng là: nguồn gốc những đau khổ và áp bức dân tộc là ở ngay tại
“chính quốc”, ở nước đế quốc đang thống trị dân tộc mình”.
Cùng với việc phê
phán hành động cầu viện Nhật Bản chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, tư tưởng “ỷ Pháp cầu tiến bộ”
chẳng qua chỉ là việc “cầu xin Pháp rủ
lòng thương”, Nguyễn Ái Quốc đã tự định ra cho mình một hướng đi mới: phải
tìm hiểu cho rõ bản chất của những từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái của nước Cộng
hòa Pháp, phải đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem
xét họ làm thế nào, sẽ trở về giúp đồng bào mình.
2. Thời kỳ 1911 – 1920: tìm thấy
con đường cứu nước, giải phóng dân tộc
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành rời tổ quốc sang Phương
Tây tìm đường cứu nước.
Việc Hồ Chí Minh ra
nước ngoài xuất phát từ ý thức dân tộc, từ hoài bão cứu nước. Qua cuộc hành
trình đến nhiều nước thuộc địa, phụ thuộc, tư bản, đế quốc, người đã xúc động
trước cảnh khổ cực, bị áp bức của những người dân lao động. Người nhận thấy ở
đâu nhân dân cũng mong muốn thoát khỏi ách áp bức, bóc lột.
Nhờ những bài học từ
buổi thiếu niên về lý tưởng “bốn bể đều là anh em“ và “năm châu họp làm một
nhà“, Nguyễn Tất Thành không chỉ đau với nổi đau của dân tộc mình, Người còn
xót xa trước nổi đau vong nô của các dân tộc khác. Từ lòng yêu thương đồng bào
mình, Hồ Chí Minh càng đồng cảm với những người cùng cảnh ngộ trên toàn thế giới.
Ở Người đã nảy sinh ý thức về sự cần thiết phải đoàn kết những người bị áp bức
để đấu tranh cho nguyện vọng và quyền lợi chung. Có thể xem đây là biểu hiện đầu
tiên của ý thức về sự đoàn kết quốc tế giữa các dân tộc thuộc địa nhằm thoát khỏi
ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc.
Với lòng yêu nước nồng
nàn, Hồ Chí Minh kiên trì chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ. Người chú ý xem xét
tình hình các nước, suy nghĩ về những điều mắt thấy tai nghe, hăng hái học tập,
tham gia các cuộc diễn thuyết của nhiều nhà chính trị và triết học. Năm 1919,
thay mặt những người yêu nước Việt Nam tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi Bản yêu sách của nhân dân An Nam tới hội
nghị Versaille đòi chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và bình đẳng
của nhân dân Việt Nam. Bản yêu sách đã vạch trần tội ác của thực dân Pháp, làm
cho nhân dân thế giới và nhân dân Pháp phải chú ý tới tình hình Việt Nam và
Đông Dương.
Cuộc hành trình qua
năm châu bốn biển đã không chỉ hình thành ở Hồ Chí Minh tình cảm và ý thức đoàn
kết giữa các dân tộc bị áp bức, mà còn rèn luyện Người trở thành một người công
nhân có đầy đủ phẩm chất, tâm lý của giai cấp vô sản. Thực tiễn trong gần 10
năm đi tìm đường cứu nước, nhất là khi đọc Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
Lênin Người đã “cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng…vui mừng đến phát
khóc…”
Luận cương của Lênin
đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập cho dân tộc và tự do cho
đồng bào, đáp ứng những tình cảm, suy nghĩ, hoài bão được ấp ủ bấy lâu nay ở
Người. “ Luận cương về những vấn đề dân tộc và thuộc địa đến với Người như một
ánh sáng kỳ diệu nâng cao về chất tất cả những hiểu biết và tình cảm cách mạng
mà Người hằng nung nấu”.
Việc biểu quyết tán
thành Quốc tế III, tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp, trở thành người cộng
sản Việt Nam đầu tiên, đã đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng Nguyễn
Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mac – Lênin, từ giác ngộ dân tộc
đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản.
Việc xác định con đường
đúng đắn để giải phóng dân tộc là công lao to lớn đầu tiên của Hồ chí Minh,
trong thực tế, Người đã “gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công
nhân quốc tế, đưa nhân dân ta đi theo con đường mà chính Người đã trải qua, từ
chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mac – Lênin. Đó là con đường giải phóng duy nhất
mà cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra cho nhân dân lao động và tất cả các dân tộc bị áp bức trên
toàn thế giới”.
3. Thời kỳ 1921 – 1930: hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam
Trong giai đoạn từ 1921 đến 1930, Nguyễn Ái Quốc có
những hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận hết sức phong phú, sôi nổi trên
địa bàn nước Pháp (1921 – 1923 ), Liên Xô ( 1923 – 1924 ), Trung Quốc ( 1924 –
1927 ), Thái Lan ( 1928 – 1229 ). Trong khoảng thời gian này, tư tưởng Hồ Chí
Minh về cách Mạnh Việt Nam đã hình thành về cơ bản.
Người viết nhiều bài
báo tố cáo chủ nghĩa thực dân, đề cập đến mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng
thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc, khẳng định cách mạng giải phóng dân
tộc thuộc địa, giải phóng dân tộc thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vô sản
thế giới.
Các tác phẩm của Nguyễn
Ái Quốc như Bản án chế độ thực dân Pháp
(1925 ), Đường cách mệnh (1927 ), Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ( 1930 ) và
nhiều bài viết khác của Người trong giai đoạn này là sự phát triển và tiếp tục
hoàn thiện tư tưởng cách mạng về giải phóng dân tộc. Những tác phẩm có tính chất
lý luận nói trên chứa đựng những nội dung căn bản sau đây:
- Bản chất của chế độ thực dân là “ăn cướp“ và “giết
người“. Vì vậy, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa,
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới.
- Cách mạng giải phóng dân tộc trong
thời đại mới phải đi theo con đường cách mạng vô sản và là một bộ phận của cách
mạng vô sản thế giới. Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân
lao động, giải phóng giai cấp công nhân.
- Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc
địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ khắng khít với nhau, nhưng
không phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể bùng nổ và giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Ở đây, nguyễn Ái Quốc muốn nhấn
mạnh đến vai trò tích cực, chủ động của các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu
tranh giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân.
- Cách mạng thuộc địa trước hết là một
cuộc “dân tộc cách mệnh“, đánh đuổi bọn
ngoại xâm, giành độc lập, tự do.
- Ở một nước nông nghiệp, lạc hậu,
nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội, bị đế quốc, phong kiến bóc lột
nặng nề. Vì vậy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành được thắng lợi cần phải
thu phục, lôi cuốn được nông dân đi theo, cần xây dựng khối liên minh công nông
làm động lực cho cách mạng. Đồng thời, cần phải thu hút, tập hợp rộng rãi các
giai tầng xã hội khác vào trận tuyến đấu tranh chung của dân tộc.
- Cách mạng muốn thành công trước hết
cần phải có đảng lãnh đạo. Đảng phải theo chủ nghĩa Mac – Lênin và phải có một
đội ngũ cán bộ sẵn sàng hy sinh, chiến đấu vì lý tưởng của Đảng, vì lợi ích và
sự tồn vong của dân tộc, vì lý tưởng giải phóng giai cấp công nhân và nhân loại.
- Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân chứ không phải việc của một vài người, vì vậy, cần phải tập hợp,
giác ngộ và từng bước tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp lên cao. Đây là quan
điểm cơ bản đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc về nghệ thuật vận động quần chúng và tiến
hành đấu tranh cách mạng.
Những quan điểm cách mạng trên đây của
Nguyễn Ái Quốc trong những năm 20 của thế kỷ XX được giới thiệu trong các tác
phẩm của Người, cùng các tài liệu Macxit khác, theo những đường dây bí mật được
truyền về trong nước, đến với các tầng lớp nhân dân Việt Nam, tạo ra một xung lực
mới, một chất men kích thích, thúc đẩy phong trào dân tộc phát triển theo xu hướng
mới của thời đại.
4. Thời kỳ 1930 – 1945: Vượt qua thử thách,
kiên trì giữ vững lập trường cách mạng
Vào
cuối những năm 20 đầu những năm 30 của thế kỷ XX, Quốc tế cộng sản bị chi phối
nặng bởi khuynh hướng “tả”. Khuynh hướng
này đã trực tiếp tác động vào phong trào cách mạng Việt Nam. Biểu hiện rõ nhất
là những quyết định được đưa ra trong hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung
ương lâm thời của Đảng họp từ ngày 14 đến ngày 31 – 10 – 1930, tại Hương Cảng
theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản. Hội nghị cho rằng, Hội nghị hợp nhất các
tổ chức cộng sản đầu năm 1930 vì chưa nhận thức đúng nên đặt tên Đảng sai và
quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương; chỉ trích và phê phán
đường lối của Nguyễn Ái Quốc đưa ra trong Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã phạm những sai lầm chính trị rất nguy hiểm, vì “chỉ lo
đến phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp đấu tranh”. Do đó, đã ra nghị quyết
“thủ tiêu Chánh cương, Sách lược của Đảng”
và phải dựa vào các nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, chính sách và kế hoạch của
Đảng “làm căn bổn mà chỉnh đốn nội bộ,
làm cho Đảng Bônsêvich hóa”…
Trên cơ sở xác định chính xác con đường
cần phải đi của cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã kiên trì bảo vệ quan điểm
của mình về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, về cách mạng giải phóng dân tộc
thuộc địa và cách mạng vô sản, chống lại những biểu hiện “tả” khuynh và biệt phái trong Đảng.
Thực tiễn đã chứng minh quan điểm của
Người là đúng.
Tháng 7 năm 1935, Đại hội VII Quốc tế
Cộng sản đã phê phán khuynh hướng “tả”
trong phong trào Cộng sản quốc tế, chủ trương mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất
vì hòa bình, chống chủ nghĩa Phát xít. Đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc,
Đại hội VII bác bỏ luận điểm “tả”
khuynh trước đây về chủ trương làm “cách
mạng công nông”, thành lập “chính phủ
Xô viết”…Sự chuyển hướng đấu tranh của Quốc tế Cộng sản đã chứng tỏ quan điểm
của Nguyễn Ái Quốc về cách mạng Việt Nam, về mặt trận dân tộc thống nhất, về việc
tập trung mũi nhọn vào chống chủ nghĩa đế quốc là hoàn toàn đúng đắn. Trên quan
điểm đó, năm 1936, Đảng ta đã đề ra chính sách mới, phê phán những biểu hiện “tả” khuynh, cô độc, biệt phái trước đây.
Như vậy, sau quá trình thực hiện
cách mạng, cọ xát với thực tiễn, vấn đề phân hóa kẻ thù, tranh thủ đồng minh…đã
trở lại với Chánh cương vắn tắt, sách lược
vắn tắt của Nguyễn Ái Quốc. Đó cũng là cơ sở để Đảng ta chuyển hướng đấu
tranh trong thời kỳ 1936 – 1939, thành lập mặt trận Nhân dân phản đế Đông Dương
(từ tháng 3 – 1938 đổi thành Mặt trận dân chủ Đông Dương ) và tự năm 1939 đặt vấn
đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Trước khi về nước, trong thời gian
còn hoạt động ở nước ngoài, lãnh tụ nguyễn Ái Quốc vẫn luôn luôn theo dõi tình
hình trong nước, kịp thời có những chỉ đạo để cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến
lên. Người viết 8 điểm xác định đường lối, chủ trương cho cách mạng Đông Dương
trong thời kỳ 1936 – 1939. Khi tình hình thế giới có những biến động mới, Người
đã chủ động đề nghị Quốc tế Cộng sản cho về nước hoạt động. Người yêu cầu “đừng để tôi sống quá lâu trong tình trạng
không hoạt động và giống như là sống ở bên cạnh, ở bên ngoài của Đảng”.
Được Quốc tế Cộng sản chấp thuận,
Nguyễn Ái Quốc từ Matxcơva về Trung Quốc ( tháng 10 – 1938 ). Tại đây, Người đã
có những quan điểm chỉ đạo sát hợp gửi cho các đồng chí lãnh đạo trong nước.
Ngày 28 -1 -1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc trở về tổ
quốc. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ VIII, dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng
chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Những quan điểm và đường lối đúng đắn,
sáng tạo theo tư tưởng Hồ chí Minh được đưa ra và thông qua trong Hội nghị này
có ý nghĩa quyết định chiều hướng phát triển của cách mạng giải phóng dân tộc ở
nước ta, dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2 - 9 – 1945, khai sinh nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh các quyền cơ bản của các dân tộc trên thế
giới, trong đó có Việt Nam. Bản tuyên ngôn nêu rõ: ‘Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”, “nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một
nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Tuyên
ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn, trong đó, độc lập, tự do gắn với phương hướng phát triển
lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng
chính trị cốt lõi, vốn đã được Hồ Chí Minh phát thảo lần đầu trong Cương lĩnh của
Đảng năm 1930, nay trở thành hiện thực cách mạng, đồng thời trở thành chân lý của
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới của dân tộc ta.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám
năm 1945 với sự ra đời của nước việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là thắng lợi của chủ
nghĩa Mac – Lênin được vận dụng, phát triển sát đúng với hoàn cảnh Việt Nam, là
thắng lợi của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí
Minh.
5. Thời kỳ 1945 – 1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh
tiếp tục phát triển, hoàn thiện
Mới
giành được chính quyền chưa được bao lâu thì thực dân Pháp đã quay lại xâm lược
nước ta. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, chúng núp sau quân đội Anh gây hấn ở Nam Bộ.
Ở miền Bắc, hơn 20 vạn quân Tưởng kéo vào hòng thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng
ta, bóp chết nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ. Đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” của dân tộc, Hồ
Chí Minh đã lèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh hiểm trở,
tới bờ bến thắng lợi. Về đối nội, Người chủ trương củng cố chính quyền non trẻ,
đẩy lùi giặc đói, giặc dốt, khắc phục nền tài chính thiếu hụt. Về đối ngoại,
Người vận dụng sách lược khôn khéo, mềm dẻo, thêm bạn bớt thù, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, tranh thủ thời
gian để chuẩn bị thế và lực cho kháng chiến lâu dài. Chính nhờ đó, ngày 19 - 12
– 46, với tư thế sẵn sàng và lòng tin sắt đá vào cuộc kháng chiến trường kỳ,
gian khổ nhưng nhất định thắng lợi Hồ Chí Minh đã phát động cuộc kháng chiến
toàn quốc chống thực dân Pháp. Từ đây, Người là linh hồn của cuộc kháng chiến,
đề ra đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc, thực hiện kháng chiến toàn dân,
toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh. Người đặc biệt chăm lo xây dựng Đảng,
xây dựng đội ngũ cán bộ, đấu tranh chống tệ quan liêu, mệnh lệnh, xây dựng đạo
đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, phát động phong trào thi
đua ái quốc…
Năm 1951, do yêu cầu tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng để đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, Trung ương Đảng
và chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Đảng, đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên Đảng Lao Động Việt Nam. Đại hội
đã chủ trương thành lập đảng riêng ở Lào và Campuchia, kịp thời lãnh đạo các
nhiệm vụ cách mạng ở mỗi nước. Đại hội cũng thông qua Cương lĩnh và Điều lệ mới
của Đảng, đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn, giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, nhằm động viên
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp
Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.
Năm 1954, dưới sự lãnh đạo của Trung
ương Đảng và chủ tịch Hồ chí Minh, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi.
Đó là thắng lợi của sự lãnh đạo tài
tình, sáng suốt của Đảng ta, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, thắng lợi của đường
lối chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, bảo vệ thành quả của cách mạng
Tháng Tám; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh: vừa kháng chiến vừa xây dựng
chế độ dân chủ nhân dân, kết hợp chặt chẽ và đúng đắn giữa hai nhiệm vụ chống đế
quốc và chống phong kiến, vận dụng sáng tạo nguyên lý chiến tranh cách mạng của
chủ nghĩa Mac – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, kế tục và phát triển
kinh nghiệm chống xâm lược lâu đời của cha ông, kết hợp chặt chẽ giữa việc xây
dựng lực lượng cách mạng với công tác xây dựng Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng trên mọi mặt của cuộc kháng chiến, vừa xây dựng chính quyền dân chủ nhân
dân, vừa xây dựng mầm móng cho chủ nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam
Sau hiệp nghị Genève năm 1954, miền
Bắc hoàn toàn giải phóng nhưng đất nước vẫn bị chia cắt bởi âm mưu gây chiến,
xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
Đứng trước yêu cầu mới của sự nghiệp
cách mạng, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng đã sớm xác định kẻ thù chính của
nhân dân Việt Nam, đề ra cho mỗi miền Nam, Bắc một nhiệm vụ chiến lược khác
nhau, xếp cách mạng Miền bắc vào phạm trù cách mạng xã hội chủ nghĩa, còn cách
mạng miền Nam thuộc phạm trù cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân; cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở Miền Bắc giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của toàn
bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà, còn cách mạng Miền
Nam giữ vị trí quan trọng, có tác dụng quyết định trực tiếp nhất đối với sự
nghiệp giải phóng Miền Nam, thực hiện hòa bình, thống nhất tổ quốc, hoàn thành
nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Xuất phát từ thực tiễn, trong suốt
quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhiều vấn đề đã
tiếp tục được bổ sung và phát triển, hợp thành một hệ thống những quan điểm lý
luận về cách mạng Việt Nam, đó là: tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tư tưởng về nhà nước của dân, do dân, vì dân; tư
tưởng và chiến lược về con người; tư tưởng về Đảng Cộng sản và xây dựng Đảng với
tư cách là Đảng cầm quyền,…
III. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng
con đường giải phóng và phát triển dân tộc
a. Tài sản tinh thần
vô giá của dân tộc Việt Nam
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của dân tộc và của
thời đại, nó trường tồn, bất diệt, là tài sản vô giá của dân tộc ta.
Sở dĩ như vậy là vì
tư tưởng của Người không chỉ tiếp thu, kế thừa những giá trị, tinh hoa văn hóa,
tư tưởng “vĩnh cửu” của loài người,
trong đó chủ yếu là chủ nghĩa Mac – Lênin, mà còn đáp ứng nhiều vấn đề của thời
đại, của sự nghiệp cách mạng Việt Nam và thế giới.
Tính sáng tạo của tư
tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở chỗ: trung thành với những nguyên lý phổ biến
của chủ nghĩa Mac – Lênin, đồng thời khi nghiên cứu, vận dụng những nguyên lý
đó, Hồ Chí Minh đã mạnh dạn loại bỏ những gì không thích hợp với điều kiện cụ
thể của nước ta, dám đề xuất những vấn đề mới do thực tiễn đề ra và giải quyết
một cách linh hoạt, khoa học, hiệu quả. Về vấn đề này, chủ tịch Hồ Chí Minh đã
căn dặn: “Lý luận không phải là một cái
gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo; lý luận luôn cần được bổ sung bằng những kết
luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh
đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Ngày nay, tư tưởng đó bao gồm một hệ thống
những quan điểm về chiến lược, sách lược cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân,
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, về sự cải biến cách mạng đối với thế giới,
về đạo đức, phong cách, phương pháp Hồ Chí Minh, về việc hiện thực hóa các tư
tưởng ấy trong đời sống xã hội…đang soi sáng cho chúng ta. Điều đó bảo đảm cho
sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam, bảo đảm cho tương lai, tiền đồ vẻ vang của
dân tộc Việt Nam.
Nét đặc sắc nhất
trong tư tưởng Hồ Chí Minh là những vấn đề chung quanh việc giải phóng dân tộc và định hướng cho sự phát
triển của dân tộc. Tư tưởng của Người gắn liền với chủ nghĩa Mac – Lênin và
thực tiễn cách mạng nước ta.
Ngay từ những năm 30
của thế kỷ XX, trong Chánh cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh đã xác định phương hướng chiến lược của cách
mạng Việt Nam là: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản. Tư tưởng của Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản
ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải
phóng giai cấp và giải phóng con người.
b. Nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động của cách mạng Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng ta và nhân
dân ta trên con đường thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
Trong suốt chặng đường
hơn một nửa thế kỷ, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn cờ dẫn dắt cách mạng
nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong bối cảnh của thế
giới hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta nhận thức đúng những vấn đề lớn
có liên quan đến việc bảo vệ nền độc lập dân tộc, phát triển xã hội và bảo đảm
quyền con người, bởi vì, Hồ Chí Minh đã suốt đời phấn đấu cho việc giải phóng
các dân tộc, đã đề ra lý luận về sự phát triển của các dân tộc giành được độc lập
tiến lên chủ nghĩa xã hội và luôn luôn quan tâm đến lợi ích con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh
là nền tảng vững chắc để Đảng ta vạch đường lối cách mạng đúng đắn, là sợi chỉ
đỏ dẫn đường cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đi tới thắng lợi.
Tư tưởng Hồ Chí Minh
mãi mãi sống với chúng ta, vì đã thấm sâu vào quần chúng nhân dân, chỉ đạo thực
hiện có hiệu quả những nhiệm vụ đối với thời đại. Qua thực tiễn cách mạng, tư
tưởng Hồ Chí Minh ngày càng tỏa sáng, chiếm lĩnh trái tim, khối óc của hàng triệu,
hàng triệu con người.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với
sự phát triển thế giới
a. Phản ánh khát vọng
thời đại
C. Mac khái quát: “Mỗi thời đại xã hội đều cần có những con người vĩ đại của nó, và nếu nó
không tìm ra những người như thế…, nó sẽ nặn ra họ”.
Hồ Chí Minh là nhân vật
lịch sử vĩ đại, không chỉ là sản phẩm của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt
Nam, mà còn là sản phẩm của thời đại, của nhân loại tiến bộ.
Ngay trong những năm
20 của thế kỷ XX, cùng với quá trình hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt
Nam, Hồ Chí Minh đã có những cống hiến xuất sắc về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa dưới ánh sáng của chủ
nghĩa Mac – Lênin: Giành độc lập dân tộc để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Người cũng có những nhận thức sâu sắc và độc đáo về mối quan hệ chặt chẽ giữa vấn
đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường
cách mạng vô sản.
Người chỉ rõ tầm quan
trọng đặc biệt của độc lập dân tộc trong tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội, về
sự tự thân vận động của công cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân các nước
thuộc địa và phụ thuộc, về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc thuộc
địa với cách mạng vô sản ở chính quốc, về khả năng cách mạng giải phóng dân tộc
thuộc địa nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc.
Từ nghiên cứu lý luận,
áp dụng vào những điều kiện cụ thể, Hồ Chí Minh đã hình thành một hệ thống các
luận điểm chính xác, đúng đắn về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
ở thuộc địa, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mac –
Lênin.
Việc xác định đúng đắn
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó
có cả các vấn đề về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội, về hòa bình,
hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc…có giá trị to lớn về mặt lý luận đang trở
thành hiện thực của nhiều vấn đề quốc tế hiện nay.
b. Tìm ra các giải
pháp đấu tranh giải phóng loài người
Có thể nói, đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh đối với
thời đại là từ việc xác định con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc đến việc
xác định được một con đường cách mạng, một hướng đi và tiếp theo đó là một
phương pháp để thức tỉnh hàng trăm triệu người bị áp bức trong các nước thuộc địa
lạc hậu.
Hồ Chí Minh đã giải
quyết đúng đắn vấn đề “làm cách nào để giải
phóng các dân tộc thuộc địa”; Người đã xác định chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù
lớn nhất của các dân tộc bị áp bức và để chiến thắng chủ nghĩa đế quốc, cần phải
thực hiện “đại đoàn kết”, “đại hòa hợp”. Đây là đóng góp to lớn của
Hồ Chí Minh.
Giá trị tư tưởng Hồ
Chí Minh đối với thế giới còn ở chỗ, ngay từ rất sớm, Người đã nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại. Trên cơ sở
nắm vững đặc điểm thời đại, Hồ Chí
Minh đã hoạt động không mệt mỏi để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.
Người đặt cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa vào phạm trù cách mạng vô sản;
Người cương quyết bảo vệ và phát triển quan điểm của Lênin về khả năng to lớn
và sự tác động mạnh mẽ của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa đối với cách
mạng vô sản.
Với việc nắm bắt
chính xác xu thế phát triển của thời
đại, Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng
đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam. Rồi chính từ kinh
nghiệm của cách mạng Việt Nam, Người đi đến khẳng định: “…trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự
lãnh đạo của giai cấp vô sản và Đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân rộng
rãi trước hết là nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước trong
mặt trận thống nhất, với sự đồng tình và ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới;
trước hết là của phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, nhân dân nước đó nhất định thắng
lợi“
Những tư tưởng trên đây của Hồ
Chí Minh đã, đang và sẽ mãi mãi là chân lý sáng ngời, góp phần vào sự kiến tạo
và phát triển của nhân loại.
c. Cổ
vũ các dân tộc đấu tranh trong sự nghiệp giải phóng
Hồ Chí Minh là vị anh hùng dân tộc
vĩ đại, người thầy thiên tài của cách mạng Việt Nam, một người Macxit-Leninnit
lỗi lạc, nhà hoạt động xuất sắc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, một
chiến sĩ kiên cường của phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX.
Hồ
Chí Minh đã làm sống lại những giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam. Sự nghiệp
cứu nước của Người đã xóa bỏ tất cả những tủi nhục nô lệ đè nặng trên đầu dân tộc
ta trong gần một thế kỷ.
Lần
đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, dưới ngọn cờ bách chiến bách thắng Hồ Chí
Minh, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân xóa bỏ được mọi hình thức áp bức, bóc lột và
xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Sự nghiệp cách mạng vĩ đại và
phẩm chất đạo đức cao quý đã thống nhất làm một ở Hồ Chí Minh.
Trong
lòng nhân dân thế giới, chủ tịch Hồ Chí Minh là bất diệt. Bạn bè năm châu khâm
phục và coi Hồ Chí Minh là “lãnh tụ của
thế giới thứ ba”…, “cuộc chiến đấu của
Người sẽ là kim chỉ nam cho tất cả các dân tộc đang đấu tranh, cho thanh niên
và cho các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới”, “cuộc đời chủ tịch Hồ Chí Minh là nguồn cổ vũ đối với tất cả các chiến
sĩ đấu tranh cho tự do”…..Tuy Người đã mất nhưng “tư tưởng chỉ đạo của Người vẫn mãi mãi còn soi sáng cuộc đấu tranh cho
tới khi tất cả bọn xâm lược và bọn áp bức bị đánh bại hoàn toàn”, “Tên tuổi của đồng chí Hồ Chí Minh sẽ mãi mãi
gắn bó với những hành động cao cả nhất và những ước mơ cao quý nhất của nhân loại”,
“chủ tịch Hồ Chí Minh ngày nay là ngôi
sao trên bầu trời của cách mạng xã hội chủ nghĩa, của các dân tôc thuộc địa và
phụ thuộc, đang chỉ đường cho chúng ta bằng ánh sáng của chủ nghĩa Mac – Lênin.
Trong sự nghiệp của chúng ta, nhất định Người sẽ sống mãi.”
CHƯƠNG II
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
VẤN ĐỀ DÂN TỘC
VÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG
DÂN TỘC
I. TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1. Vấn đề dân tộc thuộc địa
a. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa
- Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc
Hồ Chí Minh không bàn về vấn
đề dân tộc nói chung. Xuất phát từ nhu cầu khách quan của dân tộc Việt Nam, đặc
điểm của thời đại, Người dành sự quan tâm đến các thuộc địa, vạch ra thực chất
của vấn đề dân tộc ở thuộc địa là vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân,
xóa bỏ ách thống trị, áp bức, bóc lột của nước ngoài, giải phóng dân tộc, giành
độc lập dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc
lập.
Hồ Chí Minh viết nhiều tác phẩm như:
Tâm địa thực dân, Bình đẳng, Vực thẳm thuộc
địa, Công cuộc khai hóa giết người…, tố cáo chủ nghĩa thực dân, vạch trần
cái gọi là “khai hóa văn minh” của
chúng. Người viết: “để che đậy sự xấu xa
của chế độ bóc lột giết người, chủ nghĩa tư bản, thực dân luôn luôn trang điểm
cho cái huy chương mục nát của nó bằng những châm ngôn lý tưởng: bác ái, bình đẳng,…”
“nếu lối hành hình theo kiểu Lynch của những bọn người Mỹ hèn hạ đối với những
người da đen là một hành động vô nhân đạo, thì tôi không biết gọi việc những
người Âu nhân danh đi khai hóa mà giết hàng loạt những người dân Châu Phi là
cái gì nữa”. Trong những bài có tiêu đề Đông
Dương và nhiều bài khác, Người lên án mạnh mẽ chế độ cai trị hà khắc, sự
bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp ở Đông Dương trên các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa, giáo dục. Người chỉ rõ sự đối kháng giữa các dân tộc bị áp bức
với chủ nghĩa đế quốc, thục dân là mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa, đó là mâu thuẫn
không thể điều hòa được
Nếu như Mac bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
tư bản, Lênin bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống đế quốc, thì Hồ Chí
Minh tập trung bàn về cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa thực dân. Mac và Lênin bàn nhiều về đấu
tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa, thì Hồ Chí Minh bàn
nhiều về đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
- Lựa chọn con đường phát triển của dân
tộc
Để giải phóng dân tộc, cần xác định một con đường
phát triển của dân tộc, vì phương hướng phát triển của dân tộc quy định
những yêu cầu và nội dung trước mắt của cuộc đấu tranh giành độc
lập. Mỗi phương hướng phát triển gắn liền với một hệ tư tưởng và
một giai cấp nhất định.
Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sử nhân
loại, Hồ Chí Minh khẳng định phương hướng phát triển của dân tộc
trong thời đại mới là chủ nghĩa xã hội.
Hoạch định con đường phát triển của dân tộc thuộc địa là một
vấn đề hết sức mới mẻ. Từ một nước thuộc địa đi lên chủ nghĩa xã
hội phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Hồ Chí Minh viết: “làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Con đường đó kết hợp cả nội dung dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội; xét về thực chất chính là con đường độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội.
“Đi tới xã hội cộng sản”
là hướng phát triển lâu dài. Nó quy định vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, đoàn kết mọi lực lượng dân tộc, tiến hành các cuộc cách
mạng chống đế quốc và chống phong kiến cho triệt để.
Con đường đó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở thuộc địa.
Đó cũng là nét độc đáo, khác biệt với con đường phát triển của
các dân tộc đã phát triển lên chủ nghĩa tư bản ở Phương Tây.
b. Độc lập dân tộc – nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc
thuộc địa
- Cách tiếp cận từ quyền con
người
Hồ Chí Minh hết sức trân trọng quyền con người. Người đã tìm
hiểu và tiếp nhận những nhân tố về quyền con người được nêu trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp,
như quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu
hạnh phúc. Người khẳng định: “đó
là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Nhưng từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã khái quát và nâng cao thành
quyền dân tộc: “tất cả các dân tộc
trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do”.
- Nội dung của độc lập dân tộc
Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc
địa. Hồ Chí Minh nói: “Tự do cho
đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi
muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.
Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết đã được các đồng
minh thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất long trọng thừa
nhận, thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc gửi tới
hội nghị Versaille bản yêu sách gồm 8 điểm, đòi các quyền tự do, dân
chủ cho nhân dân Việt Nam.
Đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng, một cương lĩnh
giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, có tư tưởng cốt lõi là
độc lập, tự do cho dân tộc.
Tháng 5 – 1941, Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị lần thứ VIII Ban
Chấp hành trung ương Đảng, viết thư Kính
cáo đồng bào, chỉ rõ: “trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy” . Người chỉ
đạo thành lập Việt Nam độc lập
đồng minh, ra báo Việt Nam độc
lập, thảo Mười chính sách của
Việt Minh, trong đó mục đầu tiên là: “cờ treo độc lập, nền xây bình quyền”. Tháng 8 – 1945, Hồ
Chí Minh đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân dân ta
trong câu nói bất hủ: “dù hy sinh
tới đâu, dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết
giành cho được độc lập”.
Cách mạng Tháng Tám thành công, Người thay mặt chính phủ lâm
thời đọc Tuyên ngôn độc lập, long
trọng khẳng định trước toàn thế giới:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng
tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập.
Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tụ do, độc lập ấy”.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là một
nền độc lập thật sự, hoàn toàn, gắn với hòa bình, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Trong các thư và điện văn gửi tới Liên hợp quốc và chính phủ
các nước vào thời gian sau cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh trịnh
trọng tuyên bố: “Nhân dân chúng tôi
thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết
chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn
vẹn lãnh thổ cho tổ quốc và độc lập cho đất nước”
Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ. Thể
hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc, Hồ Chí Minh ra
lời kêu gọi vang dội núi sông: “Không!
Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ”
Khi đế quốc Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh, ồ ạt đổ quân
viễn chinh và phương tiện chiến tranh hiện đại vào Miền Nam, đồng
thời tiến hành chiến tranh phá hoại Miền Bắc với quy mô và cường độ
ngày càng ác liệt, Hồ Chí Minh nêu cao chân lý lớn nhất của thời
đại: “Không có gì quý hơn độc lập,
tự do”
Độc lập dân tộc, cuối cùng, phải đem lại cơm no, áo ấm, hạnh
phúc cho mọi người dân.
Độc lập, tự do là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm
nên chiến thắng của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, một tư tưởng
lớn trong thời đại giải phóng dân tộc: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là khẩu hiệu hành
động của dân tộc Việt Nam, Đồng thời cũng là nguồn cổ vũ các dân
tộc bị áp bức trên toàn thế giới đang đấu tranh chống chủ nghĩa
thực dân. Vì thế, Hồ Chí Minh không chỉ là anh hùng giải phóng dân tộc của
Việt Nam mà còn là “người khởi
xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế
kỷ XX”.
c. Chủ nghĩa yêu nước chân chính – một động lực lớn của đất
nước
Khi chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, các cường quốc tư
bản Phương Tây ra sức tiến hành chiến tranh xâm lược thuộc địa, thiết
lập ách thống trị của chủ nghĩa thực dân với những chính sách tàn
bạo.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy sự
áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc thuộc
địa càng nặng nề thì phản ứng của dân tộc bị áp bức càng quyết
liệt. Không chỉ quần chúng lao động, mà cả các giai cấp và tầng lớp
trên trong xã hội đều phải chịu nỗi nhục của người dân mất nước,
của một dân tộc mất độc lập, tự do.
Cùng với sự lên án chủ nghĩa thực dân và cổ vũ các dân tộc
thuộc địa vùng dậy đấu tranh, Hồ Chí Minh khẳng định vai trò của
tiềm năng dân tộc trong sự nghiệp tự giải phóng.
Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước chân chính
của các dân tộc thuộc địa. Đó là sức mạnh chiến đấu và thắng lợi
trước bất cứ thế lực ngoại xâm nào.
Theo Hồ Chí Minh, “Chính do tinh
thần yêu nước mà quân đội và nhân dân ta đã mấy năm trường chịu đựng
trăm nghìn cay đắng, kiên quyết đánh cho tan bọn thực dân cướp nước và
bọn Việt gian phản quốc, kiên quyết xây dựng một nước Việt Nam độc
lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường, một nước Việt Nam dân
chủ mới”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân
chính “là một bộ phận của tinh
thần quốc tế”, “khác hẳn với
tinh thần vị quốc của bọn đế quốc phản động”.
Xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc
địa, từ truyền thống dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao
sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước mà những người Cộng sản phải nắm
lấy và phát huy.
2. Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp
a. Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ
với nhau
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của
chủ nghĩa yêu nước, nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để
nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc. Sự kết hợp nhuần nhuyễn
vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh thể hiện: khẳng
định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy
nhất của Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam; chủ
trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nông,
trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng; sử dụng bạo lực cách mạng
của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù;
thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân; gắn kết mục
tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
b. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Khác với các con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập dân
tộc với chủ nghĩa phong kiến hoặc chủ nghĩa tư bản, con đường cứu
nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.
Năm 1920, ngay khi quyết định phương hướng giải phóng và phát
triển dân tộc theo con đường của cách mạng vô sản, Ở Hồ Chí Minh đã
có sự gắn bó thống nhất giữa dân chủ và giai cấp, dân tộc và quốc
tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Năm 1960, Người nói: “Chỉ có
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự
nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa
phản ánh mối quan hệ khắng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc
với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Chỉ có
xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột; thiết lập nhà nước
thực sự của dân, do dân, vì dân mới bảo đảm cho người lao động có
quyền làm chủ, mới thực hiện được sự phát triển hài hòa giữa cá
nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của
con người. Hồ Chí Minh nói: “nước
được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Do đó, sau khi giành được độc lập,
phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước
mạnh, mọi người được sung sướng, tự do.
Người khẳng định: “Yêu tổ quốc,
yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có tiến
lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ
quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”.
c. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp
Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp,
nhưng đồng thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng
dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện để
giải phóng giai cấp. Vì thế, lợi ích của giai cấp phải phục tùng
lợi ích của dân tộc.
Tháng 5 – 1941, Người cùng Trung ương Đảng khẳng định: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận,
của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của
dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng
những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền
lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
d. Giữ vững độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng
độc lập của các dân tộc khác
Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu
tranh cho độc lập của dân tộc Việt Nam, mà còn đấu tranh cho độc lập
của tất cả các dân tộc bị áp bức.
Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, thực hiện nguyên tắc về dân
tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong
việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới.
Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân
Trung Quốc, các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế
quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu: “giúp bạn là tự giúp mình” và chủ
trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào
thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề dân tộc mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc, thể hiện sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân
chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đúng như Ăngghen từng nói: Những tư tưởng dân tộc chân chính trong
phong trào công nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
1. Tính chất, nhiệm vụ và mục tiêu của cách
mạng giải phóng dân tộc
Bằng phương pháp lịch sử cụ thể, bám sát thực tiễn xã hội
thuộc địa, Hồ Chí Minh nhận thấy sự phân hóa giai cấp ở các nước thuộc địa
Phương Đông không giống như ở các nước tư bản Phương Tây. Các giai cấp ở
thuộc địa có sự khác nhau ít nhiều, nhưng đều chung một số phận mất nước; giữa
họ vẫn có tương đồng lớn: dù là địa chủ hay nông dân, họ đều chịu chung số phận
là người nô lệ mất nước.
Nếu như mâu thuẫn chủ yếu ở các nước tư bản chủ nghĩa
Phương Tây là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, thì mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc địa
Phương Đông là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa thực dân. Nó
qui định tính chất và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ở các nước thuộc địa.
Dưới tác động của các chính sách khai thác kinh tế, bóc lột
tô thuế và cướp đoạt ruộng đất, cùng với những chính sách cai trị của chủ nghĩa
đế quốc, mỗi giai cấp ở thuộc địa có địa vị kinh tế, thái độ chính trị khác
nhau, thậm chí có lợi ích phát triển ngược chiều nhau, hình thành nhiều mâu thuẫn
đan xen nhau, nhưng nổi lên mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc
bị áp bức với đế quốc xâm lược và tay sai của chúng. Do vậy, “cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống
như ở Phương Tây”.
Hồ Chí Minh phân tích: xã hội Đông Dương, Ấn Độ, hay Trung
Quốc, xét “về mặt cấu trúc kinh tế, không
giống các xã hội Phương Tây thời Trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh
giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây”. Do mâu thuẫn chủ yếu khác nhau,
tính chất cuộc đấu tranh cách mạng ở các nước tư bản chủ nghĩa và các nước thuộc
địa cũng khác nhau. Nếu như ở các nước tư bản chủ nghĩa phải tiến hành cuộc đấu
tranh giai cấp, thì ở các nước thuộc địa trước hết phải tiến hành cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc.
Đối tượng của cách mạng
thuộc địa không phải là giai cấp tư sản bản xứ, càng không phải là giai cấp
địa chủ nói chung, mà là chủ nghĩa thực dân và tay sai phản động.
Cách mạng xã hội là lật đổ nền thống trị hiện có và thiết
lập một chế độ xã hội mới. Cách mạng ở thuộc địa trước hết phải “lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc”,
chứ chưa phải là cuộc cách mạng xóa bỏ sự tư hữu, sự bóc lột nói chung.
Hồ Chí Minh luôn luôn phân biệt rõ bọn thực dân xâm lược với
nhân dân các nước tư bản chủ nghĩa. Người kêu gọi nhân dân các nước phản đối
chiến tranh xâm lược thuộc địa, ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của
nhân dân Việt nam.
Yêu cầu bức thiết của
nhân dân các nước thuộc địa là độc lập dân tộc. Trong phong trào cộng sản
quốc tế, có quan điểm cho rằng “vấn đề cơ
bản của cách mạng thuộc địa là vấn đề nông dân” và chủ trương nhấn mạnh vấn
đề ruộng đất, nhấn mạnh đấu tranh giai cấp.
Ở các nước thuộc địa, nông dân là lực lượng đông đảo nhất.
Thực dân Pháp thống trị và bóc lột nhân dân Việt Nam thì chủ yếu là thống trị
và bóc lột nông dân. Nông dân là nạn nhân chính của các chính sách thuộc địa,
bóc lột tô thuế và cướp đoạt ruộng đất. Vì thế, kẻ thù số một của nông dân là bọn
đế quốc thực dân. Nông dân có hai yêu cầu: độc lập dân tộc và ruộng đất, nhưng
họ luôn đặt yêu cầu độc lập dân tộc cao hơn so với yêu cầu ruộng đất.
Cùng với nông dân, tất cả các giai cấp và tầng lớp khác
nhau đều có nguyện vọng chung là “cứu nòi
giống” ra khỏi cảnh “nước sôi lửa bỏng”.
Việc cứu nước là việc chung của cả dân tộc bị áp bức.
Mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa là mâu thuẫn dân tộc, quy định
tính chất và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
ở thuộc địa là giải phóng dân tộc.
Trong tác phẩm Đường
Cách Mệnh, Nguyễn Ái Quốc phân biệt ba loại cách mạng: cách mạng tư sản,
cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc; đồng thời, Người nhấn mạnh
tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc.
Người giải thích:
Giai cấp công nhân là bộ phận có số lượng lớn nhất trong
dân tộc nên giải phóng dân tộc chủ yếu là giải phóng nông dân. Nông dân có yêu
cầu về ruộng đất nhưng nhiệm vụ về ruộng đất cần tiến hành từng bước thích hợp.
Khi đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, yêu cầu đó đã được đáp ứng một
phần vì ruộng đất của bọn đế quốc và tay sai sẽ thuộc về nông dân. Đế quốc và
tay sai là kẻ thù số một của nông dân, lật đổ chế độ thuộc địa là nguyện vọng
hàng đầu của nông dân.
Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo, xác định những nhiệm vụ về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội,
nhưng nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc đã bao
hàm một phần giải phóng giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Hội nghị lần thứ VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng (
tháng 5 năm 1941 ) do chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì đã kiên quyết dương cao ngọn
cờ giải phóng dân tộc, nhấn mạnh đó là “nhiệm
vụ bức thiết nhất”, chủ trương tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất” và chỉ tiến hành nhiệm vụ đó ở một mức độ
thích hợp nhằm phục vụ cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Trong nhiều bài nói, bài viết thời kỳ kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân
tộc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người khẳng định: “ trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi,
thống nhất, độc lập nhất định thành công”. Trong kháng chiến chống Mỹ, Người
nêu rõ: “tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất.
Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.
Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của
chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và thành lập chính quyền của nhân
dân.
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước với ý chí quyết giải
phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào. Người tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba, vì
quốc tế ba có chủ trương giải phóng dân tộc bị áp bức.
Mục tiêu cấp thiết của cách mạng ở thuộc địa chưa phải là
giành quyền lợi riêng biệt của mỗi giai cấp, mà là quyền lợi chung của toàn dân
tộc. Đó là những mục tiêu của chiến lược đấu tranh dân tộc, phù hợp với xu thế
của thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng giai cấp, đáp ứng
nguyện vọng độc lập, tự do của quần chúng nhân dân.
Tuy nhiên, do những hạn chế trong nhận thức về thực tiễn của
cách mạng thuộc địa, lại chịu ảnh hưởng của tư tưởng giáo điều, “tả khuynh”, nhấn mạnh một chiều đấu
tranh giai cấp, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng ( tháng 10
– 1930 ) đã phê phán những quan điểm của Nguyễn Ái Quốc. Nhưng với bản lĩnh
cách mạng kiên cường, bám sát thực tiễn Việt Nam, kiên quyết chống
giáo điều, tháng 5 – 1941, Nguyến Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ
VIII Ban chấp hành trung ương Đảng, chủ trương “thay đổi chiến lược”, từ nhấn mạnh đấu tranh giai cấp sang
nhấn mạnh cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Hội nghị khẳng định
dứt khoát: “cuộc cách mạng Đông
Dương hiện tại không phải là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền,
cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa
nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp “dân
tộc giải phóng”, vậy thì cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn
hiện tại là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”. Hội nghị chủ
trương tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “cách
mạng ruộng đất”, chỉ chia lại công điền và ruộng đất “tịch thu của Việt gian phản quốc”
cho dân cày nghèo, tức là ruộng đất đang nằm trong tay kẻ thù của dân
tộc, chứ không phải là của giai cấp địa chủ nói chung, nhằm đánh
lại kẻ thù của dân tộc cả về chính trị và kinh tế.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 cũng như
những thắng lợi trong 30 năm chiến tranh của cách mạng Việt Nam (1945 –
1975 ) trước hết là thắng lợi của đường lối cách mạng giải phóng
dân tộc đúng đắn và tư tưởng độc lập, tự do của Hồ Chí Minh.
2. Cách mạng giải phóng dân
tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản
Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của
thực dân Pháp, ông cha ta đã sử dụng nhiều con đường gắn với những
khuynh hướng chính trị khác nhau, sử dụng những vũ khí tư tưởng khác
nhau.
Tất cả phong trào yêu nước vào cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX, mặc dù đã diễn ra vô cùng anh dũng, với tinh thần “người trước ngã, người sau đứng dậy”,
nhưng rốt cuộc đều bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Đất nước lâm
vào “tình hình đen tối tưởng như
không có đường ra”. Đó là tình trạng khủng hoảng về đường lối
cứu nước ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Nó đặt ra yêu cầu bức thiết
phải tìm một con đường cứu nước mới.
Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã bị
biến thành thuộc địa, nhân dân phải chịu cảnh lầm than, Hồ Chí Minh
được chứng kiến các phong trào cứu nước của ông cha. Người nhận thấy
con đường của Phan Bội Châu chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”; con đường của Phan Chu
Trinh cũng chẳng khác gì “xin giặc
rủ lòng thương”; con đường của Hoàng Hoa Thám tuy có phần thực tế
hơn, nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong kiến.
Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước
của ông cha, nhưng Hồ Chí Minh không tán thành các con đường của họ
mà quyết tâm ra đi tìm một con đường mới.
Trong khoảng 10 năm vượt qua các đại dương, đến với
nhân loại cần lao đang đấu tranh ở nhiều châu lục và quốc gia trên thế
giới, Nguyễn Ái Quốc đã kết hợp tìm hiểu lý luận và khảo sát
thực tiễn, nhất là ở ba nước tư bản phát triển: Anh, Pháp, Mỹ.
Người đọc Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, tìm
hiểu thực tiễn cuộc cách mạng tư sản Mỹ, đọc Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của cách mạng Pháp, tìm
hiểu cách mạng tư sản Pháp. Người nhận thấy: “cách mệnh Pháp cũng như cách Mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư
sản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực
trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”.
Bởi lẽ đó, Người không đi theo con đường cách mạng tư sản.
Hồ Chí Minh thấy được Cách mạng Tháng Mười Nga
không chỉ là một cuộc cách mạng vô sản, mà còn là một cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm gương sáng về sự nghiệp giải
phóng các dân tộc thuộc địa và “mở
ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải
phóng dân tộc”.
Người “hoàn toàn
tin theo Lênin và quốc tế thứ ba” bởi vì Lênin và quốc tế thứ ba
đã “bênh vực cho các dân tộc bị áp
bức”. Người thấy trong lý luận của Lênin một phương hướng mới để
giải phóng dân tộc: Con đường cách mạng vô sản.
Trong bài Cuộc
kháng chiến, Hồ Chí Minh viết: “chỉ
có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả
hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa
cộng sản và của cách mạng thế giới”.
Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu
và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh
đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mac – Lênin và lựa
chọn khuynh hướng chính trị vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”…chỉ có
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô
lệ…
3. Cách mạng giải phóng dân
tộc trong thời đại mới phải do Đảng cộng sản lãnh đạo
Nguyễn Ái Quốc phân tích: “Phàm làm việc gì cũng vậy, bất kỳ lớn bé, bất kỳ khó dễ,
nếu không ra sức thì chắc không thành công…Việc giải phóng gông cùm nô
lệ cho đồng bào, cho nhân loại” là “việc to tát” nên phải gắng sức”.
“Việc gì khó cho mấy, quyết tâm làm
thì làm chắc được, ít người làm không nổi, nhiều người đồng tâm
hiệp lực mà làm thì phải nổi. Đời này chưa làm xong thì đời sau
nối theo làm thì phải xong”. Muốn làm cách mạng thì phải bền
gan, đồng chí, đồng lòng và quyết tâm, lại “phải biết cách làm thì làm mới chóng”.
“Sửa cái xã hội
cũ đã mấy ngàn năm làm xã hội mới, ấy là rất khó. Nhưng biết cách
làm, biết đồng tâm hiệp lực mà làm thì chắc làm được, thế thì
không khó. Khó dễ cũng tại mình, mình quyết chí làm thì làm được”.
Nhưng muốn làm cách mệnh, “trước hết phải làm cho dân giác ngộ…phải giảng giải lý luận
và chủ nghĩa cho dân hiểu”. “Cách
mệnh phải hiểu phong triều thế giới, phải bày sách lược cho dân…vậy
nên sức cách mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách
mệnh”.
Trong tác phẩm Đường
cách mệnh, Người khẳng định: “Trước
hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp
mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm
lái có vững thuyền mới chạy”.
Đầu năm 1930, Người sáng lập Đảng cộng sản Việt
Nam, một chính đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, lấy
chủ nghĩa Mac – Lênin “làm cốt”,
có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh và mật thiết liên lạc với
quần chúng.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng
Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam.
Kết hợp lý luận Mac – Lênin về đảng cộng sản với
thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mac – Lênin trên một loạt vấn đề về cách
mạng giải phóng dân tộc, xây dựng nên một lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Lý luận đó không
chỉ được truyền bá trong phong trào công nhân, mà cả trong phong trào
yêu nước, giải quyết vấn đề đường lối cứu nước gắn liền với sự
chuẩn bị những điều kiện về tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự
ra đời một chính đảng cách mạng ở Việt Nam, sáng lập và rèn luyện
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phát triển sáng tạo học thuyết Mac – Lênin về Đảng
Cộng sản, Người cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là “Đảng của giai cấp vô sản”, đồng
thời là “Đảng của dân tộc”. “Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí
óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực
phụng sự tổ quốc và nhân dân”
Khi khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của
giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nêu một luận
điểm quan trọng, bổ sung thêm cho lý luận của chủ nghĩa Mac – Lênin về
Đảng cộng sản, định hướng cho việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
thành một Đảng có sự gắn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân, với
nhân dân lao động và cả dân tộc trong mọi thời kỳ của cách mạng Việt
Nam. Mọi người Việt Nam yêu nước, dù là đảng viên hay không, đều thực
sự cảm nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của Bác Hồ, là Đảng
của mình và đều gọi Đảng là “Đảng
ta”.
Hồ Chí Minh đã xây dựng được một Đảng cách mạng
tiên phong, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, gắn bó với nhân dân, với
dân tộc, một lòng một dạ phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân, được
nhân dân, được dân tộc thừa nhận là đội tiên phong của mình.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng do Hồ Chí Minh sáng
lập đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp công
nhân và cả dân tộc Việt Nam. Đó là một đặc điểm đồng thời là một
ưu điểm của Đảng. Nhờ đó, ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm ngọn
cờ lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và trở thành nhân
tố hàng đầu bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng.
4. Lực lượng của cách mạng
giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
Năm 1924, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một cuộc khởi
nghĩa vũ trang toàn dân. Người cho rằng: “Để có cơ thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương
phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một
cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng…”.
Hồ Chí Minh nghiêm khắc phê phán việc lấy ám sát
cá nhân và bạo động non làm phương thức hành động, “hoặc xúi dân bạo động mà không bày
cách tổ chức; hoặc làm cho dân quen ỷ lại, mà quên tính tự cường”.
Người khẳng định “cách mệnh là
việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”.
Trong cách mạng Tháng Tám 1945 cũng như hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh lấy nhân
dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm “lấy
dân làm gốc” xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người.
“Có dân là có tất cả”, “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó
vạn lần dân liệu cũng xong”. Khi còn hoạt động ở nước ngoài, Hồ
Chí Minh nói: “Đối với tôi, câu trả
lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ
chức họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”.
Hồ Chí Minh đánh gia rất cao vai trò của quần
chúng nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại
và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là nhân tố then chốt bảo
đảm thắng lợi. Người khẳng định: “dân
khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi”,
“phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân
thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt được”, “chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượng của quần chúng,
của dân tộc”.
Dưới chế độ cai trị của chủ nghĩa tư bản Pháp,
từ một xã hội phong kiến thuần túy, Việt Nam biến thành một xã hội
thuộc địa với những tàn tích phong kiến nặng nề. Mặc dù thực dân
Pháp còn duy trì một phần quan hệ kinh tế và giai cấp địa chủ, phong
kiến, song khi đã thành một chế độ thuộc địa thì tất cả các mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và giai cấp ở Việt Nam đều bị
đặt trong quỹ đạo chuyển động của xã hội đó. Ngoài giai cấp công
nhân và nông dân, giai cấp tư sản dân tộc và một bộ phận địa chủ vừa
và nhỏ mặc dù vẫn có mặt hạn chế trong quan hệ với quần chúng lao
động, nhưng trong quan hệ với thực dân Pháp thì họ cũng là những
người Việt Nam chịu nỗi nhục mất nước. Đó không phải là những giai
cấp thống trị, mà trái lại, họ là những giai cấp bị trị và có
khả năng tham gia phong trào giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh phân tích: ‘…dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông,
công, thương đều nhất trí chống cường quyền”.
Trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng Người xác định lực lượng cách mạng
bao gồm cả dân tộc: Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công
nhân, tập hợp đại bộ phận nông dân và phải dựa vào hạng dân cày
nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư
sản, trí thức, trung nông…đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú
nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách
mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ
phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng Lập hiến) thì phải
đánh đổ.
Trong lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh hết sức
nhấn mạnh vai trò động lực cách
mạng của công nhân và nông dân. Người phân tích: Các giai cấp công
nhân và nông dân có số lượng đông nhất, nên có sức mạnh lớn nhất. Họ
lại bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất, nên “lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết…công nông
là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu
được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”. Từ đó, Người
khẳng định: công, nông là “gốc cách
mệnh”. Khẳng định vai trò động lực cách mạng của công nhân và nông
dân là một vấn đề hết sức mới mẻ so với nhận thức của những nhà
yêu nước trước đó.
Trong khi hết sức nhấn mạnh vai trò của công nhân
và nông dân, Hồ Chí Minh không coi nhẹ khả năng tham gia sự nghiệp giải
phóng dân tộc của các giai cấp và tầng lớp khác. Người coi tiểu tư
sản, tư sản dân tộc và một bộ phận giai cấp địa chủ là bạn đồng
minh của cách mạng. Người chỉ rõ: “…học
trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không
cực khổ bằng công nông; ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của
công nông thôi”.
5. Cách mạng giải phóng dân
tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành
được thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn độc
quyền, nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức
thiết về thị trường. Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc
chiến tranh xâm lược thuộc địa. Các nước thuộc địa trở thành một
trong những nguồn sống của chủ nghĩa đế quốc.
Nguyễn Ái Quốc khẳng định: ”tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các
nước thuộc địa. Đó là nơi chủ nghĩa tư bản lấy nguyên liệu cho các
nhà máy của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ nhân công rẻ mạt
cho đạo quân lao động của nó, và nhất là tuyển những binh lính bản
xứ cho các đạo quân phản cách mạng của nó”. “…nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang
tập trung ở các thuộc địa”. Người thẳng thắn phê bình một số
đảng cộng sản không thấy được vấn đề quan trọng đó. Người chỉ rõ: “Bàn về khả năng và các biện pháp
thực hiện cách mạng, đề ra kế hoạch của cuộc chiến đấu sắp tới,
các đồng chí Anh và Pháp cũng như các đồng chí ở các đảng khác
hoàn toàn bỏ qua luận điểm cực kỳ quan trọng có tính chiến lược
này. Chính vì thế, tôi hết sức kêu gọi các đồng chí: Hãy chú ý!”
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ
nghĩa thực dân, cách mạng thuộc địa có tầm quan trọng đặc biệt. Nhân
dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn. Theo Hồ Chí
Minh, phải “làm cho các dân tộc
thuộc địa, từ trước tới nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn
và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh Phương Đông tương lai, khối
liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”.
Tại phiên họp thứ 22 Đại hội V Quốc tế Cộng sản (
1 - 7 - 1920 ), Nguyễn Ái Quốc phê phán các đảng cộng sản ở Pháp,
Anh, Hà Lan, Bỉ và các đảng cộng sản ở các nước có thuộc địa chưa
thi hành chính sách thật tích cực trong vấn đề thuộc địa, trong khi
tư sản các nước đó đã làm tất cả để kìm giữ tất cả các dân tộc
bị chúng nô dịch trong vòng áp bức.
Trong khi yêu cầu Quốc tế Cộng sản và các đảng
cộng sản quan tâm đến cuộc cách mạng thuộc địa, Hồ Chí Minh vẫn
khẳng định công cuộc giải phóng nhân
dân thuộc địa chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực tự giải
phóng.
Vận dụng công thức của Mac: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của
bản thân giai cấp công nhân” Người đi đến luận điểm: “công cuộc giải phóng anh em (tức nhân
dân thuộc địa ) chỉ có thể thực hiện được bằng nỗ lực của bản thân
anh em”.
Người đánh giá rất cao sức mạnh của một dân tộc
vùng dậy chống đế quốc thực dân. Người chủ trương phát huy nỗ lực
chủ quan của dân tộc, tránh tư tưởng bị động, trông chờ vào sự giúp
đỡ bên ngoài. Tháng 8 – 1945, khi thời cơ cách mạng xuất hiện, Người
kêu gọi: “toàn quốc đồng bào hãy
đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nói: “Kháng chiến trường kỳ gian khổ, đồng
thời lại phải tự lực cánh sinh. Trông vào sức mình…Cố nhiên, sự
giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại,
không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh
sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được
độc lập”.
Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại
quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng
lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Quan điểm này, vô hình trung
đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng
ở thuộc địa.
Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân
tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ
mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế
quốc. Đó là mối quan hệ bình
đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính –
phụ.
Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của
cách mạng thuộc địa và sức mạnh dân tộc, Nguyến Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc
địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý
luận và thực tiễn to lớn; một cống hiến rất quan trọng của Hồ Chí
Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mac – Lênin, đã được thắng
lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới
trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
6. Cách mạng giải phóng dân
tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực
Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược
và thống trị thuộc địa, đàn áp dã man các phong trào yêu nước. “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã
là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”.
Chưa đánh bại được lực lượng và đè bẹp ý chí xâm lược của chúng
thì chưa thể có thắng lợi hoàn toàn, vì thế, con đường để giành và
giữ độc lập dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực.
Đánh giá đúng bản chất cực kỳ phản động của bọn
đế quốc và tay sai, Hồ Chí Minh vạch rõ tính tất yếu của bạo lực cách mạng: “Trong cuộc đấu tranh
gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại
bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính
quyền”.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin, coi
sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh cho
rằng bạo lực cách mạng là bạo lực
của quần chúng.
Trong thời kỳ vận động giải phóng dân tộc 1940 –
1945, Người cùng với Trung ương Đảng chỉ đạo xây dựng cơ sở của bạo
lực cách mạng bao gồm hai lực lượng: lực lượng chính trị quần chúng
và lực lượng vũ tranh nhân dân. Theo sáng kiến của Người, Mặt trận
Việt Minh được thành lập. Đó là nơi tập hợp, giác ngộ và rèn luyện
lực lượng chính trị quần chúng, một lực lượng cơ bản và giữ vai
trò quyết định trong tổng khởi nghĩa vũ trang.
Hình thức của
bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ
trang, nhưng phải “tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình
thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp
các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành
thắng lợi cho cách mạng”.
Trong cách mạng Tháng Tám, bạo lực thể hiện bằng
khởi nghĩa vũ trang với lực lượng chính trị là chủ yếu.
Đó là công cụ để đạp tan chính quyền của bọn
phát xit Nhật và tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân.
Trong chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang và
đấu tranh vũ trang giữ vị trí quyết định trong việc tiêu diệt lực
lượng quân sự địch, làm thất bại những âm mưu quân sự và chính trị
của chúng. Nhưng đấu tranh vũ trang không tách biệt với đấu tranh
chính trị. Theo Hồ Chí Minh, các đoàn thể cách mạng càng phát
triển, quần chúng đấu tranh chính trị càng mạnh thì càng có cơ sở
vững chắc để tổ chức lực lượng vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ
trang.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng khác
hẳn tư tưởng hiếu chiến của các thế lực đế quốc xâm lược. Xuất
phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng con người,
Người luôn tranh thủ khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu.
Người tìm mọi cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa
bình, chủ động đàm phán, thương lượng, chấp nhận những nhượng bộ
có nguyên tắc.
Việc tiến hành
chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Chỉ khi không
còn khả năng hòa hoãn, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập trường thực
dân, chỉ muốn giành thắng lợi bằng quân sự thì Hồ Chí Minh mới kiên
quyết phát động chiến tranh.
Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo,
hòa bình thống nhất biện chứng với nhau. Yêu thương con người, yêu
chuộng hòa bình, tự do, công lý, tranh thủ mọi khả năng hòa bình để
giải quyết xung đột, nhưng một khi không thể tránh khỏi chiến tranh
thì phải kiên quyết tiến hành chiến tranh, kiên quyết dùng bạo lực
cách mạng để giành, giữ và bảo vệ hòa bình, vì độc lập, tự do.
Đánh giặc không phải là để tiêu diệt hết lực lượng mà chủ yếu là
đánh bại ý chí xâm lược của chúng, kết hợp giành thắng lợi về quân
sự với giải pháp ngoại giao để kết thúc chiến tranh.
Theo Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp kháng chiến, kiến
quốc “lực lượng chính là ở dân”.
Người chủ trương tiến hành khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân
dân.
Xuất phát từ tương quan lực lượng lấy nhỏ đánh
lớn, lấy ít địch nhiều, Hồ Chí Minh không chủ trương tiến hành kiểu
chiến tranh thông thường, có chiến tuyến rõ rệt, chỉ dựa vào lực
lượng quân đội và dốc toàn lực vào một số trận sống mái với kẻ
thù, mà chủ trương phát động chiến tranh nhân dân, dựa vào lực lượng
toàn dân, có lực lượng vũ trang làm nòng cốt, đấu tranh toàn diện
với kẻ thù đế quốc với tư tưởng chiến lược tiến công, phương châm
chiến lược đánh lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Hồ Chí Minh
nói: ”Không dùng toàn lực của nhân
dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng lợi được”
Toàn dân khởi nghĩa, toàn dân nổi dậy là nét đặc
sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về hình thái của bạo lực cách mạng.
Trong chiến tranh, “quân
sự là việc chủ chốt”, nhưng đồng thời phải kết hợp chặt chẽ
với đấu tranh chính trị, “thắng lợi
quân sự đem lại thắng lợi chính trị, thắng lợi chính trị sẽ làm cho
thắng lợi quân sự to lớn hơn”.
Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận có ý
nghĩa chiến lược, có tác dụng thêm bạn bớt thù, phân hóa và cô lập
kẻ thù, phát huy yếu tố chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc và bảo vệ tổ quốc, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của
quốc tế. Hồ Chí Minh chủ trương vừa đánh vừa đàm”, “đánh là chủ yếu, đàm là hỗ trợ”.
Đấu tranh kinh tế là ra sức tăng gia sản xuất, thực
hành tiết kiệm, phát triển kinh tế của ta, phá hoại kinh tế của
địch. Người kêu gọi: “hậu phương thi
đua với tiền phương”, coi “ruộng
rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ”,
“tay cày tay súng, tay búa tay súng,
ra sức phát triển sản xuất để phục vụ kháng chiến”.
Chiến tranh về mặt văn hoá hay tư tưởng so với những
mặt khác cũng không kém quan trọng.
Mục đích của cách mạng và chiến tranh chính nghĩa
là vì độc lập, tự do, làm cho khả năng tiến hành chiến tranh nhân dân
trở thành hiện thực, làm cho toàn dân tự giác tham gia kháng chiến.
Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ
trương sử dụng phương châm chiến lược đánh lâu dài.
Tự lực cánh sinh
cũng là một phương châm chiến lược rất quan trọng, nhằm phát huy
cao độ nguồn sức mạnh chủ quan, tránh tư tưởng bị động, trông chờ
vào sự giúp đỡ bên ngoài. Mặc dù rất coi trọng sự giúp đỡ quốc tế
nhưng Hồ Chí Minh luôn đề cao sức mạnh bên trong, phát huy đến mức cao
nhất mọi nỗ lực của dân tộc, đề cao tinh thần độc lập, tự chủ.
Độc lập, tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với
tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là một quan điểm nhất quán trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ, Người đã động viên sức mạnh của toàn dân tộc, đồng
thời ra sức vận động, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có
hiệu quả cả về vật chất và tinh thần, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại để kháng chiến thắng lợi.
KẾT
LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách
mạng giải phóng dân tộc có những luận điểm sáng tạo, đặc sắc, có
giá trị lý luận và thực tiễn lớn.
1. Làm phong phú học thuyết
mac – Lênin về cách mạng thuộc địa
- Về lý luận
cách mạng giải phóng dân tộc
Đến với chủ nghĩa Mac – Lênin, xác định con đường
cứu nước theo khuynh hướng chính trị vô sản, nhưng con đường cách mạng
giải phóng dân tộc là do Hồ Chí Minh hoạch định, chứ không phải đã tồn
tại từ trước.
Hồ Chí Minh không tự khuôn mình trong những nguyên
lý có sẵn, không rập khuôn máy móc lý luận đấu tranh giai cấp vào
điều kiện lịch sử ở thuộc địa mà có sự kết hợp hài hòa vấn đề
dân tộc với vấn đề giai cấp, giải quyết vấn đề dân tộc theo quan
điểm giai cấp và giải quyết vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc,
gắn độc lập dân tộc với phương hướng xã hội chủ nghĩa.
Lý luận cách
mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh bao gồm một hệ thống những
quan điểm sáng tạo, độc đáo. Lý luận đó phải trải qua những thử thách hết sức
gay gắt. Song thực tiễn dẫ chứng minh lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của
Hồ Chí Minh là đúng đắn.
Lý luận giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là một đóng góp
lớn vào kho tàng lý luận cách mạng của thời đại, làm phong phú thêm chủ nghĩa
Mac – Lênin về cách mạng thuộc địa.
- Về phương pháp tiến
hành cách mạng giải phóng dân tộc
Phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ
Chí Minh hết sức độc đáo và sáng tạo, thấm nhuần tính nhân văn.
Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa, nhất là
so sánh lực lượng quá chênh lệch về kinh tế và quân sự giữa các dân tộc bị áp bức
và chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh đã xây dựng nên lý luận về phương pháp khởi
nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân.
Hồ Chí Minh đã sử dụng quan điểm toàn diện, biện chứng để
phân tích, so sánh lực lượng giữa ta và địch. Phát huy và sử dụng sức mạnh toàn
dân tộc, dựa vào sức mạnh toàn dân để tiến hành khởi nghĩa vũ trang và chiến
tranh cách mạng, kết hợp các quy luật của khởi nghĩa và chiến tranh là điểm độc
đáo trong phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết
của Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới, sáng tạo,
bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng
giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Đó là một di sản tư tưởng quân sự vô giá mà Hồ
Chí Minh để lại cho Đảng và nhân dân ta.
Tư tưởng đó thâm nhập vào phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam, góp phần quyết định trong việc xác lập con đường cứu nước
mới, làm cho phong trào yêu nước Việt Nam chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô
sản.
Hồ Chí Minh đã tập hợp những thanh niên yêu nước Việt Nam,
rồi truyền bá chủ nghĩa Mac – Lênin và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc cho
họ, dẫn dắt họ đi theo con đường mà chính Người đã trải qua: từ chủ nghĩa yêu
nước đến với chủ nghĩa Mac – Lênin. Sự chuyển hóa tiêu biểu nhất là Tân Việt
cách mạng Đảng, từ lập trường tư sản đã chuyển sang lập trường vô sản.
Đó là sự chuyển hóa mang tính cách mạng, đưa sự nghiệp giải
phóng và phát triển dân tộc tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Soi đường thắng lợi cho cách mạng
giải phóng dân tộc ở Việt Nam
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và 30 năm chiến tranh
cách mạng Việt Nam (1945 – 1975) đã chứng minh tinh thần độc lập, tự chủ, tính
khoa học, tính cách mạng và sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải
phóng dân tộc ở Việt Nam, soi đường cho dân tộc Việt Nam tiến lên, cùng nhân loại
biến thế kỷ XX thành thế kỷ giải trừ chủ
nghĩa thực dân trên toàn thế giới.
- Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám 1945
Mặc dù chiến lược giải phóng dân tộc được thể hiện trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
đã bị phủ nhận trong một thời gian dài và bị thay bằng một chiến lược đấu tranh
giai cấp của Luận cương chính trị tháng
10 năm 1930 nhưng nó đã được khẳng định trở lại trong thời kỳ trực tiếp vận
động cứu nước (1939 – 1945), đặc biệt trong Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (tháng 5 – 1941).
Theo lý luận giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh, Đảng đã
chủ trương “thay đổi chiến lược”, kiên quyết giương cao ngọn cờ giải phóng dân
tộc, đặt nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc lên hàng đầu, giải quyết
vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, thành lập Mặt trận Việt
minh, đề ra chủ trương khởi nghĩa vũ trang, xây dựng căn cứ địa cách mạng; sử dụng
bạo lực cách mạng dựa vào lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang; đi từ khởi
nghĩa từng phần và chiến tranh du kích cục bộ, giành chính quyền bộ phận ở nhiều
vùng nông thôn, tiến lên chớp đúng thời cơ, tổng khởi nghĩa ở nông thôn và
thành thị, giành chính quyền trong cả nước.
- Thắng lợi của 30
năm chiến tranh cách mạng (1945-1975)
Nắm vững tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí
Minh, cả dân tộc Việt nam đã tiến hành hai cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa thực
dân cũ và mới trong suốt 30 năm.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, quân và dân ta anh
dũng đứng lên với tinh thần “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ” và niềm tin “kháng chiến nhất định thắng
lợi”; thực hiện mỗi người dân là một người lính, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi
khu phố là một trận địa, đánh giặc toàn diện và bằng mọi vũ khí có trong tay; vừa
kháng chiến vừa kiến quốc, vừa chiến đấu vừa xây dựng hậu phương và vận động quốc
tế; đi từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy, kết hợp chiến tranh du
kích với chiến tranh chính quy, đánh địch cả ở mặt trận chính diện và sau lưng
chúng, kết hợp đánh tập trung và đánh phân tán, đánh tiêu diệt và đánh tiêu
hao, từng bước làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, tiến lên giành
thắng lợi quyết định trong cuộc chiến tranh chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và
chiến dịch Điện Biên Phủ, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh và tạo cơ sở thực
lực về quân sự cho cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Genève, kết thúc cuộc
kháng chiến.
Trong cuộc đụng đầu lịch sử giữa dân tộc Việt Nam với đế
quốc Mỹ xâm lược, quân và dân ta đã nêu cao tinh thần dám đánh Mỹ và quyết thắng
Mỹ, với tinh thần “không có gì quý hơn độc lập, tự do”; quán triệt tư tưởng chiến
lược tiến công, phương châm chiến lược đánh lâu dài và nghệ thuật giành thắng lợi
từng bước; vừa xây dựng hậu phương Miền bắc, vừa đẩy mạnh cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân và chiến tranh cách mạng ở Miền Nam; bằng chiến lược tổng hợp
của chiến tranh nhân dân: Sử dụng bạo lực cách mạng dựa vào hai lực lượng: lực
lượng chính trị và lực lượng vũ trang; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu
tranh vũ trang; đi từ khởi nghĩa từng phần, tiến lên làm chiến tranh cách mạng;
kết hợp ba mũi giáp công: quân sự, chính trị và binh vận; kết hợp ba vùng chiến
lược: nông thôn rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị; kết hợp khởi nghĩa và chiến
tranh; kết hợp nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy; kết hợp chiến tranh
nhân dân địa phương với chiến tranh nhân dân của các binh đoàn chủ lực; kết hợp
ba thứ quân; kết hợp đánh lớn, đánh vừa và nhỏ; kết hợp tiêu diệt lực lượng địch
với bồi dưỡng lực lượng ta, thực hiện càng đánh càng mạnh; làm lung lay ý chí
xâm lược của đế quốc Mỹ; kết hợp đấu tranh trên ba mặt trận: quân sự, chính trị
và ngoại giao, thực hiện “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”.
Những thắng lợi chiến lược của cách mạng Việt Nam trong thế
kỷ XX chứng tỏ giá trị khoa học và thực tiễn to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về
cách mạng giải phóng dân tộc.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, chúng ta phải biết khơi
dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguốn động lực mạnh mẽ
để xây dựng và bảo vệ đất nước; nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên lập
trường giai cấp công nhân; chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết
tốt mối quan hệ giữa các dân tộc anh em và trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
CHƯƠNG III
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM
I. TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Hồ chí Minh đã tiếp thu, vận
dụng sáng tạo lý luận Mac – Lênin về sự phát triển tất yếu của xã hội loài người
theo các hình thái kinh tế - xã hội. Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm: tiến lên chủ
nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở Việt Nam sau khi nước nhà đã giành được
độc lập theo con đường cách mạng vô sản.
Mục tiêu giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản mà Hồ Chí
Minh đã lựa chọn cho dân tộc Việt Nam là một nước nhà được độc lập, nhân dân được
hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, tức là sau khi giành độc lập dân tộc,
nhân dân ta sẽ xây dựng một xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong lịch sử
cận đại và hiện đại, sự phát triển của dân tộc Việt Nam đã được trải nghiệm qua
các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Các cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc để xây dựng lại một chế độ phong kiến, hoặc để xây dựng một chế độ cộng hòa
đại nghị tư sản đã bị bế tắc. Với điều kiện lịch sử mới, con đường phát triển của
dân tộc Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Điều này
chính là sự lựa chọn đúng đắn của Hồ Chí Minh và thực tế chứng minh con đường
phát triển đó của dân tộc Việt Nam là tất yếu, duy nhất đúng, hợp với điều kiện
của Việt Nam và phù hợp với xu thế tất yếu của thời đại. Ngay từ đầu những năm
20 của thế kỷ XX, khi đã tin theo lý luận chủ nghĩa cộng sản khoa học của chủ
nghĩa Mac – Lênin, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới
cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự
do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và
vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới
chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những bức
tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau và thương yêu
nhau”
2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
a. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội theo quan điểm Mac – Lênin từ lập
trường của một người yêu nước đi tìm con đường giải phóng dân tộc để xây dựng một
xã hội mới tốt đẹp. Người tiếp thu quan điểm của những nhà sáng lập chủ nghĩa
xã hội khoa học, đồng thời có sự bổ sung cách tiếp cận mới về chủ nghĩa xã hội.
- Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận về
chủ nghĩa xã hội khoa học của lý luận Mac – Lênin trước hết là từ yêu cầu tất yếu
của công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam. Người tìm thấy trong lý
luận Mac – Lênin sự thống nhất biện chứng giữa giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội (trong đó có giải phóng giai cấp) và giải phóng
con người. Đó cũng là mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản
theo đúng bản chất của chủ nghĩa Mac – Lênin.
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa
xã hội ở một phương diện nữa là đạo đức, hướng tới giá trị nhân
đạo, nhân văn Macxit, giải quyết tốt quan hệ giữa cá nhân và xã
hội theo quan điểm của Mac và Ăngghen trong bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
mà hai ông công bố tháng 2 năm 1848: Sự phát triển tự do của
mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người.
- Bao trùm lên tất cả là Hồ
Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ văn hóa. Văn hóa trong chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam có quan hệ biện chứng với chính trị, kinh
tế. Quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng là
quá trình xây dựng một nền văn hóa mà ở đó kết tinh, kế thừa, phát
triển những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp hàng ngàn năm của
dân tộc Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, kết hợp truyền
thống với hiện đại, dân tộc và quốc tế.
Nhân dân Việt Nam xây dựng một xã hội như vậy theo quan điểm của
Hồ Chí Minh cũng là tuân theo một quy luật phát triển của dân tộc
Việt Nam: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn liền với nhau.
Độc lập dân tộc là tiền đề, là điều kiện tiên quyết để xây dựng
chủ nghĩa xã hội; xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là một điều
kiện bảo đảm vững chắc, đồng thời là mục tiêu cho độc lập dân tộc
hướng tới. Hồ Chí Minh đã thấy rõ tính tất yếu của sự phát triển
đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam ngay khi trở thành người
cộng sản năm 1920 và khẳng định điều đó trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam;
kiên trì, nhất quán bảo vệ và phát triển quan điểm này trong suốt
bước đường phát triển của cách mạng Việt Nam từ đó về sau, mặc dù
con đường phát triển ấy thực chất là “một cuộc chiến đấu khổng lồ”
chống lại những gì là cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra cái mới mẻ, tốt
tươi; mặc dù con đường ấy có nhiều khó khăn, chông gai, phức tạp.
b. Đặc trưng bản chất tổng quát của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
Hồ Chí Minh bày tỏ quan niệm của mình về chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam không chỉ trong một bài viết hay trong một cuộc nói chuyện
nào đó mà tùy từng lúc, từng nơi, tùy từng đối tượng người đọc,
người nghe mà Người diễn đạt quan niệm của mình. Vẫn là theo các
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac – Lênin về chủ nghĩa xã hội, nhưng
với cách diễn đạt ngôn ngữ nói và viết của Hồ Chí Minh thì những
vấn đề đầy chất lý luận chính trị phong phú, phức tạp được biểu
đạt bằng ngôn ngữ của cuộc sống, của nhân dân Việt Nam, rất mộc mạc,
dung dị, dễ hiểu.
- Hồ Chí Minh có quan niệm tổng quát khi coi chủ nghĩa cộng
sản, chủ nghĩa xã hội như một chế
độ xã hội bao gốm các mặt rất phong phú, hoàn chỉnh, trong đó
con người được phát triển toàn diện, tự do. Trong một xã hội như
thế, mọi thiết chế, cơ cấu xã hội đều nhằm tới mục tiêu giải phóng
con người.
- Hồ Chí Minh diễn đạt quan niệm của mình về chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam trên một số mặt nào đó của nó như: chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội…Với cách diễn đạt như thế của Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội thì chúng ta không nên tuyệt đối hóa từng mặt, hoặc
tách riêng rẽ từng mặt của nó, mà cần đặt trong một tổng thể chung.
Chẳng hạn, khi nói chuyện tại lớp hướng dẫn giáo viên cấp II, cấp
III và hội nghị sư phạm vào tháng 7 – 1956, Hồ Chí Minh cho rằng:
“Chủ nghĩa xã hội là lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng,…làm của chung,
Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì
không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con”.
Khi nhấn mạnh mặt kinh tế, Hồ Chí Minh nêu chế độ sở hữu công cộng
của chủ nghĩa xã hội và phân phối theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mac
– Lênin là làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có phúc lợi xã
hội. Về mặt chính trị, Hồ Chí Minh nêu chế độ dân chủ, mọi người
được phát triển toàn diện với tinh thần làm chủ.
- Hồ Chí Minh quan niệm về chủ nghĩa xã hội ở nước ta bằng
cách nhấn mạnh đó là một xã hội vì lợi ích của tổ quốc, của nhân
dân, là ”làm sao cho dân giàu nước mạnh”, là “làm cho tổ quốc giàu
mạnh, đồng bào sung sướng”, là “nhằm
nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân”, là làm cho
mọi người được ăn no, mặc ấm, được sung sướng, tự do…
- Hồ Chí Minh nên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong ý thức,
động lực của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Xây dựng một xã hội như thế là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi,
động lực của toàn dân tộc. Cho nên, với động lực xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, sức mạnh tổng hợp được sử dụng và phát huy, đó
là sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.
Đặc trưng bản chất tổng quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
theo Hồ Chí Minh, cũng trên cơ sở của lý luận Mac – Lênin, nghĩa là
trên những mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Về cụ thể,
chúng ta thấy Hồ Chí Minh nhấn mạnh chủ yếu những điểm sau đây:
+ Đó là một chế độ
chính trị do dân làm chủ
Chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân chủ, nhân dân lao
động là chủ và nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước là của dân, do
dân và vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là
liên minh công – nông – trí, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Mọi quyền lực trong xã hội đều tập trung trong tay nhân dân. Nhân
dân đoàn kết thành một khối thống nhất để làm chủ nước nhà. Nhân
dân là người quyết định vận mệnh cũng như sự phát triển của đất
nước dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh coi nhân dân có vị
trí tối thượng trong mọi cấu tạo quyền lực. Chủ nghĩa xã hội chính
là sự nghiệp của chính bản thân nhân dân, dựa vào sức mạnh của toàn
dân để đưa lại quyền lợi cho dân.
+ Chủ nghĩa xã hội là một
chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao, gắn liền với sự phát
triển của khoa học – kỹ thuật
Đó là xã hội có một nền kinh tế phát triển dựa trên cơ sở
năng suất lao động xã hội cao, sức sản xuất luôn luôn phát triển với
nền tảng phát triển khoa học – kỹ thuật, ứng dụng có hiệu quả
những thành tựu khoa học – kỹ thuật của nhân loại.
+ Chủ nghĩa xã hội là chế độ
không còn người bóc lột người
Chủ nghĩa xã hội được hiểu như là một chế độ hoàn chỉnh, đạt
đến độ chín muồi. Trong chủ nghĩa xã hội, không còn bóc lột, áp
bức, bất công, thực hiện chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất
và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Đó là một xã hội
được xây dựng trên nguyên tắc công bằng, hợp lý.
+ Chủ nghĩa xã hội là một xã
hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức
Đó là một xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, công
bằng, bình đẳng, không còn áp bức, bóc lột, bất công, không còn sự
đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa thành thị
và nông thôn, con người được giải phóng, có điều kiện phát triển
toàn diện, có sự hài hòa trong phát triển của xã hội và tự nhiên.
Các đặc trưng nêu trên là hình thức thể hiện một hệ thống giá
trị vừa kế thừa các di sản quá khứ, vừa được sáng tạo mới trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là hiện thân
đỉnh cao của tiến trình lịch sử nhân loại. Hồ Chí Minh quan niệm,
chủ nghĩa xã hội là sự tổng hợp quyện chặt ngay trong cấu trúc nội
tại của nó, một hệ thống giá trị làm nền tảng điều chỉnh các quan
hệ xã hội, đó là độc lập, tự do, bình đẳng, dân chủ, công bằng,
bảo đảm quyền con người, bác ái, đoàn kết, hữu nghị…,trong đó, có
những giá trị tạo tiền đề, có giá trị hạt nhân. Tất cả những giá
trị cơ bản này là mục tiêu chủ yếu của chủ nghĩa xã hội. Một khi
tất cả các giá trị đó đã đạt được thì loài người sẽ vươn tới lý
tưởng cao nhất của chủ nghĩa xã hội, đó là “liên hợp tự do của
những người lao động” mà Mac và Ăngghen đã dự báo. Ở đó, cá tính
của con người được phát triển đầy đủ, năng lực con người được phát
huy cao nhất, giá trị con người được thực hiện toàn diện. Nhưng theo
Hồ Chí Minh, đó là một quá trình phấn đấu khó khăn, gian khổ, lâu
dài, dần dần và không thể nôn nóng.
3. Quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực
của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
a. Mục tiêu
Hồ Chí Minh ý thức được rõ ràng giá trị của chủ nghĩa xã
hội về mặt lý luận là quan trọng, nhưng vấn đề quan trọng hơn là
tìm ra con đường để thực hiện những giá trị này. Điểm then chốt, có
ý nghĩa phương pháp luận quan trọng của Hồ Chí Minh là đề ra các
mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau ở nước ta. Thông qua quá trình đề
ra các mục tiêu đó, chủ nghĩa xã hội được biểu hiện với việc thỏa
mãn các nhu cầu, lợi ích thiết yếu của người lao động theo các nấc
thang từ thấp đến cao, tạo ra tính hấp dẫn, năng động của chế độ xã
hội mới.
Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu
phấn đấu của Người là một, đó là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh
phúc cho nhân dân; đó là làm sao cho nước ta được hoàn toàn được độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành.
Từ cách đặt vấn đề này, theo Hồ Chí Minh, hiểu mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội nghĩa là nắm bắt nội dung cốt lõi con đường lựa
chọn và bản chất thực tế xã hội mà chúng ta phấn đấu xây dựng.
Tiếp cận chủ nghĩa xã hội về phương diện mục tiêu là một nét
thường gặp, thể hiện phong cách và năng lực tư duy lý luận khái quát
của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh có nhiều cách đề cập mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội. Có khi Người trả lời một cách trực tiếp: “Mục đích
của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói đơn giản và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”. Hoặc
“Mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của
nhân dân”. Có khi Người diễn giải mục tiêu tổng quát này thành các
tiêu chí cụ thể: “chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân đủ ăn, đủ
mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học. Ốm đau có thuốc, già
không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần
dần được xóa bỏ…Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày
càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”. Có khi
Người nói một cách gián tiếp, không nhắc đến chủ nghĩa xã hội,
nhưng xét về bản chất, đó cũng chính là mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội theo quan điểm của Người. Kết thúc bản Tài liệu tuyệt đối bí mật (Di chúc) Hồ Chí Minh viết:
“Điều mong ước cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết
phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách
mạng thế giới”
Hồ Chí Minh quan niệm mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội
là nâng cao đời sống nhân dân. Theo Người, muốn nâng cao đời sống nhân
dân phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu nâng cao đời sống nhân
dân là tiêu chí tổng quát để khẳng định và kiểm nghiệm tính chất
xã hội chủ nghĩa của các lý luận chủ nghĩa xã hội và chính sách
thực tiễn. Trượt ra khỏi quỹ đạo đó thì hoặc là chủ nghĩa xã hội
giả hiệu hoặc không có gì tương thích với chủ nghĩa xã hội.
Chỉ rõ và nêu bật mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh
đã khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với các chế độ
xã hội đã tồn tại trong lịch sử, chỉ ra nhiệm vụ giải phóng con
người một cách toàn diện, theo các cấp độ: từ giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, xã hội đến giải phóng từng cá nhân con người,
hình thành các nhân cách phát triển tự do.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã xác định các mục tiêu cụ thể của chủ
nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội:
Mục tiêu chính trị: Theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chế độ chính trị
phải do nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước là của dân, do dân và vì
dân. Nhà nước có hai chức năng: dân chủ với nhân dân, chuyên chính với
kẻ thù của nhân dân. Hai chức năng đó không tách rời nhau, mà luôn luôn
đi đôi với nhau. Một mặt, Hồ Chí
Minh nhấn mạnh phải phát huy quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị
của nhân dân; Mặt khác, lại yêu
cầu phải chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích của
nhân dân, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa.
Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ con
đường và biện pháp thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp, nâng
cao năng lực hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội của quần chúng; củng cố các
hình thức dân chủ đại diện, tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản
lý của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, xử lý và phân
định rõ chức năng của chúng.
Mục tiêu kinh tế: Theo Hồ Chí Minh, chế độ
chính trị của chủ nghĩa xã hội chỉ được bảo đảm và đứng vững trên
cơ sở một nền kinh tế vững mạnh. Nền kinh tế đó là nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa với công – nông nghiệp hiện đại, khoa học - kỹ thuật
tiên tiến, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được bỏ dần, đời sống
vật chất của nhân dân ngày càng được cải thiện.
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phát triển toàn
diện các ngành, trong đó những ngành chủ yếu là công nghiệp, nông
nghiệp, thương nghiệp, trong đó “công nghiệp và nông nghiệp là hai chân
của nền kinh tế nước nhà”.
Kết hợp các loại lợi ích kinh tế là vấn đề được Hồ Chí Minh
rất quan tâm. Người đặc biệt nhấn mạnh: chế độ khoán là một trong
những hình thức của sự kết hợp lợi ích kinh tế.
Mục tiêu văn hóa – xã
hội: Theo
Hồ Chí Minh, văn hóa là một mục tiêu cơ bản của cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Văn hóa thể hiện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã
hội, đó là xóa nạn mù chữ, xây dựng, phát triển văn hóa nghệ
thuật, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, thực hiện nếp sống
mới, thực hành vệ sinh phòng bệnh, giải trí lành mạnh, bài trừ mê
tín dị đoan, khắc phục phong tục tập quán lạc hậu…
Về bản chất của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Người
khẳng định: “Phải xã hội chủ nghĩa về nội dung”. Để có một nền văn
hóa như thế ta phải phát huy vốn cũ quý báu của dân tộc, đồng thời
học tập văn hóa tiên tiến của thế giới. Phương châm xây dựng nền văn
hóa mới là: dân tộc, khoa học, đại chúng. Hồ Chí Minh nhắc nhở phải
làm cho phong trào văn hóa có bề rộng, đồng thời phải có bề sâu.
Trong khi đáp ứng mặt giải trí thì không được xem nhẹ nâng cao tri
thức của quần chúng, đồng thời Người luôn luôn nhắc nhở phải làm cho
văn hóa gắn liền với lao động sản xuất.
Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội
chủ nghĩa là đào tạo con người. Bởi lẽ mục tiêu cao nhất, động lực
quyết định nhất công cuộc xây dựng chính là con người. Trong lý luận
xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh quan tâm trước hết
mặt tư tưởng. Người cho rằng: “Muốn
có con người xã hội chủ nghĩa, phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa”,
tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở mỗi con người là kết quả của việc học
tập, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mac – Lênin, nâng cao lòng yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh đến trau dồi, rèn luyện đạo đức
cách mạng; đồng thời Người cũng rất quan tâm đến mặt tài năng, luôn
tạo điều kiện để mỗi người rèn luyện tài năng, đem tài năng cống
hiến cho xã hội. Tuy vậy, Hồ Chí Minh luôn gắn tài năng với đạo đức.
Theo Người, có tài mà không có đức là hỏng”; dĩ nhiên, đức phải đi
đôi với tài, nếu không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cũng như
vậy, Người luôn gắn phẩm chất chính trị với trình độ học vấn,
chuyên môn, nghiệp vụ, trong đó “chính trị là tinh thần, chuyên môn là
thể xác. Hai mặt đó thống nhất trong một người. Do vậy, tất cả mọi
người đều phải luôn luôn trau dồi đạo đức và tài năng, vừa có đức
vừa có tài, vừa “hồng” vừa “chuyên”.
b. Động lực
Để thực hiện những mục tiêu
đó, cần phát hiện những động lực và những điều kiện bảo đảm cho
động lực đó thực sự trở thành sức mạnh thúc đẩy công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, nhất là những động lực bên trong, nguồn nội lực
của chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, những động lực đó biểu hiện ở các phương
diện: vật chất và tinh thần, nội sinh và ngoại sinh. Người khẳng
định, động lực quan trọng và quyết định nhất là con người, là nhân
dân lao động, nòng cốt là công – nông – trí thức. Hồ Chí Minh thường
xuyên quan tâm đến lợi ích chính đáng, thiết thân của họ; đồng thời
chăm lo, bồi dưỡng sức dân. Đó là lợi ích của nhân dân và từng cá
nhân.
Xem con người là động lực của chủ nghĩa xã hội, hơn nữa là
động lực quan trọng nhất, Hồ Chí Minh đã nhận thấy ở động lực này
có sự kết hợp giữa cá nhân với xã hội. Người cho rằng, không có
chế độ xã hội nào coi trọng lợi ích chính đáng của cá nhân con
người bằng chế độ xã hội chủ nghĩa. Truyền thống yêu nước của dân
tộc, sự đoàn kết cộng đồng, sức lao động sáng tạo của nhân dân – đó
là sức mạnh tổng hợp tạo nên động lực quan trọng của chủ nghĩa xã
hội.
Nhà nước đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng, thực hiện chức năng quản lý xã hội, đưa sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đến thắng lợi. Người đặc biệt quan
tâm đến hiệu lực của tổ chức, bộ máy, tính nghiêm minh của kỷ luật,
pháp luật, sự trong sạch, liêm khiết của đội ngũ cán bộ, công chức
các cấp từ trung ương tới địa phương.
Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế,
sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi
người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc lợi dân, gắn liền kinh tế
với kỹ thuật, kinh tế với xã hội.
Cùng với động lực kinh tế, Hồ Chí Minh cũng quan tâm tới văn
hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần không thể
thiếu của chủ nghĩa xã hội.
Tất cả những nhân tố động lực nên trên là những nguồn lực tiềm
tàng của sự phát triển. Làm thế nào để những khả năng, năng lực
tiềm tàng đó trở thành sức mạnh và không ngừng phát triển. Hồ Chí
Minh nhận thấy sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng có ý nghiã quyết định
đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Đây là hạt nhân trong
hệ động lực của chủ nghĩa xã hội.
Ngoài các động lực bên trong, theo Hồ Chí Minh, phải kết hợp
được với sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa
yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân,
phải sử dụng tốt những thành quả khoa học – kỹ thuật thế giới…
Nét độc đáo trong phong cách tư duy biện chứng Hồ Chí Minh là ở
chỗ bên cạnh việc chỉ ra các nguồn động lực phát triển của chủ
nghĩa xã hội, Người còn lưu ý, cảnh báo và ngăn ngừa các yếu tố
kìm hãm, triệt tiêu nguồn lực vốn có của chủ nghĩa xã hội, làm cho
chủ nghĩa xã hội trở nên trì trệ, xơ cứng, không có sức hấp dẫn, đó
là chủ nghĩa cá nhân và Người coi đó là “bệnh mẹ” đẻ ra hàng loạt
bệnh khác, đó là tham ô, lãng phí, quan liêu…mà Người gọi đó là
“giặc nội xâm”; đó là các căn bệch chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết,
vô kỷ luật, chủ quan, bảo thủ, giáo điều,…
Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định rất rõ nội
lực là quyết định nhất, ngoại lực là rất quan trọng. Chính vì thế,
Người thường xuyên nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực cánh
sinh là chính, nhưng luôn luôn chú trọng tranh thủ sự giúp đỡ, hợp
tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế tạo
thành sức mạnh tổng hợp để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
trên cơ sở bảo đảm các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, chung sống hòa bình và phát
triển.
II. CON ĐƯỜNG, BIỆN PHÁP
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Đặc điểm, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
a. Thực chất, loại hình và đặc điểm của thời kỳ
quá độ
Các nhà kinh điển đều khẳng định tính tất yếu khách quan của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chỉ rõ vị trí lịch sử,
nhiệm vụ đặc thù của nó trong quá trình vận động, phát triển của
hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Có hai con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Con đường thứ
nhất là quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ những nước tư
bản phát triển ở trình độ cao. Con đường thức hai là quá độ gián
tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở những nước tư bản chủ nghĩa phát triển
còn thấp, hoặc như Lênin cho rằng, những nước có nền kinh tế lạc
hậu, chưa trải qua thời kỳ phát triển của tư bản chủ nghĩa cũng có
thể đi lên chủ nghĩa xã hội được trong điều kiện cụ thể nào đó,
nhất là trong điều kiện đảng kiểu mới của giai cấp vô sản nắm quyền
lãnh đạo và được một hay nhiều nước tiên tiến giúp đỡ.
Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mac – Lênin và xuất
phát từ đặc điểm, tình hình thực tế Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng
định con đường cách mạng Việt Nam
là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, quan
niệm Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là quan niệm về một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể – quá
độ từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu sau
khi giành được độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội. Chính ở nội
dung cụ thể này, Hồ Chí Minh đã cụ thể và làm phong phú thêm lý
luận Mac – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, nước ta có đặc điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc
hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này chi phối các đặc điểm khác,
thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và là cơ
sở nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Trong đó, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý
đến mâu thuẫn cơ bản của thời ký quá độ, đó là mâu thuẫn giữa nhu
cầu phát triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng
kinh tế – xã hội quá thấp kém của nước ta.
b. Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
Theo Hồ Chí Minh, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta là quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu
thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Thực chất của quá trình
cải tạo và phát triển nền kinh tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh
giai cấp gay go, phức tạp trong điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn
thành cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ, so sánh lực lượng trong nước
và quốc tế đã có những biến đổi. Điều này đòi hỏi phải áp dụng
toàn diện các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội nhằm chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xã
hội chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, do những đặc điểm và tính chất quy định, quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một quá trình dần dần, khó
khăn, phức tạp và lâu dài. Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao gồm hai nội dung lớn:
+ Xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội,
xây dựng các tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho
chủ nghĩa xã hội
+ Cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo
và xây dựng, trong đó lấy xây dựng làm trọng tâm, làm nội dung cốt
yếu nhất, chủ chốt, lâu dài.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tính chất phức tạp và khó
khăn của nó được Người lý giải trên các điểm sau:
- Đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời
sống xã hội, cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Nó đặt ra và đòi hỏi đồng thời
giải quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau. Như trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã coi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội là một cuộc chiến đấu khổng lồ của toàn Đảng, toàn dân
Việt Nam.
- Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nhà nước và nhân
dân ta chưa có kinh nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là công
việc hết sức mới mẻ đối với Đảng ta nên phải vừa làm vừa học và
có thể có vấp váp, thiếu sót. Xây dựng xã hội mới bao giờ cũng
khó khăn, phức tạp hơn đánh đổ xã hội cũ lỗi thời.
- Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta luôn luôn bị
các thế lực phản động trong và ngoài nước tìm cách chống phá.
Từ việc chỉ rõ tính chất của thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh
nhắc nhở cán bộ, đảng viên trong xây dựng chủ nghĩa xã hội phải
thận trọng, tránh nôn nóng, chủ quan, đốt cháy giai đoạn. Vấn đề cơ
bản là phải xác định đúng bước đi và hình thức phù hợp với trình
độ của lực lượng sản xuất, biết kết hợp các khâu trung gian, quá độ,
tuần tự từng bước, từ thấp đến cao. Vì vậy, xây dựng chủ nghĩa xã
hội đòi hỏi một năng lực lãnh đạo mang tính khoa học, vừa hiểu biết
các quy luật vận động xã hội, lại phải có nghệ thuật khôn khéo cho
thật sát với tình hình thực tế.
c. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là sự nghiệp
cách mạng mang tính toàn diện, Hồ Chí Minh đã xác định rõ nhiệm vụ
cụ thể cho từng lĩnh vực:
Trong lĩnh vực chính
trị: nội
dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo
của Đảng. Đảng phải luôn luôn tự đổi mới và tự chỉnh đốn, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, có hình thức tổ chức phù hợp
để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ mới. Bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã trở thành đảng cầm quyền. Mối quan tâm
lớn nhất của Người về Đảng cầm quyền là làm sao cho Đảng không trở
thành Đảng quan liêu, xa dân, thoái hóa, biến chất, làm mất niềm tin
của dân, có thể dẫn đến nguy cơ sai lầm về đường lối, cắt đứt mối
quan hệ máu thịt với nhân dân và để cho chủ nghĩa cá nhân nảy nở
dưới nhiều hình thức.
Đồng thời, củng cố và tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng trở thành nhiệm
vụ rất quan trọng.
Một nội dung chính trị quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất,
nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức do Đảng Cộng sản lãnh
đạo, củng cố và tăng cường sức mạnh toàn bộ hệ thống chính trị
cũng như từng thành tố của nó.
Nội dung kinh tế: Được Hồ Chí Minh đề
cập trên các mặt: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ chế quản
lý kinh tế. Người nhấn mạnh đến việc tăng năng suất lao động trên cơ
sở tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ ngĩa. Đối với cơ cấu kinh
tế, Hồ Chí Minh đề cập cơ cấu ngành và cơ cấu các thành phần kinh
tế, cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ.
Người quan niệm hết sức độc đáo về cơ cấu kinh tế nông – công
nghiệp, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thống
thương nghiệp làm cầu nối tốt nhất giữa các ngành sản xuất xã hội,
thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của nhân dân.
Đối với kinh tế vùng, lãnh thổ, Hồ Chí Minh lưu ý phải phát
triển đồng đều giữa kinh tế đô thị và kinh tế nông thôn. Người đặc
biệt chú trọng chỉ đạo phát triển kinh tế miền núi, hải đảo, vừa
tạo điều kiện không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của đồng
bào vừa bảo đảm an ninh, quốc phòng cho đất nước.
Ở nước ta, Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Người xác định rõ vị trí và xu hướng vận động của
từng thành phần kinh tế. Nước ta cần ưu tiên phát triển kinh tế quốc
doanh dể tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy việc
cải tạo xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu
tập thể của nhân dân lao động, Nhà nước cần đặc biệt khuyến khích,
hướng dẫn và giúp đỡ nó phát triển. Về tổ chức hợp tác xã, Hồ
Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắn dần dần, từ thấp đến cao, tự nguyện,
cùng có lợi, chống chủ quan, gò ép, hình thức. Đối với người làm
nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở
hữu về tư liệu sản xuất, ra sức hướng dẫn và giúp họ cải tiến
cách làm ăn, khuyến khích họ đi vào con đường hợp tác. Đối với
những nhà tư sản công thương, vì họ đã tham gia ủng hộ cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, có đóng góp nhất định trong khôi phục kinh tế
và sẵn sàng tiếp thu, cải tạo để góp phần xây dựng nước nhà, xây
dựng chủ nghĩa xã hội, nên nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về
tư liệu sản xuất và của cải khác của họ, mà hướng dẫn họ hoạt
động làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp voiws kinh tế nhà nước,
khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng
hình thức tư bản nhà nước.
Bên cạnh chế độ và quan hệ sở hữu, Hồ Chí MInh rất coi trọng
quan hệ phân phối và quản lý kinh tế. Quản lý kinh tế phải dựa trên
cơ sở hạch toán, đem lại hiệu quả cao, sử dụng tốt các đòn bẩy
trong phát triển sản xuất. Người chủ trương và chỉ rõ các điều kiện
thực hiện các nguyên tắc phân phối theo lao động: làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng. Gắn liền với nguyên
tắc phân phối theo lao động, Hồ Chí Minh bước đầu đề cập vấn đề
khoán tròn sản xuất, “ Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ
nghĩa xã hội, nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho
nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích chúng và lại lợi riêng…, làm
khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay”
Trong lĩnh vực văn hóa –
xã hội: Hồ
Chí Minh nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng con người mới. Đặc biệt, Hồ
Chí Minh đề cao vai trò của văn hóa, giáo dục và khoa học – kỹ thuật
trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Người cho rằng, muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội nhất định phải có học thức, cần phải học cả văn hóa,
chính trị, kỹ thuật và chủ nghĩa xã hội cộng voiws khoa học chắc
chắn đưa loài người đến hạnh phúc vô tận. Hồ Chí Minh rất coi trọng
việc nâng cao dân trí, đào tạo và sử dụng nhân tài, khẳng định vai
trò to lớn của văn hóa trong đời sống xã hội.
2. Những chỉ dẫn có tính định hướng về nguyên
tắc, bước đi, biện pháp thực hiện trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội
Hồ Chí Minh xác định rõ nhiệm vụ lịch sử, nội dung của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều trăn trở khôn nguôi
của Người là tìm ra bước đi, biện pháp tiến hành xây dựng chủ nghĩa
xã hội, biến nhận thức lý luận thành chương trình hành động, thành
hoạt động thực tiễn hàng ngày. Để xác định bước đi và tìm cách
làm phù hợp với Việt Nam, Hồ Chí Minh đề ra hai nguyên tắc có tính
chất phương pháp luận:
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một hiện tượng phổ biến mang
tính quốc tế, cần quán triệt các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac
– Lênin về xây dựng chế độ mới, có thể tham khảo, học tập kinh
nghiệm của các nước anh em. Học tập những kinh nghiệm của các nước
tiên tiến, nhưng không được sao chép, máy móc, giáo điều. Hồ Chí Minh
cho rằng Việt Nam có thể làm khác Liên Xô, Trung Quốc và các nước
khác vì Việt Nam có điều kiện cụ thể khác.
+ Xác định bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ
yếu xuất phát từ điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và
khả năng thực tế của nhân dân.
Trong khi nhấn mạnh hai nguyên tắc trên, Hồ Chí Minh lưu ý vừa
chống việc xa rời các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac – Lênin, quá
tuyệt đói hóa cái riêng, những đặc điểm của dân tộc, vừa chống máy
móc, giáo điều khi áp dụng các nguyên lý của chủ nghĩa Mac – Lênin
mà không tính đến những điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước và
của thời đại.
Quán triệt hai nguyên tắc phương pháp luận vừa nêu, Hồ Chí Minh
xác định phương châm thực hiện bước đi trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội: dần dần, thận trọng từng bước một, từ thấp đến cao, không chủ
quan nôn nóng và việc xác định các bước đi phải luôn luôn căn cứ vào
các điều kiện khách quan quy định, Hồ Chí Minh nhận thức về phương
châm: “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”
không có nghĩa là làm bừa, làm ẩu, “đốt cháy giai đoạn”, chủ quan,
duy ý chí mà phải làm vững chắc từng bước, phù hợp với điều kiện
thưc tế. Trong các bước đi lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đặc
biệt lưu ý đến vai trò của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, coi đó
là “con đường phải đi của chúng ta”, là nhiệm vụ trọng tâm của cả
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; nhưng công nghiệp hóa không có
nghĩa là xây dựng những nhà máy, xí nghiệp cho thật to, quy mô cho
thật lớn, bất chấp những điều kiện cụ thể cho phép trong từng giai
đoạn nhất định. Theo Người, công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa chỉ có
thể thực hiện thắng lợi trên cơ sở xây dựng và phát triển nền nông
nghiệp toàn diện, vững chắc, một hệ thống tiểu thủ công nghiệp, công
nghiệp nhẹ đa dạng nhằm giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm cho
nhân dân, các nhu cầu tiêu dùng thiết yếu cho xã hội.
Cùng với các bước đi, Hồ Chí Minh đã gợi ý nhiều phương thức,
biện pháp tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, Người
đã chỉ đạo một số biện pháp cụ thể sau đây:
- Thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp
cải tạo với xây dựng, lấy xây dựng làm chính.
- Kết hợp xây dựng và bảo vệ, đồng thời tiến hành hai nhiệm
vụ chiến lược ở hai miền Nam Bắc khác nhau trong phạm vi một quốc
gia.
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội
phải có kế hoạch, biện pháp, quyết tâm để thực hiện tháng lợi kế
hoạch
- Trong điều kiện nước ta, biện pháp cơ bản, quyết định, lâu dài
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội là đem của dân tài dân, sức dân, làm
lợi cho dân dưới sự lãnh đạo của Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh cho rằng, phải huy động hết tiềm năng, nguồn lực có
trong dân để đem lại lợi ích cho dân. Nói cách khác, phải biến sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thành sự nghiệp của toàn dân do
Đảng lãnh đạo. Vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền là tập hợp lực
lượng, đề ra đường lối, chính sách để huy động và khai thác triệt
để các nguốn lực của dân, vì lợi ích của quần chúng lao động.
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam bao quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mac – Lênin. Đó là các luận điểm về bản
chất, mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội; về tính tất yếu khách quan của
thời kỳ quá dộ; về đặc điểm, nhiệm vụ lịch sử, nội dung, các hình thức, bước đi
và biện pháp tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tư tưởng
Hồ Chí Minh trở thành tài sản vô giá, cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho việc
kiên trì, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta, đồng thời gợi mở
nhiều vấn đề về xác định hình thức, biện pháp và bước đi lên chủ nghĩa xã hội
phù hợp với những đặc điểm dân tộc và xu thế vận động của thời đại ngày nay.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VI là kết quả của sự tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn sinh động
trong phong trào cách mạng của cả nước sau 1975. Trong những năm đổi mới toàn
diện đất nước, Đảng Cộng sản Việt nam đã lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân thực hiện
Cương lĩnh, đường lối xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đã đạt được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử, tạo ra thế và lực mới cho con đường phát triển xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Cùng với tổng kết lý luận – thực tiễn, quan niệm của Đảng ta về
chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sát thực, cụ
thể hóa. Nhưng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thời
cơ, vân hội, nước ta đang phải đối đầu với hàng loạt thách thức, khó khăn cả
trên bình diện quốc tế, cũng như từ các điều kiện trong nước tạo nên. Trong bối
cảnh đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần tập trung thực hiện thắng lợi các nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, đặc biệt là Đại hội XI và Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011). Trong đó, giải quyết những vấn đề quan trọng nhất:
Kiên trì mục tiêu dân tộc độc
lập và chủ nghĩa xã hội:
Hồ Chí Minh là người tìm ra con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: Con đường
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đọc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội cũng chính là mục tiêu cao cả, bất biến của toàn Đảng, toàn dân ta. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đấu tranh giành được đọc lập dân tộc, từng bước
quá độ dần lên chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện nước ta, độc lập dân tộc phải
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, sau khi giành được độc lập dân tộc, phải đi lên
chủ nghĩa xã hội, vì đó là quy luật tiến hóa trong quá trình phát triển của xã
hội loài người. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng được khát vọng của toàn dân
tộc: độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân, cơm no áo ấm cho mọi người dân
Việt Nam. Thực tiễn phát triển đất nước cho thấy, độc lập dân tộc là điều kiện
tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững
chắc cho độc lập dân tộc.
Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa
xã hội, tiếp tục con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Vì thế, đổi mới là quá trình vận dụng và phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, chứ không phải là thay đổi mục tiêu.
Tuy nhiên, khi chấp nhận kinh tế thị trường, chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, chúng ta phải tận dụng các mặt tích cực của nó, đồng thời phải biết cách
ngăn chặn, phòng tránh các mặt tiêu cực, bảo đảm nhịp độ phát triển nhanh, bền
vững trên tất cả mọi mặt đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa;
không vì phát triển, tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá mà làm phương hại các mặt
khác của cuộc sống con người.
Vấn đề đặt ra là trong quá trình phát triển vẫn giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa, biết cách sử dụng các thành tựu của loài người phục vụ cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là thành tựu khoa học – công nghệ hiện đại làm
cho tăng trưởng kinh tế luôn đi liền với sự tiến bộ, công bằng xã hội, sự trong
sạch, lành mạnh về đạo đức, tinh thần.
Phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước hết là nội lực để đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là con
đường tất yếu phải đi của đất nước ta. Chúng ta phải tranh thủ thành tựu của
cách mạng khoa học và công nghệ, của điều kiện giao lưu, hộ nhập quốc tế để
nhanh chóng biến nước ta thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, sánh
vai với các cường quốc năm châu như mong muốn của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của toàn
dân, do Đảng lãnh đạo, phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân,
nghĩa là phải biết phát huy mọi nguồn lực vốn có trong dân để xây dựng cuộc sống
ấm no, hạnh phúc cho dân. Theo tinh thần đó, ngày nay, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức phải dựa vào nguồn lực trong
nước là chính, có pát huy mạnh mẽ nội lực mới có thể tranh thủ sử dụng hiệu quả
các nguồn vốn bên ngoài. Trong nội lực, nguồn lực con người là vốn quý nhất.
Nguốn lực của nhân dân, của con người Việt Nam bao gồm trí tuệ, tài năng,
sức lao động, của cải thật to lớn. Để phát huy tốt sức mạnh của toàn dân tộc nhằm
xây dựng và phát triển đất nước cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
- Tin dân, dựa vào dân, xác lập quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế,
làm cho chế độ dân chủ được thực hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người,
nhất là ở địa phương, cơ sở, làm cho dân chủ thật sự trở thành động lực của sự
phát triển xã hội.
- Chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực.
- Thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh,
trên cơ sở lấy liên minh công, nông trí thức làm nòng cốt, tạo nên sự đồng thuận
xã hội vững chắc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận
lợi, tận dụng tối đa sức mạnh của thời đại. Ngày nay, sức mạnh của thời đại tập
trung ở cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu hóa. Chúng ta cần
ra sức tranh thủ tối đa các cơ hội do xu thế đó tạo ra để nâng cao hiệu quả hợp
tác quốc tế; phải có cơ chế, chính sách đúng để thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm
quản lý và công nghệ hiện đại, thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Muốn vậy, chúng ta phải có đường lối chính trị độc lập, tự chủ. Tranh thủ
hợp tác phải đi đôi thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc
chân chính của mọi người Việt Nam nhằm góp phần làm gia tăng tiềm lực quốc gia.
Hội nhập quốc tế phải gắn liền với nhiệm vụ trau dồi bản lĩnh và bản sắc
dân tộc, nhất là cho thanh thiếu niên – lực lượng rường cột của nước nhà để
không tự đánh mất mình bởi xa rời cốt cách dân tộc. Chỉ có bản lĩnh và cốt cách
văn hóa dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ đó mới có thể loại trừ các yếu tố độc hại, tiếp
thu tinh hoa văn hóa loài người, làm phong phú, làm giàu nền văn hóa dân tộc.
Chăm lo xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy mạnh đấu tranh chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư để
xây dựng chủ nghĩa xã hội:
Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân cần đến vai trò của một Đảng cách mạng chân chính, một nhà
nước thật sự của dân, do dân, vì dân, vì vậy, phải:
- Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, một Đảng “đạo đức”, “văn
minh”. Cán bộ, đảng viên gắn bó máu thịt với nhân dân, vừa là người hướng dẫn,
lãnh đạo nhân dân, vừa hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, gương mẫu trong mọi
công việc.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân; thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia một cách đồng bộ để
phục vụ dời sống nhân dân.
- Bằng các giải pháp thiết thực, cụ thể, hình thành một đội ngũ cán bộ
liêm khiết, tận trung với nước, tận hiếu với dân; kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy
chính quyền những “ông quan cách mạng”, lạm dụng quyền lực của dân để mưu cầu lợi
ích riêng; phát huy vai trò của nhân dân trong cuộc đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
- Giáo dục mọi tầng lớp nhân dân ý thức biết cách làm giàu cho đất nước,
hăng hái đẩy mạnh tăng gia sản xuất, kinh doanh gắn liền với tiết kiệm để xây dựng
nước nhà. Trong điều kiện đất nước còn nghèo, tiết kiệm phải trở thành quốc sách,
thành một chính sách kinh tế lớn và cũng là một chuẩn mực đạo đức, một hành vi
văn hóa như Hồ Chí Minh đã căn dặn: Một dân tộc biết cần, biết kiệm là một dân
tộc văn minh, tiến bộ; dân tộc đó chắc chắn sẽ thắng được nghèo nàn, lạc hậu,
ngày càng giàu có về vật chất, cao đẹp về tinh thần.
CHƯƠNG IV
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM
I. QUAN NIỆM CỦA
HỒ CHÍ MINH
VỀ VAI TRÒ VÀ
BẢN CHẤT CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Khi đề cập các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản, xuất
phát từ hoàn cảnh cụ thể của nước Nga và của phong trào công nhân
Châu Âu, Lênin nêu lên hai yếu tố, đó là sự kết hợp chủ nghĩa Mac với
phong trào công nhân.
Khi đề cập sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam, bên cạnh hai
yếu tố ấy, Hồ Chí Minh còn kể đến yếu tố thứ ba, đó là phong trào
yêu nước. Trong bài Thường thức
chính trị viết năm 1953, Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng kết hợp phong
trào cách mạng Việt Nam với chủ nghĩa Mac – Lênin. Nhân dịp ký niệm
30 năm thành lập Đảng, Hồ Chí Minh viết bài Ba mươi năm hoạt động của Đảng, trong đó chỉ rõ: Chủ nghĩa
Mac – Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã
dẫn tới việc thành lập Đảng cộng
sản Đông Dương vào đấu năm 1930. Đây chính là một quan điểm quan
trọng của Hồ Chí Minh về sự hình thành Đảng cộng sản Việt Nam, là
sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mac – Lênin trên cơ sở tổng kết
thực tiễn Việt Nam.
Hồ Chí Minh thấy rõ vai trò to lớn của chủ nghĩa Mac – Lênin
đối với cách mạng Việt Nam và đối với quá trình hình thành Đảng
cộng sản Việt Nam. Người cũng đánh giá cao vị trí, vai trò lãnh đạo
của giai cấp công nhân Việt Nam trong sắp xếp lực lượng cách mạng. Số
lượng giai cấp công nhân Việt Nam tuy ít nhưng theo Hồ Chí Minh, vai trò
lãnh đạo của lực lượng cách mạng không phải do số lượng đó quyết
định. Hồ Chí Minh chỉ rõ đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam
là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Giai
cấp tiên tiến nhất trong sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ tư bản
và đế quốc để gây dựng một xã hội mới, giai cấp công nhân có thể
thấm nhuần tư tưởng cách mạng nhất tức là chủ nghĩa Mac – Lênin.
Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các
tầng lớp khác. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, sở dĩ giai cấp công nhân
Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam còn là vì: giai
cấp công nhân có chủ nghĩa Mac – Lênin. Trên nền tảng đấu tranh, họ xây
dựng nên đảng theo chủ nghĩa Mac – Lênin. Đảng đề ra chủ trương, đường
lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai cấp nông dân và tiểu tư sản
vào đấu tranh, bồi dưỡng họ thành những phần tử tiên tiến.
Hồ Chí Minh nêu thêm yếu tố phong trào yêu nước, coi nó là một
trong ba yếu tố kết hợp dẫn đến việc hình thành Đảng Cộng sản Việt
Nam vì những lý do sau đây:
- Phong trào yêu nước có vị
trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển của dân tộc
Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn
trong lịch sử dân tộc Việt Nam và là nhân tố chủ đạo quyết định sự
nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc ta. Chỉ tính riêng trong hơn 80 năm
bị thực dân Pháp đô hộ, phong trào yêu nước của nhân dân ta đã dâng lên
mạnh mẽ như những lớp sóng cồn nối tiếp nhau. Phong trào yêu nước
liên tục và bền bỉ trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước đã
kết thành chủ nghĩa yêu nước và nó đã trở thành giá trị văn hóa
tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam.
- Phong trào công nhân kết hợp
được với phong trào yêu nước vì hai phong trào đó đều có mục tiêu
chung. Khi giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và có phong trào đấu
tranh, lúc đầu là đấu tranh kinh tế, và sau này là đấu tranh chính
trị, thì phong trào công nhân kết hợp được ngay từ đầu và kết hợp
liên tục với phong trào yêu nước. Cơ sở của sự kết hợp giữa hai phong
trào này là do xã hội nước ta tồn tại mâu thuẫn cơ bản giữa toàn
thể dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc và tay sai. Vì vậy, giữa hai phong trào đều có mục
tiêu chung, yêu cầu chung: giải phóng dân tộc, làm cho Việt Nam được
hoàn toàn độc lập, xây dựng đất nước hùng cường. Hơn nữa, chính bản
thân phong trào công nhân, xét về nghĩa nào đó, lại mang tính chất
của phong trào yêu nước, vì phong trào đấu tranh của công nhân không
những chống lại ách áp bức giai cấp mà còn chống lại ách áp bức
dân tộc.
- Phong trào nông dân kết hợp
với phong trào công nhân. Nói đến phong trào yêu nước Việt Nam phải
kể đến phong trào nông dân. Đầu thế kỷ XX nông dân Việt Nam chiếm tới
khoảng 90% dân số. Giai cấp nông dân là bạn đồng minh tự nhiên của giai
cấp công nhân. Ở Việt Nam, do điều kiện cụ thể lịch sử chi phối,
không có công nhân nhiều mà họ xuất thân trực tiếp từ người nông dân
nghèo. Do đó, giữa phong trào công nhân và phong trào yêu nước có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân hợp thành
quân chủ lực của cách mạng.
- Phong trào yêu nước của trí
thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố
cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Phong trào yêu nước
Việt Nam những thập niên đầu thể kỷ XX ghi dấu ấn đậm nét bởi vai
trò của trí thức, tuy số lượng không nhiều nhưng lại là những “ngòi
nổ” cho các phong trào yêu nước bùng lên chống thực dân Pháp xâm lược
và bọn tay sai, cũng như thúc đẩy sự canh tân và chấn hưng đất nước.
Trong lịch sử Việt Nam, một trong những nét nổi bật nhất là sự bùng
phát của những tổ chức yêu nước mà thành viên và những người lãnh
đạo tuyệt đại đa số là trí thức. Với một bầu nhiệt huyết, yêu
nước, thương nòi, căm giận bọn cướp nước và bọn bán nước, họ rất
nhạy cảm với thời cuộc, do vậy, họ chủ động và có cơ hội đón nhận
những “luồng gió mới” về tư tưởng của tất cả các trào lưu trên thế
giới tràn vào Việt Nam.
2. Vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam
Sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ phát huy khi được tập hợp,
đoàn kết và được lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị là Đảng cộng
sản Việt Nam. Hồ Chí MInh khẳng định: “lực lượng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng, vô tận. Nhưng lực
lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi”, giai cấp
mà không có Đảng lãnh đạo thì không làm cách mạng được. Trong cuốn
sách Đường cách mệnh xuất bản
năm 1927 Hồ Chí Minh viết: Cách
mệnh trước phải có cái gì? Trước hết phải có Đảng cách mệnh,
để trong thì tổ chức và vận động dân chúng, ngoài thì liên lạc với
dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản mọi nơi. Đảng có vững cách
mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững, thuyền mới
chạy”. Hồ Chí Minh cho rằng: “Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần
chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và định phương châm cho đúng.
Cách mạng là cuôc đấu tranh rất
gian khổ. Lực lượng kẻ địch rất mạnh. Muốn thắng lợi thì quần
chúng phải tổ chức rất chặt chẽ, ý chí phải kiên quyết. Vì
vậy, phải có Đảng để tổ chức và
giáo dục nhân dân thành một đội
quân thật mạnh để đánh đổ kẻ địch, tranh lấy chính quyền.
Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo”.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng cộng sản Việt Nam
phù hợp với quy luật phát triển của xã hội, vì Đảng không có mục
đích tự thân, ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động, lợi ích của toàn dân tộc Việt Nam, lợi ích của nhân dân tiến
bộ trên thế giới, Đảng không có lợi ích nào khác.
Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, tính quyết định
hàng đầu từ sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam đã
được thực tế lịch sử chứng minh, không có một tổ chức chính trị
nào có thể thay thế được. Mọi mưu toan nhằm hạ thấp hoặc nhằm xóa
bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đều xuyên tạc thực
tế lịch sử cách mạng dân tộc ta, trái với lý luận lẫn thực tiễn,
đều đi ngược lại xu thế phát triển của xã hội Việt Nam.
3. Bản chất của Đảng cộng sản Việt Nam
Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng của
giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất
giai cấp công nhân.
Quan điểm của Hồ Chí Minh hoàn toàn tuân thủ những quan điểm
của Lênin về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Nhưng, Hồ
Chí Minh còn có một cách thể hiện khác về vấn đề “Đảng của ai?”.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Hồ Chí Minh nêu rõ:
“Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, cho nên nó phải
là Đảng của dân tộc Việt Nam”. Năm 1953, Hồ Chí Minh viết: “Đảng Lao
động là tổ chức cao nhất của giai cấp cần lao và đại biểu cho lợi
ích của cả dân tộc…Đảng là Đảng của giai cấp lao động, mà cũng là
Đảng của toàn dân”. Năm 1957, Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của
dân tộc. Trong thời kỳ Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, năm 1961,
Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng
thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị. Năm 1965, Hồ Chí
Minh cho rằng: Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong, là bộ tham mưu của
giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Tuy có nhiều cách thể hiện khác nhau như vậy nhưng quan điểm
nhất quán của Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp của Đảng là Đảng ta mang bản chất của giai cấp công
nhân. Điều này cũng giống như Đảng ta mang tên là Đảng Lao động nhưng bản chất giai
cấp của Đảng chỉ là bản chất giai cấp công nhân.
Trong Báo cáo chính trị tại
Đại hội II, khi nêu lên Đảng ta còn là Đảng của nhân dân lao động và
của toàn dân tộc, Hồ Chí Minh cũng nêu lên toàn bộ cơ sở lý luận và
các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng, những nguyên tắc này tuân thủ
một cách chặt chẽ học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản
của Lênin.
Hồ Chí Minh khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta
dựa trên cơ sở thấy rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt
Nam. Còn các giai cấp, tầng lớp khác chịu sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân, trở thành đồng minh của giai cấp công nhân. Nội dung quy định
bản chất giai cấp công nhân không phải chỉ là số lượng đảng viên xuất
thân từ công nhân mà còn ở nền tảng lý luận và tư tưởng của Đảng
là chủ nghĩa Mac – Lênin; mục tiêu của Đảng cần đạt tới là chủ
nghĩa cộng sản; Đảng tuân thủ một cách nghiêm túc, chặt chẽ những
nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Hồ Chí Minh
phê phán những quan điểm không đúng như không đánh giá đúng vai trò to
lớn của giai cấp công nhân, cũng như những quan điểm sai trái chỉ chú
trọng công nông mà không thấy rõ vai trò to lớn của các giai cấp, tâng
lớp khác.
Quan niệm Đảng không những là Đảng của giai cấp công nhân mà còn
là Đảng của nhân dân lao động và của toàn dân tộc có ý nghĩa to lớn
đối với cách mạng Việt Nam. Đảng đại diện cho lợi ích của toàn dân
tộc cho nên nhân dân Việt Nam coi Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng của
chính mình. Trong thành phần, ngoài công nhân còn có những người ưu
tú thuộc giai cấp nông dân, trí thức và các thành phần khác. Đảng ta
cũng đã khẳng định rằng, để bảo đảm và tăng cường bản chất giai
cấp công nhân, Đảng luôn luôn gắn bó mật thiết với giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và toàn thể dân tộc trong tất cả các thời kỳ của
cách mạng. Trong quá trình rèn luyện Đảng, Hồ Chí Minh luôn luôn chú
trọng tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Sức
mạnh của Đảng không chỉ bắt nguồn từ giai cấp công nhân mà còn bắt
nguồn từ các tầng lớp nhân dân lao động khác.
4. Quan niệm về Đảng cộng sản Việt Nam cầm
quyền
a. Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, trở
thành Đảng cầm quyền
Qua những năm tháng hoạt động thực tiễn, tìm tòi, học hỏi,
nghiên cứu lý luận, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cách mạng ở
chủ nghĩa Mac – Lênin và quyết định đi theo con đường của cách mạng
Tháng Mười. Khi sắp trở thành đảng viên, đồng thời cũng là một trong
những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Hồ Chí Minh – người cộng
sản Việt Nam đầu tiên – đã sớm xác định độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam.
Từ lý tưởng cao cả ấy, Hồ Chí Minh thấy cần phải có một đảng
cộng sản để lãnh đạo phong trào cách mạng, thực hiện mục tiêu nói
trên. Chính vì vậy, từ những năm 1920 trở đi, Người tích cực chuẩn
bị cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành
lập đảng. Tới năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu một
trang mới trong lịch sử dân tộc ta.
Trong Đường cách mệnh Hồ
Chí Minh đã khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của đảng cách
mạng – nhân tố đầu tiên, quyết định sự thắng lợi của cách mạng.
Thấu hiểu bài học lịch sử về sức mạnh của quần chúng, lại được
soi rọi dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mac – Lênin, Người chỉ rõ: công
nông là gốc cách mạng, nhưng “trước phải làm cho dân giác ngộ”. Dân
phải được tổ chức, được lãnh đạo thì mới trở thành lực lượng to
lớn, mới là chủ, là gốc cách mạng được. Nếu dân không được tổ chức
thì như đũa “mỗi nơi một chiếc”. Để Đảng vững được “phải có chủ
nghĩa làm cốt”. Thành lập Đảng là để mọi thành viên trong Đảng đó
thống nhất về tư tưởng, từ đó thống nhất trong hành động. Người đã
nghiên cứu nhiều học thuyết trên thế giới, tìm tòi, suy ngẫm, lựa
chọn, và khẳng định: “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Tóm lại, Hồ Chí Minh nhất quán cho rằng: Cách mạng Việt Nam muốn
thành công phải đi theo chủ nghĩa Mac – Lênin.
Như vậy, Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng cách mạng chân chính,
mang bản chất của giai cấp công nhân. Đảng không bao giờ “hy sinh quyền
lợi của giai cấp công nhân và nông dân cho giai cấp khác”. Đảng dìu
dắt giai cấp vô sản, lãnh đạo giai cấp vô sản, lãnh đạo cách mạng
Việt Nam là để đem lại cuộc sống tự do, hạnh phúc cho toàn thể dân
tộc. Đảng không phải là một tổ chức tự thân, và vì vậy, mục đích,
tôn chỉ của Đảng là “tận tâm”, “tận lực”, “phụng sự” và “trung
thành” với lợi ích của dân tộc Việt Nam.
Chỉ có một Đảng như thế mới có thể dem lại độc lập cho dân tộc,
tự do, hạnh phúc cho nhân dân, phồn vinh cho đất nước và đưa cả nước
đi lên chủ nghĩa xã hội.
Với đường lối chính trị đúng đắn, tổ chức chặt chẽ, Đảng đã
lãnh đạo toàn thể dân tộc giành chính quyền, thành lập nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó cũng là thời điểm Đảng Cộng sản Việt
Nam trở thành Đảng cầm quyền.
b. Quan niệm của Hồ Chí
Minh về đảng cầm quyền
“Đảng cầm quyền” là khái niệm dùng trong khoa học chính trị,
chỉ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và
lãnh đạo chính quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm thực
hiện lợi ích của giai cấp mình. Khái niệm “đảng cầm quyền” đã được
dùng phổ biến tại các nước tư bản chủ nghĩa. Ở các nước này, nếu
một chính đảng có đại biểu giành được đa số phiếu tại các cuộc
bầu cử quốc hội thì đảng đó trở thành đảng cầm quyền.
Về mặt thuật ngữ, trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh có thể bắt
gặp các khái niệm cùng chỉ một hiện tượng Đảng lãnh đạo xã hội
sau khi đã giành được chính quyền nhà nước: “Đảng nắm quyền”, “Đảng
lãnh đạo chính quyền”, “Đảng cầm quyền”. Trong đó thuật ngữ “Đảng
cầm quyền” phản ánh rõ nhất, chính xác nhất vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng
chế độ xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.
Cụm từ “Đảng cầm quyền” được Hồ Chí Minh ghi trong bản Di chúc năm 1969. Theo Hồ Chí Minh, Đảng cầm quyền là Đảng tiếp tục lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng trong điều kiện Đảng đã lãnh đạo quần
chúng nhân dân giành được quyền lực nhà nước và Đảng trực tiếp lãnh
đạo bộ máy nhà nước đó để tiếp tục hoàn thành sự nghiệp độc lập
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Khi chưa có chính quyền, nhiệm vụ chính trong các cuộc đấu tranh
của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng là lật đổ chính quyền bè
lũ thực dân và phong kiến, thiết lập chính quyền nhân dân. Phương thức
lãnh đạo, công tác chủ yếu của Đảng là giáo dục, thuyết phục, vận
động, tổ chức quần chúng, đưa quần chúng vào đấu tranh giành chính
quyền.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, bản chất của Đảng không thay đổi. Khi
có chính quyền trong tay, một vấn đề mới cực kỳ to lớn, cũng là
thử thách hết sức nặng nề của Đảng là người đảng viên cộng sản không được lãng quên
nhiệm vụ, mục đích của mình, phải toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân
dân; trên thực tế, đã có một số cán bộ , đảng viên thoái hóa, biến
chất trở thành “quan cách mạng”. Với chủ tịch Hồ Chí Minh “độc lập,
tự do, hạnh phúc” là bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đó là điểm
xuất phát để xây dựng Đảng ta xứng đáng với danh hiệu “Đảng cầm
quyền”.
Mục đích, lý tưởng của
Đảng cầm quyền:
Theo Hồ Chí Minh, Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi
ích của tổ quốc, của nhân dân. Đó là mục đích, lý tưởng cao cả
không bao giờ thay đổi trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Người chỉ rõ: “Những người cộng sản chúng ta không một phút nào
được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho tổ quốc hoàn
toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất
nước ta và trên toàn thế giới”. Khi trở thành Đảng cầm quyền, mục
đích, lý tưởng đó không những không thay đổi mà còn có thêm những
điều kiện và sức mạnh nhằm hiện thực hóa mục đích, lý tưởng ấy.
Đảng cầm quyền vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân:
Quan điểm này của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền là sự vận
dụng, phát triển hết sức sáng tạo lý luận Mac – Lênin về Đảng vô
sản kiểu mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam “là người lãnh đạo, là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân”. Xác định “người lãnh đạo” là xác
định quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng đối với toàn bộ xã hội và
khi có chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền nhà nước. Đối tượng
lãnh đạo của Đảng là toàn thể quần chúng nhân dân trong toàn dân
tộc, nhằm đem lại độc lập cho dân tộc, tự do, ấm no và hạnh phúc cho
nhân dân – mà trước hết là quần chúng nhân dân lao động. Nhưng, muốn
lãnh đạo được nhân dân lao động, trước hết Đảng phải có tư cách,
phẩm chất, năng lực cần thiết. Vì “quần chúng chỉ quý mến những
người có tư cách, đạo đức” và “Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng
ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng
lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”
“Là người lãnh đạo”, Theo Hồ Chí Minh, bằng giáo dục, thuyết
phục, Đảng phải làm cho dân tin, dân phục để dân theo. Đảng lãnh đạo
nhưng quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, cho nên Đảng “Phải đi
đường lối quần chúng, không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép nhân
dân”, mà phải giáo dục, tuyên truyền, giác ngộ dân chúng để thức
tỉnh họ. Đồng thời, Đảng phải tổ chức, đoàn kết họ lại thành một
khối thống nhất, bày cách cho dân và hướng dẫn họ hành động. Vì
vậy, chức năng lãnh đạo và sự lãnh đạo của Đảng phải bảo đảm trên
tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội, phải quan tâm
chăm lo đến đời sống nhân dân từ việc nhỏ đến việc lớn: “Đảng vừa lo
tính công việc lớn như đổi nền kinh tế và văn hóa lạc hậu của nước
ta thành một nền kinh tế và văn hóa tiên tiến, đồng thời lại quan tâm
đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hàng
ngày của nhân dân”.
Là người lãnh đạo, Đảng phải sâu sát, gắn bó mật thiết với
nhân dân, lắng nghe ý kiến của dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân và phải
chịu sự kiểm soát của nhân dân, bởi “Sự lãnh đạo trong mọi công tác
thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng mà ra, trở lại nơi
quần chúng”. Đảng phải thực hành triệt để dân chủ, mà trước hết dân
chủ trong nội bộ Đảng, để phát huy được mọi khả năng trí tuệ sáng
tạo của quần chúng; lãnh đạo nhưng phải chống bao biện, làm thay,
phải thông qua chính quyền, nhà nước “của dân, do dân, vì dân”để Đảng
thực hiện quyền lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Do đó,
Đảnh phải lãnh đạo nhà nước một cách toàn diện, mà trong đó và
trước hết là lãnh đạo xây dựng luật pháp để quản lý, điều hành xã
hội; đồng thời, Đảng phải thường xuyên coi trọng công tác giáo dục,
đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, viên chức hoạt động trong bộ
máy nhà nước, luôn bảo đảm cho nhà nước thực sự trong sạch, vững
mạnh, thực sự là nhà nước “của dân, do dân, vì dân”
Với tư cách là người lãnh đạo, Hồ Chí Minh còn đề cập một
cách sâu sắc đến việc Đảng phải thực hiện chế độ kiểm tra và phát
huy vai trò tiên phong của đội ngũ đảng viên, cán bộ của Đảng.
Là người lãnh đạo, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng cũng có
nghĩa bao hàm cả trách nhiệm “là người đầy tớ” của dân. Song “đầy
tớ” ở đây không có nghĩa là “tôi tớ, tôi đòi hay theo đuôi quần
chúng”, mà là tận tâm, tận lực phụng sự nhân dân nhằm đem lại các
quyền và lợi ích cho dân. Người nhấn mạnh: “Đã phụng sự nhân dân,
thì phải phụng sự cho ra trò. Nghĩa là việc gì có lợi cho dân, thì
phải làm chi kỳ được. Việc gì hại cho dân, thì phải hết sức tránh”.
Người sử dụng cụm từ “đầy tớ trung thành” là để nhắc nhở và chỉ
rõ vai trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên trong mọi hoạt
động của mình đều phải quan tâm thực sự đến lợi ích của dân: “khổ
trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, tận tụy với công việc, phải thường
xuyên “tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa
mặt”. Phải làm cho dân tin, dân phục để dân hết lòng ủng hộ, giúp
đỡ. Mỗi cán bộ, đảng viên “đều là công bộc của dân, nghĩa là để
gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu cưỡi cổ dân như
trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật.”
Mặt khác, ý nghĩa cụm từ “đầy tớ trung thành của nhân dân”,
theo tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải có tri
thức khoa học, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ giỏi; thực sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng: “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
Không chỉ nắm vững và thực hiện tốt quan điểm, đường lối của Đảng,
mà còn phải biết tuyên truyền, vận động lôi kéo quần chúng đi theo
Đảng, đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng.
Như vậy, “là người lãnh đạo”, “là người đầy tớ” tuy là hai
khái niệm, nhưng đều được Hồ Chí Minh sử dụng và chỉ ra sự gắn bó
thống nhất, quan hệ biện chứng giữa hai khái niệm đó với nhau. Dù
là “người lãnh đạo” hay “người đầy tớ”, theo quan điểm của Hồ Chí
Minh đều cùng chung một mục đích: vì dân. Làm tốt chức năng “lãnh
đạo” và làm tròn nhiệm vụ “đầy tớ” cho nhân dân là cơ sở vững chắc
nhất bảo đảm uy tín và năng lục lãnh đạo của Đảng không những được
ăn sâu, bám chắc trong lòng giai cấp công nhân, mà còn trong cả các
tầng lớp quần chúng nhân dân lao động và trong toàn thể dân tộc Việt
Nam.
Đảng cầm quyền, dân là
chủ:
Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền.
Tuy nhiên, theo Mac, đó mới là cánh cửa vào xã hội chứ chưa phải đã
là xã hội mới. Vì vậy, vấn đề quan trọng là chính quyền thuộc về
ai. Hồ Chí Minh đã nghiên cứu kinh nghiệm, lý luận của các cuộc cách
mạng trên thế giới và kết luận: “cách mạng rồi thì quyền trao cho
dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người”. Như vậy, theo
Hồ Chí Minh, quyền lực phải thuộc về nhân dân. Người đã đề cập xây
dựng một nhà nước của dân, do dân ,vì dân.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, Đảng lãnh đạo cách mạng là để
thiết lập và củng cố quyền làm chủ của nhân dân. Theo Người, quyền
lực thuộc về nhân dân là bản chất, là nguyên tắc của chế độ mới,
một khi xa rời nguyên tắc này, Đảng sẽ trở thành đối lập với nhân
dân. Dân làm chủ, Đảng lãnh đạo, Đảng phải “lấy dân làm gốc”.
Mặt khác, dân muốn làm chủ thực sự thì phải theo Đảng. Mỗi
người dân phải biết lợi ích và bổn phận của mình tham gia xây dựng
chính quyền.
Với tư tưởng nhân văn cao cả về mối liên hệ biện chứng giữa
Đảng với dân, Hồ Chí Minh luôn suy tư, trăn trở để tìm giải pháp hữu
hiệu nhằm thực hiện nguyên tắc dân là chủ, dân là gốc. Theo Người, cơ
chế ấy chỉ có thể trở thành hiện thực, không bị vi phạm khi cán
bộ, đảng viên còn là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH
1. Xây dựng Đảng – Quy luật tồn tại và phát
triển của Đảng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ
di sản tư tưởng của Người. Người liên tục đề cập vấn đề xây dựng
Đảng và hình thành một hệ thống các luận điểm mang tính nhất quán.
Hồ Chí Minh bàn về xây dựng Đảng không phải là khi trong Đảng
có gì đột biến hay trong Đảng “có vấn đề nổi cộm” mới cần đến một
giải pháp tình thế. Với Người, xây dựng Đảng là một nhiệm vụ tất
yếu, thường xuyên để Đảng hoàn thành vai trò chiến sĩ tiên phong
trước giai cấp, dân tộc và nhân dân. Xây dựng Đảng được Hồ Chí Minh
đặt ra như một nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Khi cách mạng
gặp khó khăn, xây dựng Đảng để cán bộ, đảng viên củng cố lập
trường, quan điểm, bình tĩnh, sáng suốt, không tỏ ra bị động, lúng
túng, bi quan. Ngay cả khi cách mạng trên đà thắng lợi cũng cần đến
xây dựng Đảng để xây dựng những quan điểm, tư tưởng cách mạng khoa
học, ngăn ngừa chủ quan, tự mãn, lạc quan tếu và rơi vào căn bệnh
“kiêu ngạo cộng sản” – theo cách nói của Lênin.
Tính tất yếu khách quan của công tác xây dựng Đảng được Hồ Chí
Minh lý giải hết sức thuyết phục theo các căn cứ sau đây:
- Xây dựng Đảng bị chế định bởi quá trình phát triển liên tục
của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Đảng lãnh đạo giai cấp
và nhân dân đánh đổ đế quốc, phong kiến, xây dựng chế độ dân chủ
mới, tạo điều kiện tiến dần lên chủ nghĩa xã hội nhằm giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Sự nghiệp cách
mạng do Đảng lãnh đạo là một quá trình, bao gồm nhiều thời kỳ,
nhiều giai đoạn; mỗi thời kỳ, giai đoạn có những mục tiêu, nhiệm vụ
cụ thể và những yêu cầu riêng. Trước diễn biến của điều kiện khách
quan, bản thân Đảng phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới để vươn lên làm
tròn trọng trách trước dân tộc và giai cấp. Sinh thời, mỗi khi cách
mạng chuyển giai đoạn, bắt đầu triển khai nhiệm vụ mới, Hồ Chí Minh
bao giờ cũng chủ trương trước hết
phải xây dựng Đảng. Chủ trương đó vừa khẳng định đúng vị trí,
vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa thể hiện khả năng nhạy bén, làm chủ
thời cuộc của người đứng đầu tổ chức Đảng. Trong suy nghĩ và nhận
thức của Hồ Chí Minh, Đảng ta lớn lên, trưởng thành gắn liền với sự
phát triển của đất nước và dân tộc, Đảng thật sự là “một cơ thể
sống” luôn tự hoàn thiện và vượt lên.
- Đối với toàn Đảng, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: Đảng sống trong
xã hội, là một bộ phận hợp thành cơ cấu của xã hội; mỗi cán bộ,
đảng viên đều chịu ảnh hưởng, tác động của môi trường xã hội, các
quan hệ xã hội, cả cái tốt va cái xấu, cái tích cực, lạc hậu. Do
đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện; Đảng phải
chú ý đến việc xây dựng Đảng. Khả năng tiếp nhận nguồn sinh lực
tiềm tàng và “đề kháng” các căn bệnh xã hội “thẩm thấu” vào Đảng
là phụ thuộc vào hiệu quả công tác xây dựng Đảng. Trong hoàn cảnh
xã hội thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu,
trình độ sản xuất lạc hậu mà tiến dần lên chủ nghĩa xã hội như
Việt Nam thì việc xây dựng Đảng càng được quan tâm đặc biệt.
- Xây dựng Đảng là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn
luyện, giáo dục và tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành các nhiệm vụ mà
Đảng và nhân dân giao phó, đặc biệt là giữ được các phẩm chất đạo
đức cách mạng tiêu biểu.
Đảng ta mặc dù có cơ sở khắp cả nước, có những cán bộ và
đảng viên tận tụy, hy sinh vô cùng oanh liệt, nhưng theo Hồ Chí Minh,
“vì điều kiện khó khăn, mà số đông cán bộ và đảng viên chưa được
huấn luyện hẳn hoi cho nên tư tưởng và trình độ chính trị còn thấp
kém và lệch lạc, điều đó tỏ rõ ra ở mỗi khuyết điểm như: không nắm
vững chính sách trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh; không phân
biệt rõ ràng bạn và địch, bệnh quan liêu, công thần và nạn tham ô hủ
hóa khá nặng…”
Xây dựng Đảng là làm cho mỗi cán bộ, đảng viên hiểu rõ, hiểu
đúng và thực hành tốt quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng.
Mặt khác, giúp cán bộ, đảng viên phải nhìn lại mình, phát huy mặt
tốt, loại bỏ mặt xấu vốn có trong mỗi con người. Hồ Chí Minh cho
rằng, cán bộ, đảng viên không phải là thần thánh, họ là con người.
Đã là con người thì ai cũng có hai mặt tôt – xấu, thiện – ác thường
xuyên đấu tranh với nhau. Trong điều kiện môi trường tốt, nếu cán bộ
đảng viên nỗ lực tu dưỡng, phấn đấu, rèn luyện thì mặt tốt, mặt
thiện sẽ nổi lên, đẩy lùi mặt xấu, mặt ác. Từ đó họ sẽ trở thành
người tốt, làm gương cho quần chúng, có ích cho Đảng, cho cách mạng.
Ngược lại, trong một môi trường xã hội không lành mạnh, đầy dẫy sự
dối trá, lừa lọc, nếu cán bộ, đảng viên buông thả, thiếu ý chí
phấn đấu thì mặt ác, mặt xấu sẽ nổi lên chi phối, kìm chế mặt
tốt, mặt thiện và lúc đó, họ trở thành người bị tha hóa, biến
chất, có hại cho Đảng, cho dân…thậm chí trở thành tội phạm.
Vì thế, để mỗi cán bộ, đảng viên luôn giữ trọn phẩm chất tốt
đẹp của mình, giác ngộ lý tưởng cách mạng, vững vàng về mọi mặt
trong mọi điều kiện, môi trường xã hội khác nhau thì cùng với sự tự
giác rèn luyện, phấn đấu, họ còn cần đến sự giúp đỡ, kiểm soát,
quản lý từ phía Đảng. Xây dựng Đảng không thể buông lỏng việc thắt
chặt công tác kiểm tra, quản lý cán bộ, đảng viên. Xây dựng Đảng nếu
không được đặt đúng vị trí, ngang tầm mà lại buông lỏng kiểm soát,
quản lý thì rất dễ làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên bị thoái
hóa, biến chất về đạo đức và lối sống dẫn đến tha hóa cả về
chính trị.
Trên bình diện phát triển cá nhân,
xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nhu cầu tự hoàn thiện, nhu cầu tự làm trong sạch nhân cách của mỗi cán bộ, đảng
viên.
- Trong điều kiện Đảng đã trở
thành Đảng cầm quyền, việc xây dựng Đảng lại được Hồ Chí Minh coi là công việc
càng phải được tiến hành thường xuyên hơn của Đảng. Bởi lẽ, với một nhãn quan đặc
biệt nhạy bén về chính trị, Ngưới đã nhìn thấy và nhận diện rõ tính hai mặt vốn
có của quyền lực: Một mặt, quyền lực
có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu biết sử dụng
đúng; mặt khác, quyền lực cũng có sức
phá hoại ghê gớm nếu người nắm quyền lực bị thoái hóa, biến chất, đi vào con đường
ham muốn quyền lực, chạy theo quyền lực, tranh giành quyền lực, lợi dụng quyền
lực để lạm quyền, lộng quyền, đặc quyền, đặc lợi, biến quyền lực của nhân dân
thành đặc quyền của cá nhân,…Vì vậy, Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc chỉnh
đốn và đổi mới Đảng để hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi và tẩy trừ mọi tệ nạn do
thoái hóa, biến chất gây ra trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền nhà nước.
Nhận thức đúng tác động qua lại giữa môi trường xã hội và vai trò lãnh đạo
của Đảng, đặc điểm phát triển tâm lý, nhân cách của cán bộ, đảng viên, Hồ Chí
Minh đã đi đến một nhận định mang tính triết lý sâu sắc, có giá trị phổ quát
trong vấn đề xây dựng, đổi mới Đảng: “Một dân tộc, một đảng, và mỗi con người,
ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai
vẫn được mọi người mến yêu và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa
vào chủ nghĩa cá nhân”. Nhận định đó là một chân lý: Nó phản ánh đúng thực tiễn
và đã được thực tiễn không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nơi trên thế giới kiểm
nghiệm, Nó là lời cảnh tỉnh có ý nghĩa rất sâu xa đối với Đảng cộng sản cầm quyền,
đối với mỗi đảng viên cộng sản, nhất là đảng viên cộng sản có chức, có quyền,
giữ các vị trí then chốt trong bộ máy nhà nước.
Nhìn một cách tổng quát, theo Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng mang tính quy luật
và là nhu cầu tồn tại, phát triển của bản thân Đảng. Đổi mới Đảng nhằm làm cho
Đảng thực sự trong sạch, vững vàng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; làm cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những
yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao, càng phức tạp của nhiệm vụ cách mạng. Đổi mới Đảng
sẽ làm cho toàn Đảng trở thành một khối thống nhất về nhận thức và tư tưởng,
làm cơ sở cho sự thống nhất về hành động, đủ sức lái con thuyền cách mạng Việt
Nam tiến về phía trước, vượt qua những khúc quanh đầy thử thách.
2. Nội dung công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
a. Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận
Để đạt mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải dựa vào lý luận cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mac – Lênin. Khi huấn luyện cho cán bộ cách mạng
từ năm 1925 đến 1927, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng
mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ
nam”; “chủ nghĩa” ấy là chủ nghĩa Mac – Lênin, Hồ Chí Minh đã ví chủ nghĩa Mac
– Lênin như trí khôn của con người, như bàn chỉ nam định hướng cho tàu đi, điều
đó nói lên vai trò cực kỳ quan trọng của lý luận ấy trong tất cả các thời kỳ
cách mạng. Với ý nghĩa ấy, theo Người, chủ nghĩa Mac – Lênin trở thành “cốt”,
trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Trong việc tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mac – Lênin, Hồ Chí Minh lưu ý
những điểm sau đây:
- Việc học tập, nghiên cứu,
tuyên truyền phải phù hợp với từng đối tượng.
- Việc vận dụng phải luôn
phù hợp với từng hoàn cảnh. Theo Hồ Chí Minh, vận dụng chủ nghĩa Mac – Lênin phải tránh
giáo điều, đồng thời chống lại việc xa rời các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa
Mac – Lênin. Điều này hoàn toàn đúng với lời căn dặn của Mac, Ăngghen, Lênin:
Những quan điểm của các ông chỉ là phương pháp chỉ dẫn hành động trong thực tế.
- Trong quá trình hoạt động,
Đảng ta phải chú ý học tập, kế thừa những kinh nghiệm tốt của các đảng cộng sản
khác, đồng thời Đảng ta phải tổng kết kinh nghiệm của mình để bổ sung vào chủ
nghĩa Mac – Lênin. Chủ nghĩa Mac – Lênin là học thuyết nêu lên những vấn
đề cơ bản nhất, trên cơ sở đó mỗi đảng vận dụng vào hoàn cảnh,
điều kiện riêng của mình. Trong quá trình vận dụng, mỗi đảng lại
giải quyết thành công những vấn đề mới, tổng kết thành những vấn
đề lý luận bổ sung và làm giàu thêm nội dung lý luận Mac – Lênin. Đây
là thái độ và trách nhiệm thường xuyên của Đảng.
- Đảng phải tăng cường
đấu trang để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mac – Lênin .Chú ý chống giáo điều,
cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mac – Lênin; chống lại những luận điểm sai
trái, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mac – Lênin.
b. Xây dựng Đảng về chính trị
Tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Đảng về chính trị có
nhiều nội dung bao gồm: xây dựng đường lối chính trị, bảo vệ chính
trị, xây dựng và thực hiện nghị quyết, xây dựng và phát triển hệ tư
tưởng chính trị, củng cố lập trường chính trị, nâng cao bản lĩnh
chính trị…trong đó, theo Hồ Chí Minh, đường lối chính trị là một vấn
đề cốt tử trong sự tồn tại và phát triển của Đảng. Hoạch định
đường lối chính trị trở thành một trong những vấn đề cực kỳ quan
trọng trong xây dựng Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền có vai trò định hướng phát triển
cho toàn xã hội. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo chính trị của
mình chủ yếu bằng việc đề ra cương lĩnh, đường lối chiến lược,
phương hướng phát triển kinh tế – xã hội cũng như sách lược và quy
định những mục tiêu phát triển của xã hội theo hướng lâu dài cũng
như từng giai đoạn. Đảng muốn xây dựng đường lối chính trị đúng đắn
cần phải coi trọng những vấn đề: đường lối chính trị phải dựa trên
cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mac – Lênin, vận dụng nó vào hoàn cảnh
cụ thể của nước ta trong từng thời kỳ; trong xây dựng đường lối
chính trị, phải học tập kinh nghiệm của các đảng cộng sản anh em,
nhưng phải tính đến những điều kiện cụ thể của đất nước và của
thời đại trong từng giai đoạn hoặc cả thời kỳ dài; để có đường lối
chính trị đúng, Đảng phải thật sự là đội tiên phong dũng cảm, là
bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và
của cả dân tộc.
Hồ Chí Minh lưu ý cần phải giáo dục đường lối, chính sách của
Đảng, thông tin thời sự cho cán bộ, đảng viên để họ luôn luôn kiên
định lập trường, giữ vững bản lĩnh chính trị trong mọi hoàn cảnh.
Đồng thời, Người cũng cảnh báo nguy cơ sai lầm về đường lối chính
trị sẽ gây hậu quả nghiêm trọng đối với vận mệnh tổ quốc, sinh mệnh
chính trị của hàng triệu đảng viên cũng như của hàng triệu nhân dân
lao động.
c. Xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy, công tác cán
bộ
- Hệ thống tổ chức của
Đảng: Hồ Chí Minh khẳng định sức mạnh của
Đảng bắt nguồn từ tổ chức, một tổ chức tiên phong chiến đấu của
giai cấp công nhân. Hệ thống tổ chức của Đảng từ trung ương đến cơ sở
phải chặt chẽ, có tính kỷ luật cao. Mỗi cấp độ tổ chức có chức
năng, nhiệm vụ riêng.
Trong hệ thống tổ chức Đảng, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò
của chi bộ. Bởi lẽ, đối với bản thân Đảng, chi bộ là tổ chức hạt
nhân, quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng; là môi trường tu
dưỡng, rèn luyện và cũng là nơi giám sát đảng viên, chi bộ có vai
trò quan trọng trong việc gắn kết giữa Đảng với quần chúng nhân dân.
- Các nguyên tắc sinh
hoạt Đảng
+ Tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng. Giữa “tập trung” và
“dân chủ” có mối quan hệ khắng khít với nhau, đó là hai vế của một
nguyên tắc. Hồ Chí Minh viết về quan hệ đó như sau: Tập trung trên nền
tảng dân chủ; dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung. Hoặc Người viết:
“chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là
thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của
mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một
nghĩa vụ của mọi người.
Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc
đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự
do phục tùng chân lý”.
+ Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Hồ Chí Minh giải thích về tập thể lãnh đạo như sau: “Vì sao
cần phải có tập thể lãnh đạo?
Vì một
người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ
trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề,
không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề.
Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh
nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt
khác của vấn đề đó.
Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó
được thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu
đáo, khỏi sai lầm”.
Về cá nhân phụ trách, Hồ Chí Minh cho rằng: “Việc gì đã được
đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định ràng rồi, thì cần
phải giao cho một người hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế
hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới
chạy.
Nếu không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh cái tệ người này
ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả là không ai thi
hành. Như thế việc gì cũng không xong”.
Thực hiện nguyên tắc này trong công tác xây dựng Đảng phải chú
ý khắc phục tệ độc đoán, chuyên quyền, đồng thời phải chống lại cả
tình trạng dựa dẫm tập thể, không dám quyết đoán, không dám chịu
trách nhiệm.
+ Tự phê bình và phê bình
Mục đích của tự phê bình và phê bình là để làm cho phần tốt
trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân, làm cho mỗi tổ chức tốt
lên, phần xấu bị mất dần đi, tức là nói đến sự vươn tới chân,
thiện, mỹ. Mục đích này được quy định bởi tính tất yếu trong quá
trình họat động của Đảng ta. Bởi vì, Đảng là một thực thể xã hội,
Đảng bao gồm các tầng lớp xã hội, đội nghũ của Đảng bao gồm những
người ưu tú, nhưng trong Đảng cũng không tránh khỏi những khuyết điểm,
không phải mọi người đều tốt, mọi việc đều hay, mỗi con người đều
có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh cho
rằng, thang thuốc tốt nhất là tự phê bình và phê bình.
Thái độ, phương pháp tụ phê bình và phê bình
được Hồ Chí Minh nêu rõ ở những điểm như: phải tiến hành thường
xuyên như người ta rửa mặt hàng ngày; phải thẳng thắn, chân thành,
trung thực, không nể nang, không dấu diếm và cũng không thêm bớt khuyết
điểm; “phải có tình thương yêu lẫn nhau”.
+ Kỷ luật nghiêm minh, tự giác
Sức mạnh của một tổ chức cộng sản và của mỗi đảng viên bắt
nguồn từ ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Tính nghiêm
minh của kỷ luật Đảng đòi hỏi tất cả các tổ chức Đảng, tất cả
mọi đảng viên đều phải bình đẳng trước điều lệ Đảng, trước pháp
luật của nhà nước, trước mọi quyết định của Đảng. Đồng thời, Đảng
ta là một tổ chức gồm những người tự nguyện phấn đấu cho lý tưởng
cộng sản chủ nghĩa cho nên tính tự giác là một yêu cầu bắt buộc đối
với mọi tổ chức Đảng và đảng viên. Tính nghiêm minh, tự giác đòi
hỏi đảng viên phải gương mẫu trong cuộc sống, công tác. Uy tín của
Đảng bắt nguồn từ sự gương mẫu của mỗi đảng viên trong việc tự giác
tuân thủ kỷ luật của Đảng, của nhà nước, của đoàn thể nhân dân.
+ Đoàn kết, thống nhất trong Đảng
Sự đoàn kết, thống nhất của Đảng phải dựa trên cơ sở lý luận của
Đảng là chủ nghĩa Mac – Lênin; cương lĩnh, điều lệ Đảng; đường lối,
quan điểm của Đảng; nghị quyết của tổ chức Đảng các cấp. Đồng
thời, muốn đoàn kết thống nhất trong Đảng phải thực hành dân chủ
rộng rãi ở trong Đảng, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và
phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa
cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác, phải “sống với nhau có
tình, có nghĩa”. Có đoàn kết tốt thì mới tạo ra cơ sở vững chắc
để thống nhất ý chí và hành động, làm cho “Đảng ta tuy đông người
nhưng khi tiến đánh chỉ như là một người”.
- Cán bộ, công tác cán
bộ của Đảng
Hồ Chí Minh đề ra một hệ thống các quan điểm về cán bộ và công
tác cán bộ, Người nhận thức rất rõ về vị trí, vai trò của cán bộ
trong sự nghiệp cách mạng. Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy, là
mắt khâu trung gian nối liền giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Muôn
việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém. Người cán bộ
phải có đủ đức và tài, phẩm chất và năng lực, trong đó, đức, phẩm
chất là gốc.
Hồ Chí Minh cho rằng, công tác cán bộ là công tác gốc của
Đảng. Nội dung của nó bao hàm các mắt khâu liên hoàn có quan hệ chặt
chẽ với nhau: tuyển chọn cán bộ, đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng
cán bộ, đánh giá đúng cán bộ; tuyển dụng, sắp xếp, bố trí cán
bộ; thực hiện các chính sách đối với cán bộ.
d. Xây dựng Đảng về đạo
đức
Hồ Chí Minh khẳng định: Một Đảng chân chính cách mạng phải có
đạo đức. Đạo đức tạo nên uy tín, sức mạnh của Đảng, giúp Đảng đủ
tư cách lãnh đạo, hướng dẫn quần chúng, nhân dân.
Xét về thực chất, đạo đức của Đảng là đạo đức mới, đạo đức
cách mạng. Đạo đức đó mang bản chất của giai cấp công nhân, cũng là
đạo đức Mac – Lênin, đạo đức cộng sản chủ nghĩa mà nội dung cốt lõi
là chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu. Vì thế, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng
ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư. Có đạo đức cách mạng trong sáng, Đảng ta mới lãnh đạo
nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, làm cho tổ quốc giàu mạnh,
đồng bào sung sướng. Đó là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và cũng là
tư cách số một của Đảng cầm quyền.
Giáo dục đạo đức cách mạng là một nội dung quan trọng trong
việc tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên. Nó gắn chặt với
cuộc đấu trang chống chủ nghĩa cá nhân dưới mọi hình thức nhằm làm
cho Đảng luôn luôn thực sự trong sạch.
Đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức, gắn đạo đức với tư cách
của một Đảng cách mạng chân chính, Hồ Chí Minh đã góp phần bổ sung,
mở rộng, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin về nội dung
công tác xây dựng Đảng phù hợp với truyền thống văn hóa, lịch sử
của các nước Phương Đông, trong đó có Việt Nam.
KẾT LUẬN
Hồ Chí Minh là người sáng lập đồng thời là người giáo dục và
rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam trong gần 40 năm. Từ nhu cầu giải
phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, vận dụng sáng tạo và
phát triển chủ nghĩa Mac – Lênin, Hồ Chí Minh đã kết hợp chặt chẽ
giữa nhận thức lý luận và hoạt động, tổng kết thực tiễn, xác lập
nên một hệ thống các quan điểm, tư tưởng về Đảng cộng sản và xây
dựng Đảng cộng sản trong điều kiện một nước thuộc địa nửa phong
kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu với các đặc điểm văn hóa truyền
thống Phương Đông. Những quan điểm, tư tưởng đó bao gồm các vấn đề có
tính quy luật có liên quan đến sự hình thành, vị trí, vai trò, bản
chất của Đảng Cộng sản và những vấn đề có tính nguyên tắc liên quan
tới công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh,
nhất là trong điều kiện Đảng thành Đảng cầm quyền. Trong hệ thống
các quan điểm đó, Hồ Chí Minh có những phát kiến đặc biệt sáng
tạo, phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa tính phổ biến và tính
đặc thù của quy luật hình thành Đảng vô sản kiểu mới trong điều
kiện từng nước; quan điểm về sự thống nhất biện chứng giữa bản
chất giai cấp công nhân với tính dân tộc và tính nhân dân của Đảng;
quan niệm về Đảng Cộng sản cầm quyền và các yếu tố bảo đảm vai
trò cầm quyền của Đảng. Những quan điểm này thật sự là sáng tạo
riêng cuả Hồ Chí Minh, góp phần cụ thể hóa và phát triển lý luận
Mac – Lênin về Đảng Cộng sản.
Trong giai đoạn cách mạng mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, dân tộc ta đang đứng
trước nhiều thời cơ, vận hội nhưng cũng không ít khó khăn, thách
thức. Vai trò lãnh đạo của Đảng càng phải được khẳng định, năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cần được nâng cao hơn bao giờ
hết để ngang tầm với các yêu cầu, nhiệm vụ mà lịch sử dân tộc giao
phó. Trong bối cảnh mới, Đảng ta xác định rõ nhiệm vụ xây dựng kinh
tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt gắn liền với
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo
nền tảng tinh thần cho sự phát triển xã hội. Quán triệt tư tưởng Hồ
Chí Minh, Đảng ta đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng trên tất cả các
mặt: tư tưởng – lý luận, chính trị, tổ chức và cán bộ đạo đức,
làm cho Đảng thực sự trong sạch, đạt đến tầm cao về đạo đức, trí
tuệ, bản lĩnh chính trị, vững vàng trước mọi thủ thách của lịch
sử.
- Về chính trị, đó là đường lối chính
trị đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng trong mọi tình huống
phức tạp, mọi bước ngoặt hiểm nghèo, mọi giai đoạn cách mạng khác
nhau. Trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, Đảng biết tập trung giành thắng lợi cho từng bước đi lên của
cách mạng. Đó là đường lối cúng rắn về chiến lược. Mềm dẻo về
sách lược, linh hoạt về biện pháp đấu tranh, tập hợp đươc lực lượng
của toàn dân, tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của quốc tế,
tạo thành sức mạnh vô địch của cách mạng.
- Về tư tưởng, đó là tư tưởng cách
mạng triệt để, tư tưởng cách mạng tiến công, chống chủ nghĩa cơ hội,
xét lại, giáo điều, bảo thủ. Trên nền tảng chủ nghĩa Mac – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng phải biết làm giàu trí tuệ của mình bằng
việc kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
thâu thái những tinh hoa văn hóa của nhân loại để giành thắng lợi cho
cách mạng.
- Về tổ chức, đó là một tổ chức
chính trị trong sạch, vững mạnh; một tổ chức chiến đấu kiên cường
với các nguyên tắc nền móng được tuân thủ nghiêm ngặt để khi hành
động thì muôn người như một. Đó là một tổ chức trọng chất lượng hơn
số lượng, lấy việc nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng là nhiệm vụ thường xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên và của
toàn Đảng.
- Về đạo đức, lối sống,cán bộ, đảng viên của
Đảng coi trọng việc tu dưỡng đạo đức, nâng cao năng lực, gắn bó máu
thịt với nhân dân, dám hy sinh xả thân vì sự nghiệp cách mạng. Trong
mọi mối quan hệ, cán bộ, đảng viên không ngừng học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để không ngừng hoàn thiện nhân cách,
giành được niềm tin yêu trọn vẹn của nhân dân.
Chúng ta đã đạt được rất nhiều thành tựu trong công tác xây
dựng Đảng cầm quyền, nhưng bất cập, yếu kém, hạn chế cũng không
phải là ít nhất là sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức,
lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn và
đẩy lùi. Những hạn chế này đang làm giảm sút lòng tin của nhân dân
đối với Đảng, hạn chế năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng. Được chiếu rọi bởi ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta
quyết tâm xây dựng về mọi mặt một cách thiết thực; xác định đổi
mới và chỉnh đốn Đảng đáp ứng nhu cầu phát triển của giai cấp và
dân tộc là quy luật tồn tại, sống còn của Đảng. Chính trên ý nghĩa
đó, việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
phải được quán triệt đến từng tổ chức cơ sở Đảng, từng cán bộ,
đảng viên.
CHƯƠNG V
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀ
ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
1. Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự
nghiệp cách mạng
a. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược trong sự nghiệp cách mạng
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, trong thời đại mới, để đánh bại các
thế lực đế quốc, thực dân nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và giải phóng loài người, nếu chỉ có tinh thần yêu nước thì
chưa đủ; cách mạng muốn thành công và thành công đến nơi, phải tập
hợp được tất cả mọi lực lượng có thể tập hợp, xây dựng được khối
đại đoàn kết dân tộc bền vững. Chính vì vậy, trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, đại đoàn kết dân tộc là vấn để có ý nghĩa chiến lược, cơ
bản, nhất quán và lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách mạng.
Để quy tụ được mọi lực lượng vào khối đại đoàn kết toàn dân,
cần phải có chính sách và phương pháp phù hợp với từng đối tượng.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và
nhiệm vụ khác nhau, chính sách và phương pháp tập hợp có thể và
cần thiết phải có sự điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng,
song đại đoàn kết dân tộc phải luôn luôn được nhận thức là vấn đề
sống còn, quyết định thành bại của cách mạng.
Chính sách mặt trận của Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đặt
ra là để thực hiện đại đoàn kết dân tộc. Nhờ tư tưởng nhất quán và
chính sách mặt trận đúng đắn, Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã
xây dựng thành công khối đại đoàn kết dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam
giành được nhiều thắng lợi to lớn. Hồ Chí Minh viết: “Đoàn kết trong
mặt trận Việt Minh, nhân dân ta
đã làm Cách Mạng Tháng Tám thành công, làm nên nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa.
Đoàn kết trong mặt trận Liên
Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, lập lại hòa bình ở
Đông Dương, hoàn toàn giải phóng Miền Bắc.
Đoàn kết trong mặt trận Tổ
quốc Việt Nam nhân dân ta đã giành được thắng lợi trong công cuộc
khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc”.
Từ thực tiễn như vậy, Hồ Chí Minh đã khái quát thành nhiều
luận điểm có tính chân lý về vao trò của khối đai đoàn kết:
Đoàn kết làm ra sức
mạnh. Hồ
Chí Minh rất nhiều lần nhấn mạnh luận điểm này. Người viết: “Đoàn
kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt chẽ, thì chúng ta nhất
định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và
làm trọn nhiệm vụ nhân dân giao phó”, “Đoàn kết là một lực lượng vô
địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”;
“Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”, “Đoàn kết là sức
mạnh, là then chốt của thành công”…
“Bây giờ còn một điểm rất quan trọng, cũng là điểm mẹ. Điểm
này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt: đó là đoàn kết”.
“Đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công,
thành công, đại thành công”…
b. Đại đoàn
kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết là
sức mạnh, là mạch nguồn của mọi thắng lợi.
Do đó, đại đoàn kết dân tộc phải được xác định là mục tiêu,
nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, phải được quán triệt trong tất cả mọi
lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách tới hoạt động thực
tiễn của Đảng. Trong Lời kết thúc buổi
ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam này 3 - 3 - 1951, Hồ Chí Minh đã
thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc: “Mục đích của Đảng
Lao động Việt Nam có thể gôm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc”. Để thực hiện mục
tiêu này, Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm
nhuần quan điểm quần chúng, phải gần gũi quần chúng, lắng nghe quần
chúng; vận động, tổ chức và giáo dục quần chúng, coi sức mạnh của
cách mạng là ở nơi quần chúng; phải thấm nhuần lời dạy: “Dễ trăm
lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng
thời cũng là nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng. Nhấn
mạnh vấn đề này là nhấn mạnh tới vai trò của thực lực cách mạng.
Bởi vì, cách mạng muốn thành công nếu chỉ có đường lối đúng thì
chưa đủ, mà trên cơ sở của đường lối đúng, Đảng phải cụ thể hóa
thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng phù hợp với
từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo thực lực
cho cách mạng. Thực lực đó chính là khối đại đoàn kết dân tộc. Năm
1963, khi nói chuyện với cán bộ tuyên truyền và huấn luyện miền núi
về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trước cách
mạng Tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm
cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một là đoàn kết. Hai là làm
cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây
giờ, mục đích của tuyên truyền, huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là
đấu tranh thống nhất nước nhà”.
Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng, đại đoàn kết dân tộc không phải
chỉ là mục tiêu của Đảng, mà còn là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân
tộc. Bởi vì, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, phải do quần
chúng, vì quần chúng. Từ trong phong trào đấu tranh để tự giải phóng
và xây dựng xã hội mới tốt đẹp, quần chúng nảy sinh nhu cầu đoàn
kết và sự hợp tác. Đảng cộng sản có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp,
hướng dẫn quần chúng, chuyển những nhu cầu, những đòi hỏi khách
quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành
hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh
tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân
dân và hạnh phúc cho con người.
2. Lực lượng đại đoàn kết dân tộc
a. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Đứng trên lập trường giai cấp công nhân và quan điểm quần chúng,
Hồ Chí Minh đã đề cập vấn để DÂN và NHÂN DÂN một cách rõ ràng,
toàn diện, có sức thuyết phục, thu phục lòng người. Các khái niệm
này có biên độ tất rộng lớn. Hồ Chí Minh thường dùng khái niệm này
để chỉ “mọi con dân nước Việt”,
“mỗi một người con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc đa số
hay thiểu số, có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, không phân biệt “già trẻ, gái, trai, giàu nghèo, quý
tiện”. Như vậy, dân và nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa được
hiểu với tư cách là mỗi con người Việt Nam cụ thể, vừa là một tập
hợp đông đảo quần chúng nhân dân, với những mối liên hệ cả quá khứ
và hiện tại, họ là chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc và đại
đoàn kết dân tộc thực chất là đại đoàn kết toàn dân.
Nói đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa là phải tập hợp được
tất cả mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Theo
nghĩa đó, nội hàm trong khái niệm đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ
Chí Minh rất phong phú, nó bao gồm nhiều tầng, nấc, nhiều cấp độ
mối quan hệ liên kết qua lại giữa các thành viên, các bộ phận, các
lực lượng xã hội của dân tộc từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ
trong ra ngoài, từ trên xuống dưới…Hồ Chí Minh đã nhiều lần
nói:”Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu
dài…Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của tổ
quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có
đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta
đoàn kết với họ”. Từ “ta” ở đây là chủ thể, vừa là Đảng Cộng sản
Việt Nam nói riêng, vừa là mọi người dân Việt Nam nói chung.
Người còn chỉ rõ, trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết
hài hòa mối quan hệ giai cấp – dân tộc để tập hợp lực lượng, không
được phép bỏ sót một lực lượng nào, miễn là lực lượng đó có lòng
trung thành và sẵn sàng phục vụ tổ quốc, không là Việt gian, không
phản bội lại quyền lợi của dân chúng là được. Với tinh thần đoàn
kết rộng rãi như vậy, Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam,
từ cách mạng giải phóng dân tộc tới cách mạng dân chủ nhân dân và
từ cách mạng dân chủ nhân dân tới cách mạng xã hội chủ nghĩa.
b. Điều kiện thực hiện đại đoàn kết dân tộc
- Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền
thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn
kết của dân tộc. Truyền thống này được hình thành, củng cố và
phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước trong hàng
nghìn năm của dân tộc, trở thành giá trị bền vững, thấm sâu vào tư
tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam, được lưu truyền
qua các thế hệ từ thời các vua Hùng dựng nước tới Bà Trưng, Bà
Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung…Truyền thống đó là cội nguồn
sức mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng mọi thiên
tai, địch họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc
được giữ vững.
- Phải có lòng khoan dung, độ
lượng với con người. Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong mỗi cá nhân cũng
như trong mỗi cộng đồng có những ưu điểm, khuyết điểm, mặt tốt, mặt
xấu…cho nên, vì lợi ích của cách mạng, cần phải có lòng khoan dung,
độ lượng, trân trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người mới
có thể tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. Người viết: “sông
to, biển rộng thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng của nó
rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước đầy
tràn, vì độ lượng của nó hẹp, nhỏ. Người mà tự kiêu, tự mãn, cũng
giống như cái chén, cái đĩa cạn”. Người đã lấy hình tượng năm ngón
tay có ngón ngắn ngón dài nhưng cả năm ngón đều thuộc về một bàn
tay để nói lên sự cần thiết phải thực hiện đại đoàn kết. Người cho
rằng: “Trong mấy triệu người, cũng có người thế này, thế khác, nhưng
thế này hay thế khác đều giòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải
khoan hồng, đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc, cháu Hồng thì
ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lầm
đường, lạc lối, ta phải dùng tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như
thế mới thành đoàn kết, có đại đoàn kết, thì tương lai chắc chắn
sẽ vẻ vang”.
Lòng khoan dung, độ lượng ở Hồ Chí Minh không phải là một sách
lược nhất thời, một thủ đoạn chính trị mà là sự tiếp nối và phát
triển truyền thống nhân ái, bao dung của dân tộc, từ chính mục tiêu
của cuộc cách mạng mà Người suốt đời đeo đuổi. Đó là một tư tưởng
nhất quán, được thể hiện trong đường lối, chính sách của Đảng đối
với những người làm việc dưới chế độ cũ và những người nhất thời
lầm lạc biết hối cải. Người tuyên bố: “Bất kỳ ai mà thật thà tán
thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó
trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết
với họ”. Người tha thiết kêu gọi tất cả những ai có lòng yêu nước,
không phân biệt tầng lớp, tín ngưỡng, chính kiến và trước đây đã
từng đứng về phe nào, hãy cùng đoàn kết vì nước, vì dân. Để thực
hiện được đoàn kết, cần xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần phải thật
thà hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển. Người cho rằng,
trong mỗi con người Việt Nam “ai cũng có ít hay nhiều tấm lòng yêu
nước” tiềm ẩn bên trong. Tấm lòng yêu nước đó có khi bị bụi bậm che
mờ, chỉ cần làm thức tỉnh lương tri con người thì lòng yêu nước đó
lại bộc lộ. Với niềm tin vào sự hướng thiện của con người và vì
lợi ích tối cao của dân tộc, Hồ Chí Minh đã chân thành lôi kéo, tập
hợp được chung quanh mình nhiều người trước đây vố là quan đại thần
của Nam triều cũ, như: Thượng thư Bùi Bằng Đoàn, Khâm sai đại thần
Phan Kế Toại…vào khối đại đoàn kết toàn dân, tạo điều kiện để họ
có đóng góp vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc.
- Để thực hành đoàn kết rộng rãi cần có niềm tin vào nhân dân. Với Hồ Chí Minh,
yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là
nguyên tắc tối cao. Nguyên tắc này vừa là sự nối tiếp truyền thống dân tộc “nước
lấy dân làm gốc”, “chở thuyền và làm lật thuyền cũng là dân”, đồng thời là sự
quán triệt sâu sắc nguyên lý Macxit “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”.
Theo Người, DÂN là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là nguồn sức mạnh vô tận và vô địch
của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi của cách mạng, là nền, gốc và chủ
thể của mặt trận. Trong bài nói chuyện tại
Hội nghị đại biểu mặt trận Liên Việt toàn quốc, tháng 1 – 1955, Người chỉ
rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa
số nhân dân ta là công nhân và nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Đó là nền, gốc của đại đoàn kết. Nó
cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải
đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác.
3. Hình thức tổ chức khối đại
đoàn kết dân tộc
a. Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết
dân tộc là mặt trận dân tộc thống nhất
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc
không thể chỉ dừng lại ở quan niệm, ở những lời kêu gọi, những lời hiệu triệu
mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, phải trở thành khẩu hiệu hành động
của toàn Đảng, toàn dân tộc. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, trở thành lực
lượng vật chất có tổ chức. Tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, có sức mạnh
vô địch trong đấu tranh bảo vệ và xây dựng tổ quốc khi được tập hợp, tổ chức lại
thành một khối vững chắc, được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung và hoạt động
theo một đường lối chính trị đúng đắn. Nếu không được như vậy thì quần chúng
nhân dân dù có đông tới hàng triệu, hàng trăm triệu con người cũng chỉ là một số
đông không có sức mạnh. Thất bại của các phong trào yêu nước và giải phóng dân
tộc ở Viêt Nam trước khi có Đảng ta ra đời đã chứng minh rất rõ điều này.
Về một phương diện nào đó, có thể khẳng định rằng,
quá trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh cũng là quá trình tìm kiếm mô hình
và cách thức tổ chức quần chúng nhân dân, nhằm tạo sức mạnh cho quần chúng
trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình và giải phóng xã hội. Chính vì vậy,
ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý đưa quần
chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai cấp, từng ngành
nghề, từng giới, từng lứa tuổi, từng tôn giáo phù hợp với từng giai đoạn cách mạng.
Đó có thể là các hội ái hữu hay tương trợ, công hội hay nông hội, đoàn thanh
niên hay hội phụ nữ, đội thiếu niên hay nhi đồng hay hội phụ lão, hội phật giáo
cứu quốc, công giáo yêu nước hay những nghiệp đoàn….Trong đó, bao trùm nhất là
mặt trận dân tộc thống nhất.
Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức
và cá nhân yêu nước, nơi tập hợp mọi con dân nước Việt, không chỉ ở trong nước
mà còn bao gồm cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù ở bất kỳ phương
trời nào nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương, đất nước, về tổ quốc Việt Nam, đều
được coi là thành viên của mặt trận.
Tùy theo từng thời kỳ, căn cứ vào yêu cầu và nhiệm vụ
cách mạng, cương lĩnh và điều lệ mặt trận có thể có những nét khác nhau, tên gọi
của mặt trận dân tộc thống nhất theo đó, cũng có thể khác nhau. Song thực chất
chỉ là một, đó là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của nhân dân Việt Nam,
nơi quy tụ, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, đan tộc, tôn giáo, đảng
phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục
tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất của tổ quốc, tự do và hạnh phúc của
nhân dân.
b. Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và
hoạt động của mặt trận dân tộc thống nhất
- Mặt trận dân
tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công – nông –
trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Mặt trận dân tộc thống nhất là thực thể của tư tưởng
đại đoàn kết dân tộc, nơi quy tụ mọi con dân nước Việt. Song, đó không phải là
một tập hợp lỏng lẻo, ngẫu nhiên, tự phát của quần chúng, mà là một khối đoàn kết
chặt chẽ, có tổ chức trên nền tảng khối liên minh công – nông – trí do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Đây là nguyên tắc cốt
lõi trong chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, nó hoàn toàn khác với tư tưởng
đoàn kết, tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam trong lịch sử. Trên
thực tế và theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không chỉ là tình cảm của “người
trong một nước phải thương nhau cùng” nữa, mà đã được xây dựng trên một cơ sở
lý luận vững chắc.
Hồ Chí Minh viết: “Lực lượng chủ yếu trong khối đại
đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt
trận dân tộc thống nhất”. Người chỉ rõ rằng, sở dĩ phải lấy liên minh công nông
làm nền tảng “vì họ là người trực tiếp sản xuất tất cả mọi tài phú làm cho xã hội
sống. Vì họ đông hơn hết mà cũng bị áp bức bóc lột nặng nề nhất. Vì chí khí
cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng lớp khác”. Người căn dặn,
trong khi nhấn mạnh vai trò nòng cốt của liên minh công – nông, cần chống lại
khuynh hướng chỉ coi trọng củng cố khối liên minh công – nông mà không thấy vai
trò và sự cần thiết phải mở rộng đoàn kết với các tầng lớp khác, nhất là với tầng
lớp trí thức. Làm cách mạng phải có tri thức và tầng lớp trí thức rất quan trọng
đói với cách mạng. Người nói: “Trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang; và công – nông – trí cần đoàn kết chặt chẽ
thành một khối”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mặt trận dân tộc thống nhất
và liên minh công – nông luôn được người xem xét trong mối quan hệ biện chứng
giữa dân tộc và giai cấp. Mặt trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi, sức mạnh của
khối liên minh công – nông – trí thức càng được tăng cường; ngược lại, liên
minh công nông trí càng được tăng cường, mặt trận dân tộc thống nhất càng vững
chắc, càng có sức mạnh mà không một kẻ nào có thể phá nổi.
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là công việc của toàn
dân tộc, song nó chỉ có thể được củng cố và phát triển vững chắc khi được Đảng
lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng đối với mặt trận vừa là vấn đề mang tính nguyên tắc, vừa là một tất yếu bảo đảm cho mặt trận tồn tại,
phát triển và có hiệu lực trong thực tiễn. Bởi vì, chỉ có chính đảng của giai cấp
công nhân được vũ trang bởi chủ nghĩa Mac – Lênin mới đánh giá đúng được vai
trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, mới vạch ra được đường lối chiến lược
và sách lược đúng đắn để lôi kéo, tập hợp quần chúng vào khối đại đoàn kết
trong mặt trận, biến tiến trình cách mạng trở thành ngày hội của quần chúng.
Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn xác định, mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận là mối
quan hệ máu thịt. Không có mặt trận, Đảng không có lực lượng, không thể thực hiện
được những nhiệm vụ cách mạng; không có sự lãnh đạo của Đảng, mặt trận không thể
hình thành, phát triển và không có phương hướng hoạt động đúng đắn. Do vậy, Đảng
Cộng sản Việt Nam vừa là một thành viên của mặt trận dân tộc thống nhất, vừa là
lực lượng lãnh đạo mặt trận.
Hồ Chí Minh còn cho rằng, sự lãnh đạo của Đảng đối với
mặt trận vừa là một tất yếu, vừa phải có điều kiện. Tính tất yếu thể hiện ở
năng lực nắm bắt thực tiễn, phát hiện ra các quy luật khách quan của sự vận động
lịch sử để vạch ra đường lối và phương pháp cách mạng phù hợp, lãnh đạo mặt trận
thực hiện thành công các nhiệm vụ cách mạng mà không một lực lượng nào, một tổ
chức chính trị nào trong mặt trận có thể làm được. Mục tiêu của Đảng là đấu
tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, kết hợp độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội. Ngoài lợi ích của giai cấp và lợi ích của dân tộc, Đảng không có
lợi ích nào khác. Mặc dù vậy, quyền lãnh đạo mặt trận của Đảng không phải Đảng
tự phong cho mình, mà phải được nhân dân thừa nhận.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, khi chưa giành được chính quyền, “Đảng không
thể đòi hỏi mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải
tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực
nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng thừa
nhận rộng rãi chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng,
thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.
Để lãnh đạo mặt trận, Đảng phải có chính sách mặt trận đúng
đắn, phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng, phù hợp
với quyền lợi và nguyện vọng của đại đa số nhân dân. Người viết: “chính
sách mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Công tác mặt trận
là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng”.
Trong quá trình lãnh đạo mặt trận, Đảng phải đi đúng đường lối quần
chúng, không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép các thành viên trong
mặt trận; phải dùng phương pháp vận
động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối
xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, tuyệt đối
không được lấy quyền uy của mình để buộc các thành viên khác trong
mặt trận phải tuân theo. Nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ về
công tác mặt trận, Hồ Chí Minh căn dặn: “Phải thành thật lắng nghe ý
kiến của người ngoài Đảng. Cán bộ và đảng viên không được tự cao,
tự đại, cho mình là tài giỏi hơn mọi người; trái lại phải học hỏi
điều hay, điều tốt của mọi người…phải tích cực và chủ động…làm
việc phải kiên nhẫn, phải thiết tha với công tác mặt trận.
Cán bộ và đảng viên có quyết tâm làm như thế thì công tác mặt
trận nhất định sẽ có tiến bộ nhiều”.
- Mặt trận dân tộc thống
nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc,
quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân
Thành lập mặt trận dân tộc thống nhất là để thực hiện đại
đoàn kết nhân dân, song khối đại đoàn kết đó chỉ có thể thực hiện
bền chặt và lâu dài khi có sự thống nhất cao độ về mục tiêu và lợi
ích. Ngay từ năm 1925, khi nói về chiến lược đại đoàn kết, Hồ Chí
Minh đã chỉ ra rằng, chỉ có thể thực hiện đoàn kết khi có chung một
mục đích, một số phận. Nếu không suy nghĩ như nhau, nếu không có chung
một mục đích, chung một số phận thì dù có kêu gọi đoàn kết thế
nào đi nữa, đoàn kết vẫn không thể có được.
Mục đích chung của mặt trận dân tộc thống nhất được Hồ Chí
Minh xác định cụ thể, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhằm
tập hợp tới mức cao nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết.
Như vậy, độc lập, tự do là
nguyên tắc bất di, bất dịch, là ngọn cờ đoàn kết và là mẫu số
chung để quy tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo
vào trong mặt trận. Vấn đề còn lại là ở chỗ, phải làm thế nào để
tất cả mọi người thuộc bất cứ giai tầng nào, lực lượng nào trong
mặt trận cũng phải đặt lợi ích tối cao đó lên trên hết. Bởi lẽ, lợi
ích tối cao của dân tộc được bảo đảm thì lợi ích cơ bản của mỗi
bộ phận, mỗi người mới được thực hiện.
Trên cơ sở xác định lợi ích tối cao của dân tộc, những quyền lợi cơ bản của các tầng lớp
nhân dân cũng được Hồ Chí Minh kết tinh vào tiêu chí của nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa là độc lập –
Tự do – Hạnh phúc. Các tiêu chí này được Đảng và chủ tịch Hồ
Chí Minh cụ thể hóa trong từng lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội…phù hợp với mọi tầng lớp, từng đối tượng trong mỗi thời kỳ
lịch sử.
- Mặt trận dân tộc thống
nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, bảo đảm đoàn
kết ngày càng rộng rãi và bền vững
Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị – xã hội
rộng lớn của cả dân tộc, bao gồm nhiều tầng lớp, đảng phái, dân
tộc, tôn giáo khác nhau. Do vậy, hoạt động của mặt trận đều phải
được đưa ra để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, để
đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức.
Đảng là lực lượng lãnh đạo mặt trận, nhưng cũng là một thành viên
của mặt trận. Do vậy, tất cả chủ trương, chính sách của mình, Đảng phải
có trách nhiệm trình bày trước mặt trận, cùng với các thành viên
khác của mặt trận bàn bạc, hiệp thương dân chủ để tìm kiếm các
giải pháp tích cực và thống nhất hành động, hướng phong trào quần
chúng thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã vạch ra.
Để thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ phải đứng vững trên
lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa
lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, lợi ích chung và lợi ích
riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt…Phải làm cho tất cả
các thành viên trong mặt trận thấm nhuần lợi ích chung, lợi ích tối
cao của dân tộc, phải đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết.
Những lợi ích riêng chính đáng phù hợp với lợi ích chung của đất
nước và dân tộc phải được tôn trọng. Ngược lại, những lợi ích bộ
phận không phù hợp sẽ dần dần được giải quyết cùng với tiến trình
chung của cách mạng, thông qua lợi ích chung, với sự nhận thức ngày
càng đúng đắn hơn của mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa
lợi ích chung và lợi ích riêng. Trong quá trình hoạt động, mặt trận
cần quan tâm xem xét, giải quyết thỏa đáng, thấu tình đạt lý mối
quan hệ lợi ích giữa các thành viên bằng việc thực hiện nghiêm túc
nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích trong mặt trận dân tộc
thống nhất sẽ góp phần củng cố sự bền chặt, tạo sự đồng thuận,
nhất trí cao và thực hiện được mục tiêu: “Đồng tình, đồng sức, đồng
lòng, đồng minh”. Đồng thời, đó cũng là cơ sở để mở rộng khối đại
đoàn kết, lôi kéo thêm các lực lượng khác vào mặt trận dân tộc thống
nhất.
- Mặt trận dân tộc thống
nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thật sự, chân
thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
Là một tập hợp nhiều giai tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng phái,
bên cạnh những điểm tương đồng, giữa các thành viên của Mặt trận vẫn
có những điểm khác nhau cần phải bàn bạc, hiệp thương dân chủ để thu
hẹp những nhân tố khác biệt, cục bộ, nhân lên những nhân tố tích
cực, nhân tố chung, đi đến thống nhất, đoàn kết. Để giải quyết vấn
đề này, một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn
dị” – lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; mặt khác,
Người nêu rõ: “đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng
cường đoàn kết”. Người thường xuyên căn dặn mọi người cần phải khắc
phục tình trạng đoàn kết xuôi chiều, đồng thời phải có tấm lòng nhân
ái, khoan dung, độ lượng, khắc phục thiên kiến, hẹp hòi, thiển cận,
phải nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình để biểu dương mặt tốt,
khắc phục mặt chưa tốt, nhằm củng cố và mở rộng khối đoàn kết
trong mặt trận dân tộc thống nhất. Người viết: “Đoàn kết thực sự
nghĩa là mục đích phải nhất trí
và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa
đoàn kết vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những
cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì
dân. Tóm lại, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì toàn dân cần đoàn
kết lâu dài, đoàn kết thực sự và cùng nhau tiến bộ”.
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình xây dựng, củng
cố và phát triển mặt trận dân tộc thống nhất, một mặt, Đảng ta luôn
đấu tranh chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ việc tranh thủ
tất cả mọi lực lượng có thể tranh thủ được vào mặt trận; mặt
khác, luôn đề phòng và đấu tranh chống mọi biểu hiện của khuynh
hướng đoàn kết một chiều, vô nguyên tắc, đoàn kết mà không có đấu
tranh đúng mức trong nội bộ mặt trận.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
1. Vai trò của đoàn kết quốc tế
a. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách
mạng Việt Nam
Thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngoài,
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của các trào lưu cách mạng
thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ
thù là một trong những nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh và
cũng là một trong những bài học kinh nghiệm quan trọng nhất, mang
tính thời sự sâu sắc nhất của cách mạng Việt Nam.
Sức mạnh của dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của các yếu tố
vật chất và tinh thần, song trước hết là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực, tự
cường dân tộc; sức mạnh của tinh thần đoàn kết; của ý chí đấu tranh
anh dũng, bất khuất cho độc lập, tự do…Sức mạnh đó đã giúp cho
dân tộc ta vượt qua mọi thủ thách, khó khăn trong dựng nước và giữ
nước.
Là một nhà yêu nước chân chính, Hồ Chí Minh luôn có niềm tin
bất diệt vào sức mạnh dân tộc. Ngay trong những năm tháng đen tối
nhất của cách mạng, Người vẫn bộc lộ một niềm lạc quan tin tưởng
rất mạnh mẽ và sâu sắc vào sức mạnh của dân tộc.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, nhờ chú ý tổng kết thực
tiễn dưới ánh sáng chủ nghĩa Mac – Lênin, Hồ Chí Minh đã từng bước
phát hiện ra sức mạnh vĩ đại tiềm ẩn trong các trào lưu cách mạng
thế giới mà Việt Nam cần tranh thủ. Các trào lưu đó nếu được liên
kết, tập hợp trong khối đoàn kết quốc tế sẽ tạo nên sức mạnh to
lớn. Sức mạnh đó luôn được bổ sung những nhân tố mới, phản ánh sự
vận động, phát triển không ngừng của lịch sử toàn thế giới và tiến
trình chính trị quốc tế sau thắng lợi của Cách Mạng Tháng Mười Nga
năm 1917.
Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác định
cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách
mạng Việt Nam chỉ có thể thành công và thành công đến nơi khi thực
hiện đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Cùng với
quá trình phát triển thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong quan hệ
với tình hình quốc tế, tư tưởng đoàn kết với phong trào cách mạng
thế giới đã được Hồ Chí Minh phát triển ngày cáng đầy đủ, rõ ràng
và cụ thể hơn.
Đánh giá vai trò của đoàn kết quốc tế với cách mạng Việt Nam,
trong buổi nói chuyện với đại sứ nước ta tại Liên Xô năm 1961, Hồ Chí
Minh nói: “Có sức mạnh cả nước một lòng…lại có sự ủng hộ của nhân
dân thế giới, chúng ta sẽ có một sức mạnh tổng hợp cộng với phương
pháp cách mạng thích hợp, nhất định cách mạng nước ta sẽ đi đến
đích cuối cùng”.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc phải
gắn liền với đoàn kết quốc tế; đại đoàn kết dân tộc phải là cơ sở
cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế. Đoàn kết dân tộc là để kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp
cho cách mạng chiến thắng kẻ thù. Nếu đại đoàn kết dân tộc là một
trông những nhân tố quyết định của cách mạng Việt Nam thì đoàn kết
quốc tế cũng là một nhân tố thường xuyên và hết sức quan trọng giúp
cho cách mạng việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
b. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng
nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của
thời đại
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải
được gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản, đại đoàn kết dân tộc
phải gắn liền với đoàn kế quốc tế; thực hiện đoàn kết quốc tế
không phải chỉ vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước, mà còn vì sự
nghiệp chung của nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế vì các mục tiêu
cách mạng của thời đại.
Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động chính trị là thời
đại đã chấm dứt thời kỳ tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra
các quan hệ quốc tế ngày càng sâu rộng, làm cho vận mệnh của mỗi
dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của cả loài người.
Ngay khi nắm được đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí Minh đã
hoạt động không mệt mỏi để phá thế đơn độc của cách mạng Việt Nam,
gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Trong suốt quá trình
đó, Người không chỉ phát huy triệt để sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước và tinh thần dân tộc trong đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân
tộc mình, mà còn kiên trì đấu tranh không mệt mỏi để củng cố và
tăng cường đoàn kết giữa các lực lượng cách mạng thế giới đấu tranh
cho mục tiêu chung: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội.
Người cho rằng, Đảng phải lấy toàn bộ thực tiễn của mình để
chứng minh: chủ nghĩa yêu nước triệt để không thể nào tách rời chủ
nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Trong Báo
cáo chính trị tại Đại hội II, người chỉ rõ: “tinh thần yêu nước
chân chính khác hẳn với tinh thần “vị quốc” củ bọn đế quốc phản
động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế”. Sau này, trong tác
phẩm Thường thức chính trị, Người
nói rõ hơn: “tinh thần yêu nước là kiên quyết giữ gìn nền độc lập,
tự do, và đất đai toàn vẹn của nước mình. Tinh thần quốc tế là
đoàn kết với các nước bạn và nhân dân các nước khác để giữ gìn hòa
bình thế giới, chống chính sách xâm lược và chính sách chiến tranh
của đế quốc…giữ gìn hòa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích
của nước ta….đó là lập trường quốc tế cách mạng”.
Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc
đấu tranh vì mục tiêu chung, các đảng Cộng sản phải kiên trì chống
lại mọi khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ
dân tộc…những khuynh hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết, thống nhất
của các lực lượng cách mạng thế giới. Nói cách khác, các đảng
cộng sản phải tiến hành có hiệu quả việc giáo dục chủ nghĩa yêu
nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản cho giai cấp công nhân
là nhân dân lao động.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong mấy thập niên qua là
thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh;: độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Nhờ kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng
giai cấp, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đã được bổ sung
thêm nguồn lực mới, trở thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhờ
giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã tranh thủ được sự
đồng tình, ủng hộ quốc tế, huy động được sức mạnh của các trào lưu
cách mạng thời đại, làm cho sức mạnh dân tộc được nhân lên gấp bội,
chiến thắng được những kẻ thù có sức mạnh to lớn hơn mình về nhiều
mặt.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc
tế, kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô
sản là nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi
các mục tiêu cách mạng của dân tộc và thời đại. Bởi lẽ, chúng ta
không chỉ chiến đấu vì độc lập, tự do của đất nước mình mà còn vì
độc lập, tự do của các nước khác, không chỉ bảo vệ những lợi ích
sống còn của dân tộc mình mà còn vì những mục tiêu cao cả của thời
đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Để
làm được như vậy, phải kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện
của chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chống lại chủ nghĩa Xôvanh và mọi thứ
chủ nghĩa cơ hội khác.
2. Lực lượng đoàn kết và hình thức tổ chức
a. Các lực lượng cần đoàn kết
Lực lượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong
phú, song tập trung chủ yếu vào phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào hòa bình,
dân chủ thế giới, trước hết là phong trào chống chiến tranh của các
nước đang xâm lược Việt Nam.
- Với phong trào cộng
sản và công nhân thế giới – lực lượng nòng cốt của đoàn kết quốc tế, Hồ
Chí Minh cho rằng, sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản quốc tế là một
bảo đảm vững chắc cho thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Do đánh
giá rất cao vai trò của khối đại đoàn kết của giai cấp vô sản thế
giới, tháng 12 – 1920, tại Đại hội Tua của Đảng Xã hội Pháp, Hồ Chí
Minh đã lên tiếng: “Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả
các đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi:
Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi”. Tiếp nhận học thuyết Lênin, Hồ
Chí Minh đã tìm thấy phương hướng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc, tìm thấy “cái cẩm nang thần kỳ” cho sự nghiệp cứu nước của
các dân tộc bị nô dịch. Đồng thời, Người cũng tìm thấy một lực
lượng ủng hộ mạnh mẽ công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa. Đó là phong trào cộng sản và công nhân thế giới, là
Liên Xô và sau này là các nước xã hội chủ nghĩa, là Quốc tế thứ ba
và sau này là Cục thông tin quốc tế. Từ đó , Người đã dành nhiều
thời gian và tâm lực, phấn đấu không mệt mỏi cho việc xây dựng và
củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế.
Chủ trương đoàn kết giai cấp vô sản các nước, đoàn kết giữa
các Đảng cộng sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tính tất
yếu về vai trò của giai cấp vô sản trong thời đại ngày nay, thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới.
Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa tư bản là một lực lượng phản
động quốc tế, là kẻ thù chung của nhân dân lao động toàn thế giới.
Trong hoàn cảnh đó, chỉ có sức mạnh của sự đoàn kết, nhất trí, sự
đồng tình và ủng hộ lẫn nhau của lao động toàn thế giới theo tinh
thần “bốn phương vô sản đều là anh em” mới có thể chống lại được
những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc thực dân. Thắng lợi của
hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc Việt nam không thể tách
rời sự đồng tình, ủng hộ, sự chi viện lớn lao của Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa khác, của các đảng cộng sản và công nhân thế
giới. Nó khẳng định trên thực tế những giá trị nhân văn cao cả của
chủ nghĩa quốc tế vô sản mà sinh thời Hồ Chí Minh đã kiên trì bảo
vệ và thực hiện. Cho dù lịch sử có đổi thay, song sự đồng tình,
ủng hộ, sự chi viện về vật chất của các nước xã hội chủ nghĩa,
của các lực lượng cộng sản va công nhân cho Việt nam theo tinh thần
quốc tế vô sản là không thể phủ nhận.
- Với phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra âm mưu chia
rẽ dân tộc của các nước đế quốc, tạo sự biệt lập, đối kháng và
thù ghét dân tộc, chủng tộc….nhằm làm suy yếu phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Chính vì vậy, Người đã
kiến nghị Ban Phương Đông quốc tế Cộng sản về những biện pháp nhằm
“làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước tới nay vẫn cách biệt nhau,
hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh
Phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái
cánh của cách mạng vô sản”. Thêm vào đó, để tăng cường đoàn kết
giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc như hai cái
cánh của cách mạng thời đại, Hồ Chí Minh còn đề nghị Quốc tế Cộng
sản bằng mọi cách phải “làm cho đội tiên phong của lao động thuộc
địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản Phương Tây để dọn đường
cho một sự hợp tác thật sự sau này; chỉ có sự hợp tác này mới
bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc tế giành thắng lợi cuối cùng”.
Người nói, đứng trước chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi của giai cấp vô
sản chính quốc và của nhân dân các nước thuộc địa là thống nhất.
- Với các lực lượng
tiến bộ, những người yêu chuộng hòa bình, dân chủ, tự do và công lý,
Hồ Chí
Minh cũng tìm mọi cách để thực hiện đoàn kết. Trong xu thế mới của
thời đại, sự thức tỉnh dân tộc gắn liền với thức tỉnh giai cấp, Hồ
Chí Minh đã gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu
bảo vệ hòa bình, tự do, công lý và bình đẳng để tập hợp và tranh
thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Sau khi Việt Nam giành được độc lập, thay mặt chính phủ, Hồ Chí
Minh đã nhiều lần tuyên bố: “chính sách ngoại giao của chính phủ thì
chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên
thế giới để giữ gìn hòa bình; “Thái độ của nước Việt Nam đối với
những nước Á Châu là một thái độ anh em, đối với Ngũ cường là một
thái độ bạn bè”. Bên cạnh ngoại giao nhà nước, Hồ Chí Minh đẩy mạnh
ngoại giao nhân dân, cho đại diện các tổ chức của nhân dân Việt Nam
tiếp xúc, hợp tác với các tổ chức chính trị, xã hội, văn hóa của
nhân dân thế giới, của nhân dân Á – Phi…, xây dựng các quan hệ hữu
nghị, đoàn kết với các lực lượng tiến bộ thế giới.
Gắn cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc với mục tiêu hòa
bình, tự do và công lý, Hồ Chí Minh đã khơi gợi lương tri của loài
người tiến bộ, tạo nên những tiếng nói ủng hộ mạnh mẽ từ các tổ
chức quần chúng, các nhân sĩ trí thức và từng con người trên hành
tinh. Thật hiếm có những cuộc đấu tranh giành được sự đồng tình,
ủng hộ rộng rãi và lớn lao như vậy. Đã nhiều lần, Hồ Chí Minh
khẳng định: Chính vì biết kết hợp phong trào cách mạng nước ta với
phong trào các mạng của giai cấp công nhân và của các dân tộc bị áp
bức mà Đảng ta đã vượt qua được mọi khó khăn, đưa giai cấp công nhân
và nhân dân ta đến những thắng lợi vẻ vang như ngày nay.
b. Hình thức tổ chức
Đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh, không phải là vấn
đề sách lược, một thủ đoạn chính trị nhất thời mà là vấn đề có
tính nguyên tắc, một đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam trong
thời đại mới. Ngay từ năm 1924, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về thành
lập “Mặt trận thống nhất của nhân
dân chính quốc và thuộc địa” chống chủ nghĩa đế quốc, đồng thời
kiến nghị Quốc tế Cộng sản cần có giải pháp cụ thể để đến Đại
hội VI (1928), quan điểm này trở thành hiện thực.
Dựa trên cơ sở quan hệ về địa lý – chính trị và tính chất
chính trị – xã hội trong khu vực và trên thế giới cũng như tình hình
và nhiệm vụ cách mạng trong mỗi thời kỳ, Hồ Chí Minh đã từng bước
xây dựng và củng cố khối đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình,
ủng hộ của các trào lưu cách mạng thời đại, góp phần thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
Đối với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, Hồ Chí Minh giành sự
quan tâm đặc biệt. Cả ba dân tộc đều là láng giềng gần gũi của nhau,
có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa và cùng chung một kẻ
thù là thực dân Pháp. Năm 1941, để khơi dậy sức mạnh và quyền tự
quyết của mỗi dân tộc, Người quyết định thành lập riêng biệt Mặt trận độc lập đồng minh cho
từng nước, tiến tới thành lập Đông
Dương độc lập đồng minh .Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc hình thành Mặt trận đoàn kết Việt – Miên – Lào phối
hợp và giúp đỡ lẫn nhau trong cùng chiến đấu, cùng thắng lợi.
Mở rộng ra các nước khác, Người chăm lo củng cố mối quan hệ
đoàn kết hữu nghị, hợp tác nhiều mặt theo tinh thần “vừa là đồng
chí, vừa là anh em” với Trung Quốc, nước láng giềng có quan hệ lịch sử -
văn hoá lâu đời với Việt Nam; thực hiện đoàn kết với các dân tộc Châu Á và Châu
Phi đang đấu tranh giành độc lập. Với các dân tộc Châu Á, Người chỉ rõ, các dân
tộc Châu Á có độc lập thì nền hoà bình thế giới mới thực hiện. Vận mệnh dân tộc
Châu Á quan hệ mật thiết với vận mệnh dân tộc Việt Nam. Do vậy, từ những năm 20
của thế kỷ XX, cùng với việc sáng lập Hội
liên hiệp thuộc địa tại Pháp, Hồ Chí Minh đã tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức tại
Trung Quốc. Đây là hình thức sơ khai của mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp
bức theo xu hướng vô sản, lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc. Với việc tham gia sáng lập các tổ chức này, Hồ Chí
Minh đã góp phần dặt cơ sở cho sự ra đời của Mặt trận nhân dân Á – Phi đoàn kết với Việt Nam.
Những năm đấu tranh giành độc lập, Hồ Chí Minh tìm mọi cách xây dựng các
quan hệ với Mặt trận dân chủ và lực lượng Đồng Minh chống Phát xít nhằm tạo thế
dựa cho cách mạng Việt Nam. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
bằng hoạt động ngoại giao không mệt mỏi, Hồ Chí Minh đã nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế, tranh thủ được sự đồng tình, unhr hộ của các nước xã hội
chủ nghĩa anh em, của bạn bè quốc tế và nhân loại tiến bộ, trong đó có cả nhân
dân Pháp trong kháng chiến chống thực dân Pháp và nhân dân Mỹ trong kháng chiến
chống đế quốc Mỹ, hình thành Mặt trận
nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đé quốc xâm lược.
Như vậy: tư tưởng đại đoàn kết vì thắng lợi cách mạng của Hồ Chí Minh đã
định hướng cho việc hình thành bốn tầng mặt
trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt – Miên – Lào; Mặt
trận nhân dân Á – Phi đoàn kết với Việt Nam; Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết
với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Đây thực sự là sự phát triển rực rỡ nhất
và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.
3. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế
a. Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý,
có tình
Cũng như xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, muốn thực hiện được đoàn kết
quốc tế trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động
quốc tế phải tìm ra được những điểm tương đồng về mục tiêu và lợi ích giữa các
dân tộc, các lực lượng tiến bộ và phong trào cách mạng thế giới. Đây là vấn đề
cốt tử, có tính nguyên tắc trong công tác tập hợp lực lượng. Từ rất sớm, Hồ Chí
Minh đã phát hiện ra sự tương đồng này nhờ đặt cách mạng Việt Nam trong bối cảnh
chung của thời đại, kết hợp lợi ích của Cách mạng Việt Nam với trào lưu cách mạng
thế giới và nhận thức về nghĩa vụ của Việt Nam đối với sự nghiệp chung của loài
người tiến bộ.
- Để đoàn kết với phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết thống
nhất trên nền tảng của chủ nghĩa Mac – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có
lý, có tình.
Là một chiến sĩ cách mạng quốc tế kiên định, Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu
tranh cho sự nghiệp củng cố khối đoàn kết, thống nhất giữa các lực lượng cách mạng
thế giới, trước hết là phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, lực lượng tiên
phong của cách mạng thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghiã xã hội.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, để thực hiện đoàn kết, thống nhất trong phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế thì đoàn kết giữa các Đảng “là điều kiện
quan trọng nhất để bảo đảm cho phong trào cộng sản và công nhân toàn thắng trong
cuộc đấu tranh vĩ đại cho tương lai tươi sáng của toàn thể loài người”. Người
cho rằng, thực hiện sự đoàn kết đó phải đứng vững trên lập trường giai cấp
công nhân, quán triệt sâu sắc những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
“Có lý” là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của
chủ nghĩa Mac – Lênin, phải xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới.
Tuy nhiên, việc trung thành với chủ nghĩa Mac – Lênin đòi hỏi phải vận dụng
sáng tạo, có hiệu quả vào hoạt động thực tế của mỗi nước, mỗi Đảng, tránh giáo
điều. “Có tình” là sự thông cảm, tôn trọng lẫn nhau trên tinh thần, tình cảm của
những người cùng chung lý tưởng, cùng chung mục tiêu đấu tranh; phải khắc phục
tư tưởng sôvanh, “nước lớn”, “đảng lớn”; không “áp đặt”, “ức chế”, nói xấu,
công khai công kích nhau, hoặc dùng các giải pháp về chính trị, kinh tế….gây sức
ép với nhau. “Có tình” đòi hỏi trong mọi vấn đề phải chờ đợi nhau cùng nhận thức,
cùng hành động vì lợi ích chung. Lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi đảng phải
được tôn trọng, song lợi ích đó không được phương hại đến lợi ích chung, lợi
ích của Đảng khác, của dân tộc khác.
“Có lý, có tình” vừa thể hiện tính nguyên tắc, vừa là
một nội dung của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh – chủ nghĩa nhân văn cộng sản.
Nó có tác dụng rất lớn không chỉ trong việc củng cố khối đại đoàn kết quốc tế của
giai cấp công nhân mà còn củng cố tình đoàn kết trong nhan dân lao động.
- Để đoàn kết với
các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các
dân tộc.
Độc lập, tự do cho mỗi dân tộc là tư tưởng nhất quán,
được Hồ Chí Minh coi là chân lý, là “lẽ phải không ai chối cãi được”. Hồ Chí
Minh không chỉ suốt đời đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc mình mà còn đấu
tranh cho độc lập, tự do của các dân tộc khác. Trong quan hệ giữa Việt Nam với
các nước láng giềng cũng như các quốc gia, dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh
thực hiện nhất quán quan điểm có tính nguyên tắc: Dân tộc Việt Nam tôn trọng độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết của tất cả các quốc gia,
dân tộc trên thế giới, đồng thời mong muốn các quốc gia dân tộc trên thế giới
quan hệ hợp tác, hữu nghị với Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc đó.
Những quan điểm trên được Người thể chế hoá sau khi
Việt Nam giành được độc lập. Tháng 9 – 1947, trả lời một nhà báo nước ngoài, Hồ
Chí Minh tuyên bố: Chính sách đối ngoại của nước Việt Nam là”làm bạn với tất cả
mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”.
Thời đại Hồ Chí Minh sống là thời đại bão táp của
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên hầu hết các châu lục. Trong tiến
trình đó Người không chỉ là nhà tổ chức, người cổ vũ mà còn là người ủng hộ nhiệt
thành cuộc đấu tranh của các dân tộc vì các quyền dân tộc cơ bản của họ. Nêu
cao tư tưởng độc lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc, Hồ Chí Minh trở
thành người khởi xướng, người cầm cờ và là hiện thân của những khát vọng của
các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình, đồng thời thúc đẩy
sự hiểu biết lẫn nhau, thực hiện đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới
với Việt Nam vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước.
- Để đoàn kết với
các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ hoà bình trong công lý.
Giương cao ngọn cờ hoà bình, chống chiến tranh xâm lược
là một trong những nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó
bắt nguồn từ truyền thống hoà hiếu của dân tộc Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa
nhân đạo cộng sản và những giá trị nhân văn nhân loại. Trong suốt cuộc đời
mình, Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ hoà bình, đấu tranh cho hoà bình, một
nền hoà bình thật sự cho tất cả các dân tộc – “hoà bình trong độc lập, tự do”.
Giương cao ngọn cờ hoà bình và đấu tranh bảo vệ hoà
bình là tư tưởng bất di bất dịch của Hồ Chí Minh. Nhưng đó không phải là một nền
hoà bình trừu tượng, mà là “một nền hoà bình chân chính xây trên công trình và
lý tưởng dân chủ”, chống chiến tranh xâm lược vì các quyền dân tộc cơ bản của mỗi
quốc gia. Trong suốt hai cuộc kháng chiến, quan điểm hoà bình trong công lý,
lòng thiết tha hoà bình trong sự tôn trọng độc lập và thống nhất đất nước của Hồ
Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã làm rung động trái tim nhân loại. Nó có tác dụng
cảm hoá, lôi kéo các lực lượng tiến bộ thế giới đứng về phía nhân dân Việt Nam
đòi chấm dứt chiến tranh, vãn hồi hoà bình. Trên thực tế, đã hình thành một mặt
trận nhân dân thế giới, có cả nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ đoàn kết với Việt
Nam chống đế quốc xâm lược, góp phần kết thúc thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Đánh giá vai trò và những cống hiến của Hồ Chí Minh
trong công tác tập hợp lục lượng cách mạng xây dựng khối đại đoàn kết, Rômét
Chandra, nguyên chủ tịch hội đồng hoà bình thế giới cho rằng: “Bất cứ nơi nào
chiến đấu cho độc lập, tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay
cao. Bất cứ ở đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói
nghèo, ở đó có ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”
b. Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực
tự cường
Đoàn kết quốc tế là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ,
giúp đỡ của các lực lượng quốc tế, nhằm tăng thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Để đoàn kết tốt phải có nội lực tốt. Nội
lực là nhân tố quyết định còn nguồn lực ngoại sinh chỉ có thể phát huy tác dụng
thông qua nguồn lực nội sinh. Chính vì vậy, trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí
Minh luôn nêu cao khẩu hiệu: “Tự lực cánh
sinh, dựa vào sức mình là chính”, “ muốn người ta giúp cho, thì trước mình
phải tự giúp lấy mình đã”. Trong đấu tranh giành chính quyền, Người chủ trương
“đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người
chỉ rõ: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi cờ dân tộc khác giúp đỡ
thì không xứng đáng được độc lập”. Trong quan hệ quốc tế, Người nhấn mạnh: phải
có thực lực, thực lực là cái chiêng, ngoại sinh là cái tiếng, chiêng có to tiếng
mới lớn…
Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc
tế, Đảng phải có đường lối độc lập, tự chủ và đúng đắn. Trả lời một phóng viên
nước ngoài, Người nói: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc
của chúng tôi, không có sự can thiệp ở bên ngoài vào”. Trong quan hệ giữa các Đảng
thuộc phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, Người xác định: “Các đảng dù lớn
dù nhỏ đều độc lập và bình đẳng, đồng thời đoàn kết giúp đỡ nhau”. Thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và kháng chiến chống thực dân Pháp của Việt Nam là
thắng lợi của đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, với đường lối độc lập, tự chủ, giương hai
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp hài hoà lợi ích dân tộc và
lợi ích quốc tế, Đảng ta đã tranh thủ được phong trào nhân dân thế giới đoàn kết
với Việt Nam, tạo ra được tiếng nói chung và sự ủng hộ có hiệu quả của các nước
xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là của Liên Xô, Trung Quốc, giữa lúc hai nước này
đang có những bất đồng sâu sắc cả về đường lối quốc tế lẫn đường lối chống Mỹ của
Việt Nam. Sự đoàn kết của Việt Nam với Liên Xô và Trung Quốc trong kháng chiến
chống đế quốc Mỹ đã góp phần quan trọng vào việc củng cố đoàn kết của các nước
xã hội chủ nghĩa, của phong trào cách mạng thế giới tạo chỗ dựa cho phong trào
nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ.
KẾT
LUẬN
Đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cách mạng được
Hồ Chí Minh để ra từ rất sớm, trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt tiến trình
cách mạng Việt Nam, là cội nguồn sức mạnh làm nên mọi thắng lợi của cách mạng
Việt nam, một đóng góp quan trọng vào lý luận cách mạng thế giới.
Trước Hồ Chí Minh, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mac –
Lênin chưa đề cập vấn đề đại đoàn kết dân tộc. Do đặc điểm của thời đại mình,
Mac và Ăngghen chỉ mới kêu gọi đoàn kết giai cấp vô sản toàn thế giới và thực
hiện liên minh công nông (sau công xã Paris 1871) trong đấu tranh lật đổ chế độ
tư bản chủ nghĩa. Tới Lênin, trong điều kiện tư bản chủ nghĩa đã chuyển sang chủ
nghĩa đế quốc, ách áp bức giai cấp và dân tộc đã diễn ra trên phạm vi toàn cầu,
tư tưởng liên minh công nông của Mac được Lênin và quốc tế cộng sản mở rộng ra
trên quy mô toàn thế giới với khẩu hiệu nổi tiếng: “vô sản tất cả các nước và
các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”. Song, do chưa đánh giá đầy đủ về cách mạng
dân tộc, tư tưởng về đoàn kết dân tộc trong mặt trận dân tộc thống nhất vẫn
chưa được Lênin và Quốc tế cộng sản đặt ra.
Hồ Chí Minh sinh ra trong một dân tộc có truyền thống
đấu tranh kiên cường vì độc lập, tự chủ nên đã nhìn thấy sức mạnh của chủ nghĩa
dân tộc, nguồn động lực to lớn của nhân dân Việt Nam trong dựng nước và giữ nước.
Sau khi tìm thấy con đường cứu nước và trước những đòi hỏi khách quan của cách
mạng, Hồ Chí Minh đã sớm đưa ra quan điểm về Mặt trận dân tộc thống nhất – biểu hiện cụ thể của khối đại đoàn kết
dân tộc với một hệ thống những quan điểm khá hoàn chỉnh về công tác mặt trận,
Được Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp thu và đưa vào thực tiễn ở Việt Nam, Kết hợp
đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế, tạo thành sức mạnh tổng hợp, làm nên mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của
Hồ Chí Minh là một đóng góp quan trọng vào kho tàng kinh nghiệm cách mạng thế
giới, làm phong phú lý luận chủ nghĩa Mac – Lênin về công tác vận động và tổ chức
quần chúng của Đảng Cộng sản.
Thực tiễn cách mạng Việt nam đã và đang chứng minh sức
sống kỳ diệu của tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Trung thành và kiên định đi
theo ngọn cờ đại doàn kết Hồ Chí Minh, nghiên cứu để kế thừa, vận dụng và phát
triển sáng tạo tư tưởng đại đoàn kết của Người là một trong những nhân tố quan
trọng giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành nhiệm vụ, góp
phần xây dựng thành công một nước Việt Nam độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong công cuộc đổi mới hiện
nay, đại đoàn kết phải được củng cố và phát triển nhằm rửa cái nhục đói nghèo,
lạc hậu, cái nhục tụt hậu xa hơn về kinh tế, khoa học và công nghệ so với các
nước trong khu vực và quốc tế, làm cho Việt Nam có thể tự tin sánh vai với các
cường quốc năm châu; khơi dậy tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc; quyết tâm chấn
hưng đất nước, không bỏ lỡ thời cơ, vận hội, phát huy tinh thần tự lực, tự cường,
đẩy lùi mọi nguy cơ, vượt qua mọi thách thức; phát huy được tính năng động của
mỗi người, của cả cộng đồng, khắc phục những tác động của nền kinh tế thị trường
để không làm phương hại nền văn hoá truyền thống dân tộc.
Trong điều kiện hiện nay, đại đoàn kết theo tư tưởng
Hồ chí Minh đòi hỏi phải xây dựng được một Đảng cầm quyền thật sự trong sạch, vững
mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân; một
chế độ thật sự do nhân dân là chủ và làm chủ; một nhà nước thật sự của nhân
dân, vì nhân dân; một hệ thống chính trị có hiệu quả và hiệu lực thực tế.
Trong khuôn khổ luật pháp, tiếp tục đổi mới chính
sách giai cấp, chính sách xã hội, hoàn thiện chính sách dân tộc, chính sách tôn
giáo, chính sách đối với trí thức, chính sách đối với cộng đồng người Việt ở nước
ngoài, tập hợp đến mức rộng rãi nhất mọi nhân tài, vật lực vào sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo
vệ tài nguyên, môi trường.
Đảng và nhà nước ta phải chủ động xác định rõ các bước
hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, thực hiện chính sách mở cửa,
giao lưu, hợp tác, đa phương hoá, đa dạng hoá, củng cố khối đoàn kết với mọi lực
lượng tiến bộ trên thế giới vì mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
phát triển.
Đại đoàn kết dân tộc là yếu tố nội sinh có ý nghĩa
quyết định. Đại đoàn kết dân tộc nhằm tạo lực và thế để vươn ra bên ngoài; ngược
lại, mở cửa, hội nhập quốc tế nhằm làm cho lực và thế trong nước này càng tăng
lên. Thực hiện đại đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại sẽ là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh vô địch của
cách mạng Việt nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
CHƯƠNG VI
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
I. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
THỂ HIỆN QUYỀN LÀ CHỦ VÀ LÀM
CHỦ CỦA NHÂN DÂN
Hồ Chí Minh có quan điểm nhất quán về xây dựng một nhà nước mới ở Việt
Nam là một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Đây là quan điểm cơ bản nhất
của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Người sáng lập.
Quan điểm đó xuyên suốt, có tính chi phối trong toàn bộ quá trình hình thành và
phát triển của nhà nước cách mạng ở Việt Nam.
Dân chủ trong xã hội Việt Nam được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội…Trong đó, dân chủ thể hiện trên lĩnh vực
chính trị là quan trọng nhất, nổi bật nhất và được biểu hiện tập trung trong hoạt
động của nhà nước, bởi vì quyền lực của nhân dân được thể hiện trong hoạt động
của Nhà nước với tư cách nhân dân có quyền lực tối cao. Hồ Chí Minh khẳng định
cả trên quan điểm lẫn trên thực tế việc khi có nhà nước mới – Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà – nhân dân cử ra, tổ chức nên bộ máy nhà nước cũng như toàn bộ
hệ thống chính trị.
Trong tác phẩm Thường thức chính trị
viết năm 1953, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ở nước ta, chính quyền là của nhân dân,
do nhân dân làm chủ…nhân dân là ông
chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền
ấy. Thế là dân chủ”.
Quan niệm dân chủ, theo Hồ Chí Minh, còn biểu hiện ở phương thức tổ chức
xã hội. Khẳng định một chế độ dân chủ ở nước ta là “bao nhiêu lợi ích đều vì
dân”, “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, đồng thời Hồ Chí Minh cũng chỉ
ra phương thức tổ chức, hoạt động của xã hội nước ta muốn khẳng định là một nước
dân chủ thì phải có cấu tạo quyền lực xã hội mà ở đó người dân, cả trực tiếp, cả
gián tiếp qua dân chủ đại diện, một hệ thống chính trị do “dân cử ra” và “do
dân tổ chức nên”.
Khi xác định quyền hành và lực lượng của xã hội, Hồ Chí Minh còn vạch rõ
nguồn gốc, lực lượng tạo ra quyền hành đó là nhân dân. Đó là quan điểm gốc để
Người coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân; công cuộc đổi mới,
xây dựng Đảng, kháng chiến kiến quốc là trách nhiệm và công việc của dân. Hồ
Chí Minh không chỉ coi dân chủ có ý nghĩa một giá trị chung, là sản phẩm của
văn minh nhân loại, xem nó như lý tưởng phấn đấu của các dân tộc và nó không dừng
lại với tư cách như là một thiết chế xã hội của một quốc gia mà còn có cả ý
nghĩa biểu thị mối quan hệ quốc tế, hoà bình giữa các dân tộc. Đó là dân chủ,
bình đẳng trong các quan hệ quốc tế, là nguyên tắc ứng xử trong các quan hệ quốc
tế của Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.
Quan điểm xây dựng nhà nước của Hồ Chí Minh không những kế thừa mà còn
phát triển học thuyết Mac – Lênin về nhà nước cách mạng.
Hiểu một cách tổng quát nhất về quan điểm nhà nước của dân, do dân, vì
dân, chúng ta thấy trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh những nội dung sau đây:
1. Nhà nước của dân
Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân
dân. Quan điểm này của Hồ Chí Minh được thể hiện trong các bản hiến pháp do
Người lãnh đạo soạn thảo: Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Chẳng hạn,
Hiến pháp năm 1946 nêu rõ: tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể
nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp,
tôn giáo; những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn dân phúc quyết.
Nhân dân có quyền làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội, bầu ra quốc
hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thể hiện quyền tối cao của nhân dân.
Nhân dân lao động làm chủ nhà nước thì dẫn đến một hệ quả là nhân dân có quyền kiểm soát nhà nước, cử
tri bầu ra các đại biểu, uỷ quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những vấn
đề quốc kế dân sinh. Đây thuộc về chế độ dân chủ đại diện bên cạnh chế độ dân
chủ trực tiếp. Quyền dân chủ và đồng thời cũng là quyền kiểm soát của nhân dân
thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân nào nếu thấy những đại biểu đó không xứng đáng với sự tín nhiệm của
dân.
Theo Hồ Chí Minh, muốn bảo đảm được tính chất nhân dân của nhà nước phải
xác định được và thực hiện được trách nhiệm của cử tri và đại biểu do cử tri bầu
ra. Cử tri và đại biểu cử tri bầu ra phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau do bản
chất của quy chế này quy định, và, khi không hoàn thành nhiệm vụ với tư cách là
người đại biểu của cử tri thì cử tri có quyền bãi miễn tư cách đại biểu.
Dân chủ là khát vọng muôn đời của con người. Hồ Chí Minh quan niệm dân chủ
có nghĩa là “dân là chủ” đối lập với quan niệm “quan chủ”. Đây là quan niệm được
Hồ Chí Minh diễn đạt ngắn , gọn, đi thẳng vào bản chất của khái niệm trong cấu
tạo quyền lực của xã hội. Mở rộng theo ý đó, Hồ Chí Minh còn cho rằng: “nước ta
là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ”, “chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ”, “Nước
ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.
Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân, còn dân làm chủ có nghĩa
là xác định quyền, nghĩa vụ của dân. Trong Nhà nước của dân, với ý nghĩa đó,
người dân được hưởng mọi quyền dân chủ. Bằng thiết chế dân chủ, nhà nước phải
có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho nhân dân thực hiện quyền
làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của nhân dân được
đặt ở vị trí tối thượng. Điều này có ý nghĩa thực tế, nhắc nhở những người lãnh
đạo, những đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách và vị thế của mình, không
phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, “cậy thế” với dân, “quên rằng
dân bầu mình ra là để làm việc cho dân”. Một nhà nước như thế là một nhà nước
tiến bộ trong bước đường phát triển của nhân loại. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà do Hồ Chí Minh khai sinh ngày 2 – 9
– 1945 chính là nhà nước tiến bộ chưa từng có trong lịch sử hàng nghìn năm của
dân tộc Việt Nam bởi vì nhà nước đó là nhà nước của dân, nhân dân có vai trò
quyết định mọi công việc của đất nước.
2. Nhà nước do dân
Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Chính vì vậy, Hồ Chí
Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân hiểu,
cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức
trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà nước của mình. Hồ Chí Minh khẳng định: Việc nước
là việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm “ ghé vai gánh vác một phần”.
Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Việt Nam mới, nhân dân có
đủ điều kiện, cả về pháp luật và thực tế, để tham gia quản lý nhà nước. Người
nêu rõ quyền của dân, Nhà nước do dân tạo ra và nhân dân tham gia quản lý là ở
chỗ:
- Toàn bộ công dân bầu ra quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà
nước, cơ quan duy nhất có quyền lập pháp.
- Quốc hội bầu ra chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ quốc hội và Hội đồng
chính phủ.
- Hội đồng chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước, thực hiện
các nghị quyết của quốc hội và chấp hành pháp luật.
- Mọi công việc của bộ máy Nhà nước trong việc quản lý xã hội đều thực hiện
ý chí của dân (thông qua Quốc hội do dân bầu ra).
3. Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân là một Nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục
tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ một lợi ích
nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kỳ một đặc quyền, đặc lợi
nào. Trên tinh thần đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Mọi đường lối, chính sách đều chỉ
nhằm đưa lại quyền lợi cho dân; việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm,
việc gì hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Dân là gốc của nước. Hồ Chí Minh
luôn tâm niệm: Phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho
dân có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành.
Một nhà nước vì dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là từ chủ tịch nước
đến công chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đầy tớ cho dân chứ không
phải “làm quan cách mạng” để “đè đầu cưỡi cổ dân”. Đối với chức vụ chủ tịch nước
của mình, Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do dân uỷ thác cho và như vậy phải phục
vụ nhân dân, tức là làm đầy tớ cho nhân dân.
II. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ
MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT
GIỮA BẢN CHẤT GIAI CẤP CÔNG
NHÂN VỚI TÍNH NHÂN DÂN
VÀ TÍNH DÂN TỘC CỦA NHÀ NƯỚC
1. Về bản chất giai cấp công nhân của nhà nước
Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại khi giai cấp
và đấu tranh giai cấp xuất hiện. Do đó, nhà nước là sản phẩm tất yếu của một xã
hội có giai cấp, nó bao giờ cũng mang bản chất một giai cấp, không có một nhà
nước nào là phi giai cấp, không có nhà nước đứng trên giai cấp. Như vậy, không
phải lịch sử nhân loại xuất hiện là có nhà nước ngay và nhà nước không phải tồn
tại mãi mãi. Trong hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thuỷ chưa xuất hiện
nhà nước vì chưa có giai cấp. Trong hình thái kinh tế - xã hội cộng sản văn
minh thì giai cấp dần dần không còn, đồng thời với quá trình đó là nhà nước của
giai cấp cũng tự tiêu vong.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được coi
là nhà nước của dân, do dân, vì dân nhưng tuyệt nhiên nó không phải là “nhà nước
toàn dân”, hiểu theo nghĩa nhà nước phi giai cấp. Nhà nước bao giờ và ở đâu
cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định. Nhà nước Việt Nam mới, theo quan
điểm của Hồ Chí Minh, là một nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân. Vì:
- Nhà nước do Đảng Cộng sản
lãnh đạo. Điều
này được thể hiện
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước giữ vững và tăng cường bản chất
giai cấp công nhân. Việc xác định bản chất giai cấp công nhân của nhà nước là một
vấn đề rất cơ bản của Hiến pháp. Lời nói
đầu của bản Hiến pháp năm 1959 khẳng định: “Nhà nước của ta là nhà nước dân
chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh
đạo”. Trong quan điểm cơ bản xây dựng một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ,
một nhà nước thể hiện tính chất nhân dân rộng rãi, Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh
nòng cốt của nhân dân là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và trí thức, do giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo.
Đảng lãnh đạo nhà nước bằng phương thức thích hợp. Nói đến phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là nói đến cách lãnh đạo cho phù hợp với từng
thời kỳ. Trong thời kỳ Hồ Chí Minh làm chủ tịch nước, đất nước ta phải vừa tiến
hành kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giải phóng và bảo vệ tổ quốc, vừa lãnh đạo
nhân dân xây dựng chế độ mới. Do Dó, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nước
ta trong thời kỳ đó không giống với những thời kỳ sau này. Song trong tư tưởng
Hồ Chí Minh vẫn có những vấn đề cơ bản về phương thức lãnh đạo của Đảng nói
chung cho các thời kỳ, đó là:
+ Đảng lãnh đạo bằng đường lối quan điểm, chủ trương để nhà nước thể chế
hoá thành pháp luật, chính sách, kế hoạch.
+ Đảng lãnh đạo nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên
của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước.
+ Đảng lãnh đạo nhà nước bằng công tác kiểm tra.
- Bản chất giai cấp của nhà
nước ta thể hiện ở tính định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển đất nước.
Điều này đã
được thể hiện trong quan điểm của Hồ Chí Minh ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà mới ra đời.
- Bản chất giai cấp công
nhân của nhà nước ta thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó
là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh rất chú ý đến tính dân chủ trong tổ chức
và hoạt động của tất cả bộ máy, cơ quan nhà nước, nhấn mạnh đến việc phát huy
cao độ dân chủ, đồng thời phát huy cao độ tập trung. Nhà nước phải tập trung thống
nhất quyền lực để tất cả mọi quyền lực vào tay nhân dân.
2. Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân
dân, tính dân tộc của nhà nước
Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công mối quan hệ giữa các vấn đề
giai cấp – dân tộc trong xây dựng nhà nước Việt Nam mới. Người đã giải quyết
hài hoà, thống nhất giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân, tính dân tộc và
được biểu hiện rõ trong những quan điểm sau:
- Nhà nước ta ra đời là kết
quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX, dân tộc Việt Nam rơi vào khủng hoảng đường lối cách mạng. Trong cuộc đấu
tranh trường kỳ chống thực dân Pháp của dân tộc ta, tiêu biểu là những cuộc khởi
nghĩa dưới sự lãnh đạo của các nhà lãnh đạo tiền bối rất oanh liệt, tô thắm cho
truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc, nhưng độc lập, tự do cho dân
tộc vẫn chưa trở thành hiện thực. Từ đầu năm 1930, Đảng ta ra đời, sự lớn mạnh
của giai cấp công nhân với đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam đã
vượt qua được tất cả các hạn chế và đã lãnh đạo thắng lợi Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, đấu tranh giành chính quyền, lập nên nhà nước dân chủ nhân dân đầu
tiên ở Đông nam Á
- Tính thống nhất còn biểu
hiện ở chỗ nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm
cơ bản. Bản
chất của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định lợi ích cơ bản của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động và của toàn dân tộc là một. Nhà nước ta không
những thể hiện ý chí của giai cấp công nhân mà còn thể hiện ý chí của nhân dân
và của toàn dân tộc.
- Trong thực tế, Nhà nước ta
đã đứng ra làm nhiệm vụ của cả dân tộc giao phó, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành
các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của tổ quốc, xây dựng một nước
Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực
vào sự phát triển, tiến bộ của thế giới. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đi đến chủ
nghĩa cộng sản là con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định, cũng là sự
nghiệp của chính Nhà nước ta.
III. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CÓ HIỆU
LỰC PHÁP LÝ MẠNH MẼ
Hồ Chí Minh đã sớm thấy được tầm quan trọng của hiến pháp và pháp luật
trong quản lý xã hội. điều này thể hiện trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam do Người ký tên là Nguyễn Ái Quốc gửi
đến hội nghị Versaille năm 1919. Bản yêu sách đó đưa ra yêu cầu: “ cải cách nền
pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được hưởng những bảo đảm về
mặt pháp luật như người Châu Âu; xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt dùng làm
công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam;
“thay thế chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”. Trong Việt Nam yêu cầu ca, một bài thơ diễn ca
ra văn vần tiếng Việt bản yêu sách đó có những câu:
“Hai xin
phép luật sửa sang,
Người Tây,
người Việt hai phương cùng đồng,
….
Bảy xin hiến pháp ban hành,
Trăm đều phải có thần linh
pháp quyền”
Sau này, khi trở thành người đứng đầu nhà nước Việt Nam mới, Hồ Chí Minh
càng quan tâm sâu sắc hơn việc xây dựng và điều hành nhà nước một cách có hiệu
quả bằng pháp quyền. Một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ được Hồ Chí Minh
chú ý xây dựng thể hiện trên những điểm sau đây:
1. Xây dựng một nhà nước hợp pháp, hợp hiến
Chỉ một ngày sau khi đọc bản
Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp đầu
tiên của chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đã đề nghị tổ chức tổng tuyển cử càng
sớm càng tốt để lập quốc hội rồi từ đó lập ra chính phủ và các cơ quan, bộ máy
chính thức khác của nhà nước mới. Có được một nhà nước hợp hiến, thể hiện quyền
lực tối cao của nhân dân như vậy thì nước ta mới có cơ sở pháp lý vững chắc để
làm việc với quân Đồng Minh, mới có một quan hệ quốc tế bình đẳng, mới thiết lập
được một cơ chế quyền lực hợp pháp theo đúng thông lệ một nhà nước pháp quyền
hiện đại.
Cuộc tổng tuyển cử được tiến hành thắng lợi ngày 6 – 1 – 1946 với chế độ
phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Và, lần đầu tiên trong lịch sử
hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam cũng như lần đầu tiên ở Đông Nam Á, tất cả
mọi người dân từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt nam, nữ, giàu nghèo, dân tộc,
đảng phái, tôn giáo…đều đi bỏ phiếu bầu những đại biểu của mình tham gia Quốc Hội.
Ngày 2 – 3 – 1946, Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã họp phiên
đầu tiên, lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước. Hồ
Chí Minh được bầu làm chủ tịch chính phủ liên hiệp đầu tiên. Đây chính là chính
phủ có đầy đủ tư cách pháp lý để giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề đối
nội và đối ngoại ơ nước ta.
2. Hoạt động quản lý nhà nước bằng hiến pháp, pháp luật
và chú trọng đưa pháp luật vào cuộc sống
Quản lý nhà nước là quản lý bằng bộ máy và bằng nhiều biện pháp khác
nhưng quan trọng nhất là quản lý bằng hệ thống luật, trong đó quan trọng bậc nhất
là Hiến pháp – Đạo luật cơ bản của nước nhà. Các bản hiến pháp năm 1946 và 1959
đã để lại những dấu ấn đậm nét những quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất, thiết
chế và hoạt động của nhà nước mới.
Song, có hiến pháp và pháp luật rồi nhưng không đưa được vào trong cuộc sống
thì xã hội cũng sẽ bị rối loạn. Dân chủ đích thực bao giờ cũng di liền với kỷ
cương, phép nước, tức là đi liền với thực thi hiến pháp và pháp luật. Suốt cả
thời kỳ giữ trọng trách chủ tịch nước, Hồ Chí Minh luôn luôn chăm lo xây dựng một
nền pháp chế xã hội chủ nghĩa để bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân.
Các cơ quan của nhà nước phải gương mẫu chấp hành một cách nghiêm chỉnh hiến
pháp và pháp luật. Chính bản thân Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về sống và
làm việc theo hiến pháp và pháp luật. Người tự giác khép mình vào kỷ luật, vào
việc gương mẫu chấp hành hiến pháp và pháp luật. Sống và làm việc theo hiến
pháp và pháp luật đã trở thành nền nếp, thành thói quen, thành lối ứng xử tự
nhiên của Hồ Chí Minh.
“ Thần linh pháp quyền” là sức mạnh do con người và vì con người. Do vậy,
Hồ Chí Minh bao giờ cũng đòi hỏi mọi người phải hiểu và tuyệt đối chấp hành
pháp luật, bất kể người đó giữ cương vị nào. Người cho rằng, công tác giáo dục
pháp luật cho mọi người, đặc biệt cho thế hệ trẻ, trở nên cực kỳ quan trọng
trong việc xây dựng một nhà nước pháp quyền, bảo đảm mọi quyền và nghĩa vụ công
dân được thực thi trong cuộc sống. Việc thực thi pháp luật có quan hệ rất lớn đến
trình độ dân trí của nhân dân, vì vậy, Hồ Chí Minh chú trọng đến vấn đề nâng
cao dân trí, phát huy tính tích cực chính trị trong việc tham gia công việc của
chính quyền các cấp. Làm tốt nghĩa vụ công dân cũng tức là thực hiện nghĩa vụ của
mình đối với nhà nước, biết thực hành dân chủ.
Trong việc thực thi hiến pháp và pháp luật, Hồ Chí Minh bao giờ cũng chú
ý bảo đảm tính nghiêm minh và hiệu lực của chúng. Điều đó đòi hỏi pháp luật phải
đúng và đủ; tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho mọi người dân; người
thực thi luật pháp trở thành cán cân công lý đối với tất cả mọi người, không có
một trường hợp ngoại lệ nào; bất kỳ ai vi phạm pháp luật cũng đều bị trừng trị
nghiêm khắc, đúng người, đúng tội.
IV. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC TRONG
SẠCH, HOẠT ĐỘNG CÓ HIỆU QUẢ
1. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ đức và tài
Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức.
Người coi cán bộ nói chung “là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
Để xây dựng một nhà nước pháp quyền vững mạnh, vấn đề xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Nói một cách tổng quát nhất
về yêu cầu đối với đội ngũ này, theo Hồ Chí Minh, đó là những người vừa có đức, vừa có tài, trong đó đức là gốc;
đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý, có hiệu quả.
Đi vào những mặt cụ thể, Hồ Chí Minh nêu lên những yêu cầu sau đây về xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức:
- Tuyệt đối trung thành với
cách mạng.
Đây là yêu cầu đầu tiên cần có đối với đội ngũ cán bộ, công chức. Cán bộ,
công chức phải là những người kiên cường bảo về chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
nhà nước. Hồ Chí Minh nhấn mạnh lòng trung thành đó không phải là những điều trừu
tượng, chung chung, mà phải được thể hiện hàng ngày, hàng giờ trong mọi lĩnh vực
công tác, thể hiện trong kết quả thực tế. Lòng trung thành đó thể hiện hàng
ngày, hàng giờ nhưng phải được thể hiện đặc biệt rõ trong những lúc đất nước gặp
khó khăn, thử thách, chuyển giai đoạn.
- Hăng hái, thành thạo công
việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ
Chỉ với lòng nhiệt tình thì chưa đủ và cùng lắm chỉ phá được cái xấu, cái
cũ mà không xây được cái tốt, cái mới. Yêu cầu tối thiểu là đội ngũ cán bộ,
công chức phải hiểu biết công việc của mình, biết quản lý nhà nước, do vậy, phải
được đào tạo và tự mình phải luôn luôn học hỏi. Đó là tính chuyên nghiệp của đội
ngũ công chức. Công chức phải chuyên sâu nghiệp vụ, phải luôn luôn học tập
không ngưng nghỉ, học mọi lúc, mọi nơi, học suốt đời. Hồ Chí Minh chính là con
người điển hình của tự học. Người tự học những kiến thức về nhà nước trong cả
cuộc đời mình.
- Phải có mối liên hệ mật
thiết với nhân dân
Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương xây dựng mối quan hệ bền chặt giữa đội
ngũ cán bộ, công chức với nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức là những người hưởng
lương từ nguồn ngân sách nhà nước do dân đóng góp. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh nhắc
nhở mọi cán bộ công chức không được lãng phí của công; phải sẵn sàng phục vụ
nhân dân, luôn luôn nêu cao đạo đức cách mạng, sẵn sàng hy sinh quyền lợi cá
nhân mình cho tổ quốc, lấy phục vụ quyền lợi chính đáng của nhân dân làm mục
tiêu cho hoạt động của mình. Đặc biệt, phải chống bệnh tham ô, quan liêu, lãng
phí,…. Phải luôn gần dân, hiểu dân và vì dân. Cán bộ, công chức xa dân, quan
liêu, hách dịch, cửa quyền…đối với nhân dân đều dẫn đến nguy cơ làm suy yếu nhà
nước, thậm chí làm biến chất nhà nước vì đã vi phạm một điều có tính chất quyết
tử của cấu tạo quyền lực nhà nước là tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.
- Cán bộ, công chức phải là
người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những
tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không nản”
Đó là những người có ý thức sẵn sàng làm “công bộc”, “ đầy tớ” cho dân,
những người cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm việc với tinh thần đầy
sáng tạo. Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ, công chức phải luôn luôn tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức cách mạng, luôn có “chí tiến thủ”, luôn học tập để nâng cao trình
độ về mọi mặt, học ở trường, học trong cuộc sống, trong công tác, học ở thầy, ở
bạn…
- Phải thường xuyên tự phê
bình và phê bình, luôn luôn có ý thức và hành động vì sự lớn mạnh, trong sạch của
nhà nước
Với chức trách là những người phục vụ nhân dân, thì cán bộ, công chức phải
tận tuỵ, tận trung với nước, tận hiếu với dân. Muốn vậy, theo Hồ Chí Minh cán bộ,
công chức phải thường xuyên tự phê bình và phê bình để giữ vững phẩm chất đạo đức
cách mạng và năng lực công tác, đồng thời, cán bộ, công chức phải chăm lo xây dựng
bộ máy nhà nước để nhà nước đúng là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Bộ máy nhà nước, theo quan điểm Hồ Chí Minh, cần gọn, nhẹ, có hiệu lực,
phù hợp với từng giai đoạn để phục vụ đắc lực cho mục tiêu hoạt động của nhà nước,
tất cả vì sự phát triển của đất nước, vì lợi ích của tổ quốc, của nhân dân
không vì lợi ích của cá nhân nào. Chức vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức
trong bộ máy nhà nước là do dân uỷ thác, uỷ quyền để làm việc cho ích quốc lợi
dân, không vì chủ nghĩa cá nhân.
2. Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động
của nhà nước
Xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân không bao giờ tách rời với
việc làm cho nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh. Điều này luôn luôn thường trực
trong tâm trí và hành động của Hồ Chí Minh. Khi nước nhà giành được độc lập,
chính quyền cách mạng còn non trẻ cũng như lúc cách mạng chuyển giai đoạn, Hồ
Chí Minh càng chú ý hơn bao giờ hết đến việc bảo đảm sự trong sạch, vững mạnh của
các cấp chính quyền, bởi vì thường những lúc đó cách mạng đứng trước những thử
thách rất gay gắt và những tiêu cực rất dễ trở thành nguy cơ làm biến chất nhà
nước.
Chỉ một tháng sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí
Minh đã gửi thư cho Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng nêu rõ phải chống
đặc quyền, đặc lợi; bộ máy nhà nước không phải là bộ máy áp bức, bóc lột nhân
dân, cán bộ, công chức không phải là những “ông quan cách mạng”. Hồ Chí Minh chỉ
ra 6 căn bệnh cần đề phòng: trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư túng, chia rẽ, kiêu
ngạo. Người nhắc nhở: “chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm
thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những sai lầm trên này, thì
nên chú ý tránh đi. Ai đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa;
nếu không tự sửa chữa thì chính phủ sẽ không khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc,
vì lợi ích của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ “công
bình, chính trực” vào lòng.
Hồ Chí Minh đã dùng những cụm từ “công bộc”, “đầy tớ” để chỉ ra một mặt
trách nhiệm của người cán bộ, công chức trong xây dựng một nhà nước mới – Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Trong quá trình lãnh đạo, xây dựng nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Hồ
Chí Minh thường chỉ rõ những tiêu cực sau đây va nhắc nhở mọi người đề phòng và
khắc phục.
- Đặc quyền, đặc lợi
Xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh đòi hỏi phải tẩy trừ những thói cậy
mình là người trong cơ quan chính quyền để cửa quyền, hách dịch với dân, lạm
quyền, đồng thời để vơ vét tiền của, lợi dụng chức quyền để làm lợi cho cá nhân
mình, làm như thế tức là sa vào chủ nghĩa cá nhân.
- Tham ô, lãng phí, quan
liêu
Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí, quan liêu là “giặc nội xâm”, “giặc ở
trong lòng”, thứ giặc nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Người phê bình những người
“lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức”. Quan điểm của Hồ
Chí Minh là: “tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến…tội
lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”. Ngày 27 -11 -1946, Hồ Chí
Minh đã ký sắc lệnh ấn định tội đưa và nhận hối lộ với mức tù từ 5 năm đến 20
năm tù khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ. Ngày 26 – 1 –
1946, Hồ Chí Minh ký lệnh nói rõ tội tham ô, trộm cắp của công dân là tội tử
hình.
Lãng phí là một căn bệnh mà Hồ Chí Minh lên án gay gắt. Chính bản thân
Người luôn làm gương, tích cực thực hành chống lãng phí trong cuộc sống và công
việc hàng ngày. Người biết quý từng đồng xu, bát gạo do dân đóng góp cho hoạt động
của bộ máy nhà nước. Lãng phí ở đây được Hồ Chí Minh xác định là lãng phí sức
lao động, lãng phí thì giờ, lãng phí tiền của. Chống lãng phí là biện pháp để
tiết kiệm, một vấn đề quốc sách của mọi quốc gia.
Liên quan đến bệnh tham ô, bệnh lãng phí là bệnh quan liêu, một căn bệnh
không những có ở cấp trung ương, ở cấp tỉnh, ở cấp huyện mà còn ngay ở các cấp
cơ sở. Hồ Chí Minh phê bình những người và các cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến
cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không
gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp
mọi mặt, không đi sâu vào từng vấn đề. Bệnh quan liêu làm cho chúng ta chỉ biết
khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn…thành thử có mắt mà không thấy
suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà
không nắm vững…. thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho bệnh
tham ô lãng phí. Vì vậy, đây là bệnh gốc sinh ra các bệnh tham ô, lãng phí; muốn
trừ sạch bệnh tham ô, lãng phí thì trước hết phải tẩy sạch bệnh quan liêu.
- Tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo
Những hành động trên gây mất đoàn kết gây rối cho công tác, Hồ Chí Minh kịch
liệt lên án tệ kéo bè, kéo cánh, tệ nạn bà con bạn hữu mình không tài năng gì
cũng kéo vào chức này, chức nọ. Người có tài, có đức nhưng không vừa lòng mình
thì đẩy ra ngoài. Quên rằng việc nước là việc công chứ không phải việc riêng gì
dòng họ của ai. Trong chính quyền, còn hiện tượng gây mất đoàn kết, không biết
cách làm cho mọi người thuận hoà với nhau, còn có người “bênh vực lớp này, chống
lại lớp khác”. Ngoài bệnh cậy thế, có người còn kiêu ngạo, “tưởng mình ở trong
cơ quan chính phủ là thần thánh rồi…cử chỉ lúc nào cũng vác mặt quan cách mạng”,
làm mất uy tín của chính phủ.
3. Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với
đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng
Hồ Chí Minh đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa quản lý xã hội bằng
pháp luật với phát huy những truyền thống tốt đẹp của đời sống cộng đồng người
Việt Nam được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử.
Trong việc thực thi quyền hạn và trách nhiệm của mình với cương vị là chủ
tịch nước, Hồ Chí Minh bao giờ cũng thể hiện là một người sáng suốt, thống nhất
hài hoà giữa lý trí và tình cảm, nghiêm khắc, bao dung, nhân ái nhưng không bao
giờ che cho những sai lầm, khuyết điểm của bất cứ ai. Kỷ cương, phép nước thời
nào cũng luôn được đề cao và phải được áp dụng cho tất cả mọi người. Do đó, Hồ
Chí Minh yêu cầu pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ
ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh dùng sức mạnh uy
tín của mình để cảm hoá những người có lỗi lầm, kéo họ đi với cách mạng, giáo dục
những người mắc khuyết điểm để họ tránh phạm pháp. Dưới ngọn cờ đại nghĩa, bao
dung của Hồ Chí Minh, nhiều người vốn rất mặc cảm với cách mạng đã dần hiểu ra
và không “sẩy chân”, phạm pháp hoặc không đi theo địch.
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân có giá
trị thực tiễn và lý luận to lớn. sâu sắc, định hướng cho việc xây dựng nhà nước
kiểu mới ở Việt Nam. Học tập và quán triệt tư tưởng này để xây dựng nhà nước
ngang tầm nhiện vụ của giai đoạn cách mạng mới là hết sức cần thiết.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân đang tích cực thực hiện nhiệm vụ xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà nước đó được xây dựng trên nền tảng lý luận Mac –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những điều kiện thực tế hiện nay của thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức, thời kỳ
mở cửa, hội nhập quốc tế, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
a. Nhà nước bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân
Quyền làm chủ thật sự của nhân dân chính là một nội dung cơ bản trong yêu
cầu xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước đòi hỏi phải chú trọng bảo đảm và
phát huy quyền làm chủ thật sự của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Trong vấn đề này, việc mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng. Chính vì vậy, quyền làm chủ của nhân
dân phải được thể chế hoá bằng hiến pháp và pháp luật, đưa hiến pháp và pháp luật
vào cuộc sống. Cần chú ý đến việc bảo đảm cho mọi người được bình đẳng trước
pháp luật, xử phạt nghiêm minh mọi hành động vi phạm pháp luật, bất kể sự vi phạm
đó do tập thể hoặc cá nhân nào gây ra. Có như vậy, dân mới tin và mới bảo đảm
được tính chất nhân dân của Nhà nước ta.
Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, ngoài vấn đề thực thi
nghiêm chỉnh pháp luật, còn cần chú ý thực hiện những quy tắc dân chủ trong các
cộng đồng dân cư, tuỳ theo điều kiện của từng vùng, miễn là các quy tắc đó
không trái với những quy định của pháp luật.
b. Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về lĩnh vực này đòi hỏi chú trọng cải cách
và xây dựng, kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, bảo đảm một nền hành chính
dân chủ, trong sạch, vững mạnh. Muốn vậy, phải đẩy mạnh cải cách nền hành chính
theo hướng dân chủ. Kiên quyết khắc phục thói quan liêu, hách dịch, cửa quyền,
gây phiền hà, sách nhiễu, tham nhũng, bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực, sự sa sút
phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực thực hành nhiệm vụ công chức kém cõi.
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay còn cần chú ý cải
cách các thủ tục hành chính; đề cao trách nhiệm cá nhân trong việc giải quyết
các khiếu kiện của công dân theo đúng những quy định của pháp luật; tiêu chuẩn
hoá cũng như sắp xếp lại đội ngũ công chức, xây dựng một đội ngũ cán bộ, công
chức vừa có đức vừa có tài, tinh thông chuyên môn, nghiệp vụ. Đội ngũ công chức
yếu thì không thể nói đến một nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân thực
sự vững mạnh. Do vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải được đặt
lên hàng đầu và phải được tiến hành thường xuyên, bảo đảm chất lượng.
c. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước
Công cuộc đổi mới, chỉnh đốn Đảng tất yếu gắn liền với tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với nhà nước. Đây là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của Đảng với
tư cách là Đảng cầm quyền. Trong giai đoạn hiện nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh vào việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước thể hiện ở những
nội dung như: Lãnh đạo nhà nước thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng, bảo
đảm sự lãnh đạo của Đảng và phát huy vai trò quản lý của nhà nước; đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước lãnh đạo bằng đường lối, bằng tổ
chức, bộ máy của Đảng trong các cơ quan nhà nước, bằng vai trò tiên phong,
gương mẫu của đội ngũ đảng viên hoạt động trong bộ máy nhà nước, bằng công tác
kiểm tra, Đảng không làm thay công việc quản lý của nhà nước. Đảng thống nhất
lãnh đạo công tác cán bộ trong hệ thống chính trị trên cơ sở bảo đảm chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của nhà nước theo luật định. Bản chất, tính chất của nhà nước
ta gắn liền với vai trò, trách nhiệm của Đảng cầm quyền, do đó, đến lượt Đảng,
một tiền đề tất yếu được đặt ra là sự trong sạch, vững mạnh của Đảng Cộng Sản
Việt Nam chính là yếu tố quyết định cho thành công của việc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
CHƯƠNG VII
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
VĂN HOÁ,
ĐẠO ĐỨC VÀ XÂY DỰNG CON
NGƯỜI MỚI
I. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA
HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HOÁ
1. Định nghĩa về văn hoá và quan điểm về xây dựng nền
văn hoá mới
a. Định nghĩa về văn hoá
Khái niệm về “văn hoá” có nội hàm phong phú và ngoại diên rất rộng, chính
vì vậy, đã có đến hàng trăm định nghĩa về văn hoá. Tháng 8 – 1943, khi còn
trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, lần đầu tiên Hồ Chí Minh đưa ra một định
nghĩa của mình về văn hoá. Điều thú vị là định nghĩa của Hồ Chí Minh có rất nhiều
điểm gần với quan niệm hiện đại về văn hoá. Người viết:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn
hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà
loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của
sự sinh tồn”.
Với định nghĩa này, Hồ Chí Minh đã khắc phục được quan niệm phiến diện về
văn hoá trong lịch sử và hiện tại, hoặc chỉ đề cập đến lĩnh vực tinh thần,
trong văn học nghệ thuật, hoặc chỉ đề cập đến lĩnh vực giáo dục, phản ánh trình
độ học vấn…Trên thực tế, văn hoá bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và những
giá trị tinh thần mà loài người đã sáng tạo ra, nhằm đáp ứng sự sinh tồn và
cũng là mục đích cuộc sống của loài người.
b. Quan niệm về xây dựng nền văn hoá mới
Cùng với định nghĩa về văn hoá, Hồ Chí Minh còn đưa ra Năm điểm lớn định hướng cho việc xây dựng
nền văn hoá dân tộc:
“1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập, tự cường.
2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh
mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp
có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.
4. Xây dựng chính quyền: dân quyền.
5. Xây dựng kinh tế”.
Như vậy, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến văn hoá, đã thấy rõ
vai trò, vị trí của văn hoá trong đời sống xã hội. Điều này cắt nghĩa vì sao
ngay sau khi giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã bắt tay vào việc xây dựng, kiến
tạo một nền văn hoá mới ở Việt Nam trên tất cả mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chính
trị, xã hội, đạo đức, đến tâm lý con người, đã sớm đưa văn hoá vào chiến lược
phát triển đất nước.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của
văn hoá
a. Quan điểm về vị trí và vai trò của văn hoá trong đời sống
xã hội
- Văn hoá là đời sống tinh
thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng.
Ngay sau thắng lợi của cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm
này. Ở đây, Hồ Chí Minh đặt văn hoá ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội tạo
thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội và các vấn đề này có quan hệ với
nhau rất mật thiết. Cho nên, trong công cuộc xây dựng đất nước, cả 4 vấn đề này
phải được coi trọng như nhau.
Trong quan hệ với chính trị,
xã hội; Hồ
Chí Minh cho rằng, chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hoá mới được giải
phóng. Chính trị giải phóng sẽ mở đường cho văn hoá phát triển. Người nói: “xã
hội thế nào, văn nghệ thế ấy…Dưới chế độ thực dân và phong kiến, nhân dân ta bị
nô lệ, thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn không thể phát triển được”. Để
văn hoá phát triển tự do thì phải làm cách mạng chính trị trước. Ở Việt Nam, tiến
hành cách mạng chính trị, thực chất là tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc để giành chính quyền, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải
phóng văn hoá, mở đường cho văn hoá phát triển.
Trong quan hệ với kinh tế; Hồ Chí Minh chỉ rõ kinh tế
là thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hoá. Từ đó, Người
đưa ra luận điểm: Phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có
điều kiện xây dựng và phát triển văn hoá. Người viết: Văn hoá là một kiến trúc thượng tầng; nhưng cơ sở hạ tầng của xã hội
có kiến thiết rồi, văn hoá mới kiến thiết được và có đủ điều kiện phat triển được.
Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là kinh tế phải đi trước một bước. Người viết:
Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hoá. Vì sao
không nói phát triển văn hoá và kinh tế. Tục ngữ ta có câu: có thực mới vực được
đạo, vì thế kinh tế phải đi trước”
- Văn hoá không thể đứng
ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mac – Lênin, Hồ Chí Minh không nhấn mạnh
một chiều về sự phụ thuộc “thụ động” của văn hoá vào kinh
tế, chờ cho kinh tế phát triển xong rồi mới phát triển văn hoá. Người cho rằng,
văn hoá có tính tích cực, chủ động, đóng vai trò to lớn như một động lực thúc đẩy
sự phát triển của kinh tế và chính trị. Người nói: “trình độ văn hoá của nhân
dân nâng cao sẽ giúp cho chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát
triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân cũng là một việc cần thiết
để xây dựng nước ta thành một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh.”
Văn hoá phải ở trong kinh tế
và chính trị, có nghĩa là văn hoá phải tham gia thực hiện những nhiệm vụ chính trị,
thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế. Quan điểm này không chỉ định hướng cho
việc xây dựng một nền văn hoá mới ở Việt Nam mà còn định hướng cho mọi hoạt động
văn hoá. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, quan điểm “văn hoá cũng là một mặt trận”, “kháng chiến hoá văn hoá, văn hoá hoá
kháng chiến”…mà Người đưa ra đã tạo nên một phong trào văn hoá văn nghệ sôi
động chưa từng thấy. Văn hoá không đứng ngoài mà ở trong cuộc khang chiến thần
thánh của dân tộc. Và cuộc kháng chiến trở thành cuộc kháng chiến có tính văn
hoá. Chính điều này đã đem lại sức mạnh vượt trội cho nhân dân Việt Nam đánh thắng
cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Văn hoá phải ở trong kinh tế và chính trị, điều đó cũng có nghĩa là kinh tế và chính trị cũng phải có tính văn
hoá, điều mà chủ nghĩa xã hội và thời đại đang đòi hỏi. Ngày nay, trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta
chủ trương gắn văn hoá với phát triển, chủ trương đưa các giá trị văn hoá thấm
sâu vào kinh tế và chính trị, làm cho văn hoá thực sự vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
b. Quan điểm về tính chất của nền văn hoá
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Hồ Chí Minh đã bắt
tay ngay vào việc xây dựng một nền văn hoá mới. Nhiều vấn đề về văn hoá đã được
đặt ra và giải quyết ngay trong những ngày đầu của chính quyền cách mạng, như:
giải quyết nạn dốt, giáo dục nhân dân tinh thần cần, kiệm, liêm, chính; cấm hút
thuốc phiện, lương giáo đoàn kết và tự do tín ngưỡng…Như vậy, nền văn hoá mới
ra đời đã gắn liền với nước Việt Nam mới. Nền văn hoá Việt Nam trong thời kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp là nền văn hoá kháng chiến, kiến quốc, nền văn
hoá dân chủ mới. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền
văn hoá được xây dựng là nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau, song nền văn hoá mới mà chúng ta
đang xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh luôn bao hàm ba tính chất: tính dân tộc,
tính khoa học và tính đại chúng.
Tính dân tộc của nền văn hoá được Hồ Chí
Minh biểu đạt bằng nhiều khái niệm, như đặc
tính dân tộc, cốt cách dân tộc, nhằm nhấn mạnh đến chiều sân bản chất rất đặc
trưng của văn hoá dân tộc, giúp phân biệt, không nhầm lẫn với văn hoá các dân tộc
khác. Người cho rằng, để được như vậy, phải “trau dồi cho văn hoá, văn nghệ có
tinh thần thuần tuý Việt Nam”, phải “lột
tả cho hết tinh thần dân tộc”, đó là chủ nghĩa yêu nước, đoàn kết, khát vọng
dân tộc, tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc…Người cho rằng, “nếu dân tộc hoá
mà phát triển được đến cực điểm thì tức là đến chỗ thế giới hoá nó, vì lúc bấy
giờ văn hoá thế giới sẽ phải chú ý đến văn hoá của mình và văn hoá của mình sẽ
chiếm được địa vị ngang với các nền văn hoá thế giới”. Tính dân tộc của nền văn
hoá không chỉ thể hiện ở chỗ biết giữ gìn, kế thừa, phát huy những truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, mà còn phải phát triển những truyền thống tốt đẹp ấy cho
phù hợp với điề kiện lịch sử mới của đất nước.
Tính khoa học của nền văn hoá mới được thể
hiện ở tính hiện đại, tiên tiến, thuận với trào lưu tiến hoá của thời đại. Tính
khoa học của văn hoá đòi hỏi phải đấu tranh chống lại những gì trái với khoa học,
phản tiến bộ. Phải truyền bá tư tưởng triết học Macxit, đấu tranh chống lại chủ
nghĩa duy tâm, thần bí, mê tín dị đoan, phải biết gạn đục khơi trong, kế thừa
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Tính đại chúng của nền văn hoá được thể hiện
ở chỗ nền văn hoá ấy phải phục vụ nhân dân và do nhân dân xây dựng nên. Hồ Chí
Minh nói, “văn hoá phục vụ ai? Cố nhiên chúng ta phải nói là phục vụ công nông
binh, tức là phục vụ đại đa số nhân dân”; “Quần chúng là những người sáng tạo,
công nông là những người sáng tạo. Nhưng quần chúng không chỉ sáng tạo ra những
của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa…”
c. Quan điểm về chức năng của văn hoá
Chức năng của văn hoá rất phong phú, đa dạng. Hồ Chí Minh cho rằng, văn
hoá có ba chức năng chủ yếu sau đây:
- Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn
và những tình cảm cao đẹp
Tư tưởng và tình cảm là hai vấn đề quan trọng nhất trong đời sống tinh thần
của con người. Tư tưởng có thể đúng đắn hoặc sai lầm, tình cảm có thể thấp hèn
hoặc cao đẹp. Chức năng cao quý nhất của văn hoá pà phải bồi dưỡng, nêu cao tư
tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ được những sai lầm và
thấp hèn có thể có trong tư tưởng, tình cảm mỗi người. Tư tưởng và tình cảm rất
phong phú, văn hoá phải đặc biệt quan tâm đến những tư tưởng và tình cảm lớn,
chi phối đời sống tinh thần của mỗi con người và cả dân tộc.
Lý tưởng là điểm hội tụ của những tư
tưởng lớn của một Đảng, một dân tộc. Đối với dân tộc Việt Nam, đó là lý tưởng độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Một khi lý tưởng này phai nhạt thì
không thể nói đến thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh
đã chỉ ra chức năng hàng đầu của văn hoá là phải làm thế nào cho ai cũng có lý
tưởng tự chủ, độc lập, tự do; phải làm thế nào cho ai cũng có “tinh thần vì nước
quên mình, vì lợi ích chung và quên lợi ích riêng”.
Tình cảm lớn, theo Hồ Chí Minh là
lòng yêu nước, thương dân, thương yêu con người; yêu tính trung thực, chân
thành, thuỷ chung, ghét những thói hư, tật xấu, sự sa đoạ…
- Mở rộng hiểu biết, nâng
cao dân trí
Nói đến văn hoá là phải nói đến dân trí. Đó là trình độ hiểu biết, vốn kiến
thức của người dân. Nâng cao dân trí phải bắt đầu từ chỗ biết đọc, biết viết để
có thể hiểu biết các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Vấn đề nâng cao dân trí
thực sự chỉ có thể thực hiện sau khi chính trị đã được giải phóng, toàn bộ
chính quyền đã về tay nhân dân.
Mục tiêu nâng cao dân trí của văn hoá trong từng giai đoạn có thể có những
điểm chung và riêng. Song tất cả đều hướng vào mục tiêu chung là độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao dân trí là để nhân dân có thể tham gia sáng tạo
và hưởng thụ văn hoá, góp phần cùng Đảng biến một nước dốt nát, cực khổ thành một
nước văn hoá cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”. Đó cũng là mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng ta đã vạch ra trong công
cuộc đổi mới.
- Bồi dưỡng những phẩm chất,
phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh; hướng con người đến chân, thiện, mỹ
để hoàn thiện bản thân
Phẩm chất và phong cách được hình thành từ đạo đức, lối sống, từ thói
quen của cá nhân và phong tục tập quán của cả cộng đồng. Phẩm chất và phong
cách thường có mối quan hệ gắn bó với nhau. Mỗi người thường có nhiều phẩm chất,
trong đó, có phẩm chất chung và phẩm chất riêng, tuỳ theo nghề nghiệp, vị trí
công tác. Các phẩm chất thường được thể hiện qua phong cách, tức là lối sinh hoạt,
làm việc, lới ứng xử trong cuộc sống…Căn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng,
Hồ Chí Minh đã đề ra những phẩm chất và phong cách cần thiết để mỗi người tự tu
dưỡng. Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến phẩm chất đạo
đức – chính trị. Bởi vì, nếu như không có những phẩm chất này thì họ không thể
hoàn thành được những nhiệm vụ cách mạng, không thể biến lý tưởng thành hiện thực.
Những phẩm chất và phong cách tốt đẹp làm nên giá trị của con người. Văn
hoá giúp con người hình thành những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp,
lành mạnh thông qua phân biệt cái đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư hỏng, cái
tiến bộ với cái lạc hậu, bảo thủ, ngày càng giảm, vươn tới caí chân, cái thiện,
cái mỹ để hoàn thiện bản thân. Với ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Phải làm
thế nào cho văn hoá thấm sâu vào tâm lý
quốc dân, nghĩa là văn hoá phải sửa đổi
được những tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ; văn hoá phải soi đường cho quốc
dân đi.
3. Quan điểm của hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính
của văn hoá
a. Văn hoá giáo dục
Sau khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã bỏ nhiều công sức
phân tích sâu sắc nền giáo dục phong kiến và thực dân, chuẩn bị tư tưởng cho việc
xây dựng một nền giáo dục của nước Việt Nam độc lập sau này. Hồ Chí Minh đã phê
phán gay gắt nền giáo dục phong kiến và nền giáo dục thực dân.
Nền giáo dục mới của nước Việt Nam độc lập được Hồ Chí Minh chuẩn bị từ
những lớp bồi dưỡng cán bộ cách mạng trong những năm 20 của thế kỷ XX. Thực sự
ra đời sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và phát triển cùng với sự nghiệp
cách mạng của cả dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng, việc xây dựng một nền giáo dục
của nước Việt Nam mới phải được coi là một mặt trận quan trọng, nhiệm vụ cấp
bách, có ý nghĩa chiến lược, cơ bản và lâu dài. Nền giáo dục đó sẽ “…làm cho
dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân
tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”
Trong quá trình xây dựng nền văn hoá giáo dục ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
đưa ra một hệ thống quan điểm rất phong phú và toàn diện, định hướng cho nền
giáo dục phát triển đúng đắn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà.
- Mục tiêu của văn hoá giáo
dục là thể
hiện cả ba chức năng của văn hoá thông qua việc dạy và học.
Dạy và học là nhằm mở mang dân trí, nâng cao kiến thức; bồi dưỡng những
tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp, những phẩm chất trong sáng và phong cách
lành mạnh cho con người, đào tạo con người có ích cho xã hội. Văn hoá giáo dục
phải đào tạo được những lớp người có đức, có tài kế tục sự nghiệp cách mạng,
làm cho nước ta “sánh vai cùng các cường quốc năm châu”. Học không phải để lấy
bằng cấp mà phải thực học, “học để làm
người, làm việc, làm cán bộ”.
- Nội dung giáo dục phải phù hợp với thực tiễn
Việt Nam. Giáo dục phải toàn diện, bao gồm cả văn hoá, chính trị, khoa học – kỹ
thuật, chuyên môn nghề nghiệp, lao động. Các nội dung này có quan hệ rất chặt
chẽ với nhau. Người chỉ rõ, nếu không có trình độ văn hoá thì không tiếp thu được
khoa học – kỹ thuật; không khoa học – kỹ thuật thì không theo kịp được nhu cầu
kinh tế nước nhà; song phải chú ý học chính trị, vì nếu chỉ học văn hoá mà
không học chính trị thì như người nhắm mắt mà đi.
Học chính trị là học chủ nghĩa Mac – Lênin, đường lối, chính sách của Đảng
và nhà nước. Học để nắm vững quan điểm, lập trường có tính nguyên tắc của Đảng,
thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mac – Lênin. Phương pháp học phải
sáng tạo, không giáo điều. Xã hội ngày càng phát triển, nhân dân ngày càng tiến
bộ nên Người cho rằng phải tiến hành cải
cách giáo dục, nhằm xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học
thật khoa học, hợp lý, đáp ứng đòi hỏi của cách mạng.
- Phương châm, phương pháp
giáo dục
Phương châm học đi đôi với hành, lý luận
phải liên hệ với thực tế, học tập phải kết hợp với lao động; phải kết hợp thật
chặt chẽ ba khâu: gia đình, nhà trường và xã hội; thực hiện dân chủ, bình đẳng
trong giáo dục. Học ở mọi nơi, mọi lúc; học mọi người. Học suốt đời, coi trọng
việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại.
Phương pháp giáo dục phải phù hợp với mục
tiêu giáo dục. Cách dạy phải phù hợp với trình độ người học, phù hợp với lứa tuổi,
dạy từ dễ đến khó; phải kết hợp học tập với vui chơi, giải trí lành mạnh phải
dùng biện pháp nêu gương gắn liền với các phong trào thi đua…
- Về đội ngũ giáo viên: Phải quam tâm xây dựng, bồi
dưỡng được đội ngũ giáo viên có đạo đức cách mạng, yêu nghề, yên tâm công tác,
đoàn kết và hợp tác với đồng nghiệp, giỏi về chuyên môn, thuần thục về phương
pháp. Mỗi giáo viên phải là một tấm gương sáng về đạo đức, về học tập, “Học
không biết chán, dạy không biết mệt”.
b. Văn hoá nghệ thuật
Văn nghệ là biểu hiện tập trung nhất của nền văn hoá, là đỉnh cao của đời
sống tinh thần, là hình ảnh của tâm hồn dân tộc. Hồ Chí Minh không chỉ là người
khai sinh ra nền văn nghệ cách mạng mà còn là một chiến sĩ tiên phong trong
sáng tạo văn nghệ. Trong quá trình chỉ đạo xây dựng nền văn nghệ cách mạng, Hồ
Chí Minh đã đưa ra nhiều quan điểm lớn. Sau đây là ba quan điểm chủ yếu:
- Văn hoá văn nghệ là một mặt
trận, nghệ sỹ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh
cách mạng.
Hồ Chí Minh khẳng định văn hoá nghệ thuật là một mặt trận tức là khẳng định
vai trò, vị trí của văn hoá – văn nghệ
trong sự nghiệp cách mạng, coi mặt trận văn hoá cũng có tầm quan trọng như mặt
trận quân sự, chính trị, kinh tế.
Ở một tầm nhìn sâu xa hơn, Hồ Chí Minh còn coi mặt trận văn hoá như một cuộc chiến khổng lồ giữa chính và tà, giữa
cách mạng và phản cách mạng. Cuộc chiến đó sẽ rất quyết liệt, rất lâu dài, song
rất vẻ vang. Trong cuộc chiến đó, nghệ sĩ
là chiến sĩ, tác phẩm là vũ khí. Trước khi giành được chính quyền, văn nghệ
có nhiệm vụ thức tỉnh quần chúng, tập hợp lực lượng, cổ vũ cho thắng lợi tất yếu
của cách mạng. Sau khi có chính quyền, văn nghệ phải tham gia vào công cuộc xây
dựng và bảo vệ chế độ mới, xây dựng con người mới. Mặt trận văn nghệ lúc này
còn cam go hơn, quyết liệt hơn, bởi thắng thực dân đã khó, thắng nghèo nàn lạc
hậu còn khó hơn nhiều. Để hoàn thành nhiệm vụ khó khăn đó, Hồ Chí Minh yêu cầu:
“chiến sĩ nghệ thuật cần có lập trường vững, tư tưởng đúng…đặt lợi ích của
kháng chiến, của tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết”.
- Văn nghệ phải gắn với thực
tiễn đời sống của nhân dân.
Thực tiễn đời sống của nhân dân rất phong phú, bao gồm thực tiễn lao động
sản xuất, chiến đấu, sinh hoạt và xây dựng đời sống mới. Đây là nguốn nhựa sống,
là sinh khí và là chất liệu vô tận cho văn nghệ sáng tác. Từ thực tiễn đó, bằng
tài năng sáng tạo và tinh thần nhân văn của mình, văn nghệ sĩ có thể nhào nặn,
thăng hoa, hư cấu, tạo nên những tác phẩm nghệ thuật trường tồn cùng dân tộc và
nhân loại. Để làm được như vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu các văn nghệ sĩ phải thật
“hoà mình vào quần chúng” để hiểu thấu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của nhân
dân, học tập nhân dân và “miêu tả cho hay, cho chân thật và cho hùng hồn thực
tiễn đời sống của nhân dân’. Bởi vì, nhân dân không chỉ là người sáng tạo ra mọi
của cải vật chất và tinh thần. Họ còn là người hưởng thụ và đánh giá các tác phẩm
một cách trung thực, khách quan và chính xác nhất.
- Phải có những tác phẩm xứng
đáng với thời đại mới của đất nước và dân tộc
Mục tiêu của văn nghệ là phục vụ quần chúng. Để thực hiện mục tiêu này,
các tác phẩm văn nghệ phải đạt tới sự thống nhất hài hoà giữa nội dung và hình
thức. Người nói: “Quần chúng mong muốn những tác phẩm có nội dung chân thật và
phong phú, có hình thức trong sáng và vui tươi. Khi chưa xem thì muốn xem, xem
rồi thì có bổ ích”. Đó là một tác phẩm hay.
Một tác phẩm hay là tác phẩm diễn đạt vừa đủ những điều đáng nói, ai đọc
cũng hiểu được và khi đọc xong phải suy ngẫm. Tác phẩm đó phải kế thừa được những
tinh hoa văn hoá dân tộc, mang được hơi thở của thời đại, vừa phản ánh chân thật
những gì đã có trong đời sống, vừa phê phán cái dở, cái xấu, cái sai, hướng
nhân dân đến cái chân, cái thiện, cái mỹ, vươn tới cái lý tưởng – đó chính là sự
phản ánh có tính hướng đích của văn nghệ. Để thực hiện tính hướng đích này, các
tác phẩm văn nghệ phải chân thực về nội dung, phong phú về hình thức và thể loại
đã mở ra con đường sáng tạo không giới hạn cho các văn nghệ sĩ.
c. Văn hoá đời sống
Văn hoá là bộ mặt tinh thần của xã hội, nhưng bộ mặt tinh thần ấy không
phải là cái gì cao siêu, trừu tượng, mà lại được thể hiện ra ngay trong cuộc sống
hằng ngày của mỗi người, rất dễ hiểu, dễ thấy. Đó chính là văn hoá đời sống. Gắn
việc xây dựng nền văn hoá mới với xây dựng đời sống mới thực sự là một cách
nhìn, một giải pháp rất độc đáo của Hồ Chí Minh.
Văn hoá đời sống thực chất là đời sống mới, được Hồ Chí Minh nêu ra với
ba nội dung: đạo đức mới, lối sống mới ,
nếp sống mới. Ba nội dung này có quan hệ mật thiết, trong đó đạo đức giữ
vai trò chủ yếu. Bởi vì, chỉ có thể dựa trên một nền đạo đức mới, thì mới xây dựng
được lối sống mới và nếp sống mới. Đến lượt mình, đạo đức mới cũng chỉ có thể
thể hiện trong lối sống mới và nếp sống mới.
Đạo đức mới: Để xây dựng đời sống mới trước
hết phải xây dựng đạo đức mới. Ngay trong phiên họp đầu tiên của hội đồng chính
phủ, Hồ Chí Minh đã đề nghị “mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân
bằng cách thực hiện: CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH”. Sau này, Người đã nhiều lần khẳng
định: “Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến
thành sâu mọt của dân”, “nêu cao và thực hành cần, kiệm, liêm, chính tức là
nhen lửa cho đời sống mới”.
Lối sống mới: Lối sống mới là lối sống có
lý tưởng, có đạo đức. Đó còn là lối sống văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hoà
truyền thống tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa văn hoá nhân loại. Con người muốn
tồn tại phải làm sao cho có ăn, mặc, ở, đi lại và làm việc; phải làm sao cho mỗi
một hoạt động đó đều mang tính văn hoá. Chính vì vậy, để xây dựng lối sống mới,
Hồ Chí Minh yêu cầu phải sửa đổi “cách
ăn, cách mặc, cách đi lại” – theo ngôn ngữ hiện nay thì đây chính là phong
cách sống và phong cách làm việc, gọi chung là lối sống mới.
Phong cách sống, theo Hồ Chí Minh là phải khiêm tốn, giản dị, chừng mực,
ngăn nắp vệ sinh, yêu lao động, biết quý trọng thời gian…Trong quan hệ với nhân
dân, bạn bè, đồng chí, anh em thì chân thành, cởi mở; giàu tình yêu thương, quý
mến, tôn trọng con người. Với mình thì nghiêm khắc, với người thì độ lượng,
khoan dung.
Phong cách làm việc, theo Hồ Chí Minh là phải sửa đổi sao cho có tác
phong quần chúng, tác phong tập thể - dân chủ, tác phong khoa học. Ba loại tác
phong này có quan hệ mật thiết với nhau. Sửa đổi phong cách làm việc có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với cán bộ làm công tác quản lý, lãnh đạo. Bởi vì, theo
Hồ Chí Minh, đã là cán bộ cách mạng phải có phong cách sống và phong cách làm
việc tốt, để làm gương mẫu cho dân.
Nếp sống mới: Xây dựng nếp sống mới là quá
trình làm cho nếp sống mới dần dần thành thói quen, thành phong tục, tập quán tốt
đẹp, kế thừa và phát triển những thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc. Hồ Chí
Minh chỉ ra rằng, đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái
gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ. Cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền
phức thỉ sửa đổi, Cái gì cũ mà tốt thì phát triển thêm. Cái gì mới mà tốt thì
phải làm, phải bổ sung.
Xây dựng văn hoá đời sống mới nhằm biến Việt Nam từ một quốc gia nghèo
nàn thành một quốc gia văn minh và phú cường là một công việc lâu dài và phải
có phương pháp tốt. công việc đó đòi hỏi sự quyết tâm của cả cộng đồng dân tộc,
song trước hết, phải được bắt đầu từ mỗi con người, mỗi gia đình, với tư cách
là tế bào của xã hội.
II. TU TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẠO ĐỨC
1. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
a. Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức
- Đạo đức là gốc của người
cách mạng
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, một lãnh tụ cách mạng thế giới
đã bàn nhiều về vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh rất sâu sắc, phong phú, cả về lý luận và thực tiễn, đã trở thành một bộ phận
vô giá của văn hoá dân tộc và nhân loại, một sức mạnh to lớn làm nên mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam.
Khi đánh giá vai trò của đạo đức trong đời sống, từ rất sớm, Hồ Chí Minh
đã khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người,
như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối – “cũng như sông thì có nguồn mới
có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân”. Người cho rằng, làm cách mạng để cải tạo xã hội
cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ
rất nặng nề. “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải
có đạo đức cách mạnh làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang”.
Người nói, cán bộ, đảng viên muốn cho dân tin, dân phục thì không phải cứ
“viết lên trán chữ cộng sản mà ta được họ mến yêu. Quần chúng chỉ quý mến những
người có tư cách, đạo đức”. “Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho
loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản,
tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Người trăn trở với nguy cơ Đảng xa rời cuộc
sống, xa rời quần chúng, rơi vào thoái hoá, biến chất. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu
cầu Đảng Phảo “là đạo đức, là văn minh”. Người
nhắc lại ý của Lênin: Đảng cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương
tâm của dân tộc và thời đại. Trong Di
chúc, Người căn dặn: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân”.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực
tế làm thước đo. Chính vì vậy Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn
đức với tài, lời nói đi đôi với hành động và hiệu quả trên thực tế. Người nói:
“phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản
xuất mà đo ý chí cách mạng của mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói suông, thói
phô trương hình thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản xuất”.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đức và tài, hồng và chuyên, phẩm chất
và năng lực thống nhất làm một. Trong đó; Đức
là gốc của tài; hồng là gốc của chuyên; phẩm chất là gốc của năng lực. Tài
là thể hiện cụ thể của đức trong hiệu quả hành động.
- Đạo đức là nhân tố tạo nên
sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý tưởng
cao xa, ở mức sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng, mà trước
hết là ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản ưu
tú, bằng tấm gương sống và hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng đó trở
thành hiện thực.
Hồ Chí Minh cho rằng, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trở thành
lực lượng quyết định vận mệnh của loài người không chỉ do chiến lược và sách lược
thiên tài của cách mạng vô sản, mà còn do những phẩm chất đạo đức cao quý làm
cho chủ nghĩa cộng sản trở thành một sức mạnh vô địch.
Tấm gương đạo đức trong sáng của một nhân cách vĩ đại, song cũng rất đời
thường của Hồ Chí Minh chẳng những có sức hấp dẫn lớn lao, mạnh mẽ với nhân dân
Việt Nam mà còn cả với nhân dân thế giới. Tấm gương đó từ lâu là nguốn cổ vũ động
viên tinh thần quan trọng đối với nhân dân ta và nhân loại tiến bộ đoàn kết đấu
tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
b. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
- Trung với nước, hiếu với dân
“Trung” và “hiếu” là những khái niệm cũ trong tư tưởng đạo đức Việt Nam
và Phương Đông, phản ánh mối quan hệ lớn nhất và cũng là phẩm chất đạo đức bao
trùm nhất: “trung với vua, hiếu với cha mẹ”.
Hồ Chí Minh đã mượn khái niệm “trung, hiếu” trong tư tưởng đạo đức truyền
thống và đưa vào đó nội dung mới: “trung với nước, hiếu với dân”, tạo nên một
cuộc cách mạng trong quan niệm về đạo đức. Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu
ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững
được dưới đất, đầu ngửng lên trời”.
Hồ Chí Minh cho rằng, trung với nước
phải gắn liền hiếu với dân. Vì nước là nước của dân, còn dân thì lại là chủ
nhân của nước; bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi
ích đều vì dân, cán bộ là đầy tớ của dân chứ không phải là “quan cách mạng”.
Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước,
trung thành với con đường đi lên của đất nước; là suốt đời phấn đấu cho Đảng,
cho cách mạng. Hiếu với dân thể hiện ở chỗ thương dân, tin dân, phục vụ nhân
dân hết lòng. Để làm được như vậy, phải gần dân, kính trọng dân, học tập nhân
dân, phải dựa vào dân và lấy dân làm gốc. Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh
yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, thường xuyên quan tâm cải thiện
dân sinh, nâng cao dân trí.
- Cần, Kiệm, Liêm, Chính,
Chí công vô tư
Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người, là
đại cương đạo đức Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, bọn phong kiến ngày xưa
nêu ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng không bao giờ thực hiện mà lại bắt nhân
dân tuân theo để phụng sự quyền lợi của chúng. Ngày nay, ta đề ra cần kiệm liêm
chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo là để đem lại hạnh phúc
cho dân. Với ý nghĩa như vậy, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cũng là một
biểu hiện cụ thể, một nội dung của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”.
Cũng như khái niệm “trung, hiếu”, “cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư” cũng là những khái niệm cũ trong đạo đức truyền thống
dân tộc, được Hồ Chí Minh lọc bỏ những nội dung không phù hợp và đưa vào những
nội dung mới đáp ứng những yêu cầu của cách mạng.
Cần là
siêng năng, chăm chỉ; lao động có kế hoạch, có hiệu quả, có năng suất cao với
tinh thần tự lực cánh sinh.
Kiệm là tiết
kiệm của nước của dân, không “xa xỉ, hoang phí, bừa bãi”, không phô trương hình
thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm là
luôn tôn trọng của công và của dân. Phải “trong sạch, không tham lam” tiền của,
địa vị, danh tiếng.
Chính là thẳng
thắn, đứng đắn. Ngưởi đưa ra một số yêu cầu: đối với mình – không được tự cao,
tự đại, tự phụ, phải khiêm tốn học hỏi, phát triển cái hay, sửa chữa cái dở. Đối
với người – không nịnh người trên, không khinh người dưới, thật thà, không dối
trá. Đối với việc – phải để việc công
lên trên, lên trước, việc thiện nhỏ mấy cũng làm, việc ác nhỏ mấy cũng tránh.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, các đức tính cần, kiệm,
liêm, chính, có quan hệ chặt chẽ với nhau, ai cũng phải thực hiện, song cán bộ
đảng viên phải là người thực hiện trước để làm kiểu mẫu cho dân. Người cho rằng,
những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hạn. nếu không giữ
đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân.
Đối với một quốc gia, cần, kiệm, liêm, chính là thước
đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, thể hiện sự văn minh, tiến bộ.
Cần, kiệm, liêm, chính còn là nền tảng của đời sống mới, của các phong trào thi
đua yêu nước.
Chí công vô tư
là công bằng, công tâm, không thiên vị; làm việc gì cũng không nghĩ đến mình
trước, chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Chí
công vô tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là vết tích của
xã hội cũ, đó là lối sống ích kỷ, chỉ biết có riêng mình, thu vén cho riêng
mình, chỉ thấy công lao của mình mà quên mất công lao của người khác. Chủ nghĩa
cá nhân là đồng minh của đế quốc; là một thứ vi trùng rất độc. Chủ nghĩa cá
nhân đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm, như: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ
quan, tham ô, lãng phí, tham danh, trục lợi, quyền hành, coi thường tập thể, tự
cao, tự đại, độc đoán chuyên quyền…đó là “một thứ gian xảo, xảo quyệt; nó dỗ
dành người ta đi xuống dốc”. Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa xã hội không thể
thắng lợi nếu không loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
- Thương yêu
con người, sống có nghĩa có tình
Yêu thương con người được Hồ Chí Minh xác định là một
trong những phẩm chất tốt đẹp nhất. Người nói, người cách mạng là người giàu
tình cảm, có tình cảm cách mạng mới đi làm cách mạng. Vì yêu thương nhân dân,
yêu thương con người mà chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh để đem lại độc lập, tự
do, cơm áo ấm no và hạnh phúc cho con người.
Tình yêu thương đó là một tình cảm rộng lớn, trước hết
dành cho những người nghèo khổ, những người bị mất quyền, những người bị áp bức,
bị bóc lột không phân biệt màu da, dân tộc. Người cho rằng, nếu như không có
tình yêu thương như vậy thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Tình thương yêu con người phải được xây dựng trên lập
trường giai cấp công nhân, thể hiện trong mối quan hệ hàng ngày với bạn bè, đồng
chí, anh em…nó đòi hỏi mỗi người phải chặt chẽ và nghiêm khắc với mình; rộng
rãi, độ lượng với người khác. Nó đòi hỏi thái độ tôn trọng những quyền của con
người, nâng con người lên, kể cả những người nhất thời lầm lạc, chứ không phải
là thái độ dĩ hoà vi quý, không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con người.
Người dạy: “hiểu chủ nghĩa Mac – Lênin là phải sống với nhau có nghĩa có tình.
Nếu thuộc bao nhiêu sách vở mà không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ
ngĩa Mac – Lênin được”. Trong Di chúc,
Người căn dặn: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
- Có tinh thần
quốc tế trong sáng
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan
trọng nhất của đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ bản chất giai cấp
công nhân, nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt ra khỏi quốc gia, dân tộc.
Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh
rất rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự tôn trọng, hiểu biết, thương yêu và đoàn kết
với giai cấp vô sản toàn thế giới, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước,
với những người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất
bình đẳng và phân biệt chủng tộc; chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sôvanh,
biệt lập và chủ nghĩa bành trướng bá quyền…Hồ Chí Minh chủ trương giúp bạn là tự
giúp mình.
Đoàn kết quốc tế là nhằm thực hiện những mục tiêu lớn
của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp
tác và hữu nghị theo tinh thần: bốn phương vô sản, bốn bể đều là anh em. Trong
suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp tình đoàn kết
hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới, đã tạo ra một kiểu quan hệ
quốc tế mới: Đối thoại thay cho đối đầu, nhằm kiến tạo một nền văn hoá hoà bình
cho nhân loại.
c. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo
đức mới
- Nói đi đôi với
làm, phải nêu gương đạo đức
Nói đi đôi với
làm, Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây dựng một
nền đạo đức mới. Điều này được Hồ Chí Minh khẳng định từ giữa những năm 20 của
thế kỷ XX trong tác phẩm Đường cách mệnh.
Bản thân Hồ Chí Minh là tấm gương sáng tuyệt vời về lời nói đi đôi với việc
làm. Nó đi đôi với làm là đặc trưng bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh –
đạo đức cách mạng. Nói đi đôi với làm đối lập hoàn toàn với thói đạo đức giả của
giai cấp bóc lột, nói một đằng làm một nẻo, thậm chí nói mà không làm. Ngay sau
cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biểu hiện của thói đạo đức giả
ở một số cán bộ, “vác mặt làm quan cách mạng’, nói mà không làm. Sau này, Người
đã nhiều lần bàn đến việc tẩy sạch căn bệnh quan liêu, coi thường quần chúng của
một số cán bộ,đảng viên “miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối
“quan chủ”. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi
ích quần chúng, trái ngược với phương châm và chính sách của Đảng và chính phủ”,
làm tổn hại uy tín của Đảng và chính phủ trước nhân dân.
Nêu gương đạo đức
là một nét đẹp của truyền thống văn hoá Phương Đông. Nói đi đôi với làm phải gắn
liền với nêu gương về đạo đức. Hồ Chí Minh đã có lần chỉ rõ: “nói chung thì các
dân tộc Phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ, một tấm gương sống còn có
giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Với ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh đã
đào tạo các thế hệ cán bộ Việt Nam không chỉ bằng lý luận cách mạng tiên phong,
mà còn bằng chính tấm gương đạo đức cao cả của mình.
Hồ Chí Minh cho rằng, hơn bất cứ một lĩnh vực nào
khác, trong việc xây dựng một nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng phải đặc biệt
chú trọng “đạo làm gương”. Người nói: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng
ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dụng Đảng, xây dựng
các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”. Để làm được như
thế, phải chú ý phát hiện, xây dựng những điển hình người tốt, việc tốt rất gần
gũi trong đời thường, trong các lĩnh vực lao động sản xuất, trong chiến đấu,
trong học tập…Bởi theo người, từng giọt nước chảy về một hướng mới thành suối,
thành sông, thành biển cả. Không nhận thức được điều này là “chỉ thấy ngọn mà
quên mất gốc”. Người nói: “Người tốt, việc tốt nhiều lắm. Ở đâu cũng có. Ngành,
giới, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có”.
Như vậy, một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng
trên một cái nền rộng lớn, vững chắc, khi những chuẩn mực đạo đức trở thành
hành vi đạo đức hàng ngày của toàn xã hội.
- Xây đi đôi với
chống
Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt
chẽ giữa xây và chống. Trong đời sống hàng ngày, những hiện tượng tốt- xấu,
đúng – sai, cái đạo đức và cái vô đạo đức thường đan xen nhau, đối chọi nhau
thông qua hành vi của những con người khác nhau, thậm chí trong mỗi con người.
Chính vì vậy, việc xây và chống trong lĩnh vực đạo đức rõ ràng không đơn giản.
Xây phải đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây.
Xây dựng đạo đức mới, đạo đức cách mạng trước hết phải
được tiến hành bằng việc giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới.
Việc giáo dục đạo đức phải được tiến hành phù hợp với từng giai đoạn cách mạng;
phù hợp với từng lứa tuổi, ngành nghề, giai cấp, tầng lớp và trong từng môi trường
khác nhau; phải khơi dậy được ý thức đạo đức lành mạnh ở mỗi người. Hồ Chí Minh
đã chỉ ra rằng, “mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết
làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất
dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”. Bản thân sự tự giác cũng là một phẩm
chất đạo đức cao quý đối với mỗi người và mối tổ chức, trước hết là Đảng.
Xây phải đi đôi với chống, với việc loại bỏ cái sai,
cái xấu, cái vô đạo đức trong đời sống hàng ngày, Hồ Chí Minh cho rằng, trên
con đường đi tới tiến bộ và cách mạng, đạo đức chỉ mới có thể được xây dựng
thành công trên cơ sở kiên trì mục tiêu chống chủ nghĩa đế quốc, chống những
thói quen, tập quán lạc hậu và loại trừ chủ nghĩa cá nhân. Đây thực sự là “một
cuộc chiến đấu khổng lồ” giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa cách mạng và phản cách mạng.
Để giành được thắng lợi trong cuộc chiến đấu này, điều quan trọng là phải phát
hiện sớm, phải tuyên truyền, vận động hình thành phong trào quần chúng rộng rãi
đấu tranh cho sự lành mạnh, trong sạch về đạo đức.
- Phải tu dưỡng
đạo đức suốt đời
Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ
sở sự tự giác tu dưỡng đạo đức của mỗi người. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, phải làm
thế nào đó để mỗi người tự nhận thấy việc trau dồi đạo đức là một việc”sung sướng,
vẻ vang nhất trên đời”. Người nhắc lại luận điểm của Khổng Tử “chính tâm,…tu
thân…” và chỉ rõ: “chính tâm, tu thân tức là cải tạo. Cải tạo cũng phải trường
kỳ gian khổ, vì đó là một cuộc cách mạng trong chính bản thân của mỗi người. Bồi
dưỡng tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ, đoạn tuyệt với con người cũ để trở
thành con người mới không phải là một công việc dễ dàng…dù khó khăn gian khổ,
nhưng muốn cải tạo thì nhất định thành công”.
Đạo đức cách mạng là đạo đức dấn thân, đạo đức trong
hành động vì độc lập, tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ có trong
hành động, đạo đức cách mạng mới bộc lộ những giá trị của mình. Do vậy, đạo đức
cách mạng đòi hỏi mỗi người phải tự giác rèn luyện thông qua hoạt động thực tiễn,
trong công việc, trong các mối quan hệ của mình, phải nhìn thẳng vào mình,
không tự lừa dối, huyễn hoặc, phải thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện của mình
để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác của mình để khắc phục; phải kiên
trì rèn luyện, tu dưỡng suốt đời như công việc rửa mặt hàng ngày. Hồ Chí Minh
đưa ra một lời khuyên rất dễ hiểu: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa
xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
2. Sinh viên học tập và làm
theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
a. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh
Hồ Chí Minh cho rằng, đối với các
dân tộc phương Đông giàu tình cảm, trọng đạo lý, việc tu dưỡng đạo đức của mỗi
cá nhân, mỗi con người có vai trò vô cùng quan trọng. Riêng với thế hệ trẻ, việc
tu dưỡng này còn quan trọng hơn, vì họ là “người chủ tương lai của nước nhà”;
là cái cầu nối giữa các thế hệ - “người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh
niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”.
Chính vì vậy, việc giáo dục đạo đức và chăm lo cho việc rèn luyện đạo đức của
sinh viên đã được Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm. Nói chuyện với sinh viên,
Người khẳng định: “thanh niên phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví
như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng
những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn hại cho xã hội nữa. Nếu có đức
mà không có tài ví như ông bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho
loài người”.
Người chỉ rõ, việc thực hành tốt đạo
đức cách mạng trong đời sống hàng ngày của mỗi cá nhân không chỉ có tác dụng
tôn vinh, nâng cao giá trị chính họ mà còn tạo sức mạnh nội sinh, giúp họ vượt
qua khó khăn, thử thách.Người viết: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn,
gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước…Khi gặp thuận lợi và
thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ”; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về
mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ
hoá”.
Nhấn mạnh vai trò của đạo đức trong
đời sống của mỗi cá nhân trong xã hội, Hồ Chí Minh không phân biệt đạo đức cách
mạng và đạo đức đời thường, đạo đức cán bộ và đạo đức công dân. Người chỉ rõ,
trong xã hội mỗi người có công việc, tài năng và vị trí khác nhau, người làm việc
to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được
đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.
- Kiên trì tu dưỡng theo phẩm chất đạo
đức Hồ Chí Minh
Cũng như các cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân
dân khác, đối với tầng lớp thanh niên, sinh viên trí thức, Hồ Chí Minh đã sớm
xác định những phẩm chất đạo đức tối cần thiết để họ có phương hướng phấn đấu
rèn luyện. trong bài nói với Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai (7 -5 –
1958), những phẩm chất đó được người tóm tắt trong “sáu cái yêu”:
Yêu tổ quốc: Yêu như thế nào? Yêu thì phải làm sao cho tổ quốc ta
giàu mạnh. Muốn cho
Tổ quốc giảu mạnh thì phải ra sức lao động, ra sức tăng gia sản xuất,
thực hành tiết kiệm.
Yêu nhân dân: Mình phải hiểu rõ sinh hoạt của nhân dân, biết nhân
dân còn khổ cực như thế nào, biết chia sẽ những lo lắng, những buồn vui, những
công tác nặng nhọc của nhân dân.
Yêu Chủ nghĩa xã hội: Yêu tổ
quốc, yêu nhân dân phải gắn liền yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa
xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh
thêm.
Yêu lao động:
Một thật thà yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội thì phải yêu lao động,
vì không có lao động chỉ là lời nói suông
Yêu khoa học và kỷ luật: Bởi vì tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải
có khoa học và kỷ luật.
Theo Người, để có những
phẩm chất như vậy, sinh viên phải rèn luyện cho mình những đức tính như: trung
thành, tận tụy, thật thà và chính trực. Phải xác định rõ nhiệm vụ của mình,
“không phải hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì
cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì
lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào”. Trong học tập, rèn luyện phải
kết hợp lý luận với thực hành, học tập với lao động; phải chống mọi biểu hiện của
chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng háo danh, hám lợi. “chống tâm lý ham sung sướng
và tránh khó nhọc. chống thói quên xem thường lao động, nhất là lao động chân
tay. Chống lười biếng, xa xỉ. chống cách sinh hoạt ủy mị. chống kiêu ngạo, giả
dối, khoe khoang”. Phải trả lời được câu hỏi: Học để làm gì? Học để phục vụ ai?
Phải xác định rõ thế nào là tốt, thế nào là xấu? Ai là bạn, ai là thù?...Người
chỉ rõ: “Đối với người, ai làm gì lợi ích cho nhân dân, cho Tổ quốc ta đều là bạn.
Bất cứ ai làm gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc ta tức là kẻ thù. Đối với mình, những tư tưởng
và hành động có lợi ích cho Tổ quốc, cho đồng bào là bạn. những tư tưởng và
hành động có hại cho Tổ quốc và đồng bào là kẻ thù…Điều gì phải, thì phải cố
làm cho kỳ được, dù là việc nhỏ. Điều gì trái, thì hết sức tránh, dù là một điều
trái nhỏ”
b. Nội dung học tập theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh
- Thực trạng đạo đức lối sống trong
sinh viên hiện nay
Đạo đức Hồ Chí minh là đạo đức cách mạng nêu cao chủ
nghĩa tập thể, tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ,
vô ngã vị tha, chí công vô tư. Dưới ngọn cờ của tư tưởng đó, trong từng giai đoạn
cách mạng, thế hệ trẻ Việt Nam đã lập được nhiều kỳ tích to lớn, đóng góp vào
tiến trình chung của lịch sử dân tộc.
Đi vào nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, một nền đạo đức mới đã và đang hình thành cùng với
công cuộc đổi mới của Đảng, là nguồn động lực quan trọng của công cuộc phát triển
đất nước. Đó là nền đạo dức vừa phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc,
như: yêu nước, thương người, sống nghĩa tình trọn vẹn, cần. kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư với những yêu cầu mới, những nội dung mới do đòi hỏi của dân tộc
và thời đại. nhớ đó, phần lớn sinh viên, thanh niên trí thức vẫn giữ được lối sống
tình nghĩa, trong sạch, lành mạnh; khiêm tốn, luôn cần cù và sáng tạo trong học
tập; sống có bãn lĩnh, có chí lập thân, lập nghiệp, năng động, nhạy bén, dám đối
mặt với những khó khăn, thách thức, dám chịu trách nhiệm, không ỷ lại, chây lười;
luôn gắn bó với nhân dân, đồng hành cùng dân tộc, phấn đấu cho sự nghiệp dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường,
hội nhập quốc tế, do sự bùng phát của lối sống thực dụng chạy theo danh lợi bất
chấp đạo lý, đã dẫn đến những tiêu cực trong xã hội ngày càng phổ biến. những
biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục, sự chống
phá của các thế lực phản động quốc tế nhằm thực hiện âm mưu “diễn biến hòa
bình” đã tác động không nhỏ đến đời sống đạo đức công dân, ảnh hưởng lớn đến
tâm tư, tình cảm, ý chí phấn đấu của sinh viên, thanh niên trí thức. hậu quả là
đã có một bộ phận sinh viên phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng phấn
đấu, không có chí lập thân, lập nghiệp, hút xách; thiếu trung thực, gian lận
trong thi cử, chạy điểm, chạy thầy, chạy trường, mua bằng cấp… đây là những biểu
hiện không thể coi thường.
- Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà đạo đức lỗi lạc mà còn là một
tấm gương đạo đức vô song. Chính điều này đã đem lại cho tư tưởng và tấm gương
đạo đức của Người có một sức sống mãnh liệt và sự cổ vũ lớn lao không chỉ đối với
nhân dân Việt Nam mà còn cả với nhân dân thế giới trong cuộc đấu tranh vì dân
chủ và tiến bộ xã hội. để trở thành người có ích cho xã hội, người chủ tương
lai của nước nhà, thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và sinh viên, thanh niên trí thức
nói riêng cần phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Dưới đây
là một số nội dung, cơ bản:
+ Học trung với nước, hiếu với dân,
suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người Việt Nam đẹp nhất và là một
trong những con người đẹp nhất của thời đại chúng ta.
Ngay từ thưở thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách rõ
ràng và dứt khoát mục tiêu hiến dâng cả cuộc đời mình cho cách mạng. người đã
chấp nhận mọi hy sinh, luôn kiên định, dũng cảm và sáng suốt để vượt qua mọi
khó khăn, gian khổ, “thắng không kiêu, bại không nản”, “giàu sang không thể quyến
rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục” nhằm thực hiện
bằng được mục tiêu đó. Người nói: bài học chính trong đời tôi là tuyệt đối và
hoàn toàn cống hiến đời mình cho sự nghiệp giải phóng và thống nhất tổ quốc, giải
phóng giai cấp công nhân và dân tộc bị áp bức, cho sự thắng lợi của chủ nghĩa
xã hội, cho sự hợp tác anh em và hòa bình giữa các dân tộc; “một ngày đồng bào
còn chịu khổ là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”. Đến lúc phải rời thế
giới này, điều luyến tiếc duy nhất của Người là “không được phục vụ lâu hơn nữa,
nhiều hơn nữa.”
Tấm gương vì nước, vì dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người của Hồ Chí Minh đã
được nhân dân thể giới và bạn bè quốc tế thừa nhận và kính phục. họ đã dùng những
lời đẹp đẽ và trang trọng nhất để ca ngợi chủ tịch Hồ Chí Minh : “nhà cách mạng
triệt để”, “nhà hoạt động quốc tế thần thoại”, “một nhân vật nổi bậc nhất trong
thời đại của chúng ta”, “một tấm gương sáng chói, những phẩm chất cách mạng và
nhân dạo cao cả nhất. hiếm có một nhà lãnh đạo nào trong những giờ phút thử
thách lại tỏ ra sáng suốt, bình tĩnh, gan dạ, quên mình, kiên nghị và dũng cảm
một cách phi thường như vậy”, một con người “mà cái chết là mầm sống của sự sống
và là nguồn cổ vũ đời đời bất diệt”…
+ Học cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn
phi thường.
Hồ Chí Minh thường dạy cán bộ, đảng viên phải cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư, ít lòng ham muốn vật chất, đó là tư cách người cán
bộ cách mạng và tự mình, Người đã gương mẫu thực hiện. suốt đời Người sống
trong sạch, thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, luôn vì nước, vì
dân, vì con người không gợn chút riêng tư. Cố thủ tưởng Phạm Văn Đồng viết: “Hồ
Chủ tịch không có cái gì riêng. Cái gì của nước, của dân là của người. quyền lợi
tối cao của nước, lợi ích hàng ngày của dân là sự lo lắng đêm ngày của Người.
Gia đình của Người là đại gia đình Việt Nam”.
Là lãnh tụ cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi khinh mọi sự xa
hoa, không ưa chuộng những nghi thức trang trọng cầu kỳ, suốt đời giữ một nếp sống
thanh bạch, tao nhã, giản dị, khiêm tốn, khắc khổ, cần lao và tranh đấu để mưu
cầu hạnh phúc cho dân. Toàn thể nhân dân Việt Nam vả thế giới đều biết, bộ kaki
bạc màu, đôi dép lốp mòn, cái nhà sàn gỗ đơn sơ của chủ tịch Hồ Chí Minh… nói về
những đức tính vĩ đại của Hồ Chí Minh, X.Agienđê – Vị tổng thống anh hùng của
nước cộng hòa Chilê đã khái quát: “Nếu như muốn tìm một sự tiêu biểu cho tất cả
cuộc đời của chủ tịch Hồ Chí Minh thì đó là đức tính vô cùng giản dị và sự
khiêm tốn phi thường”
+ Học đức tin tuyệt đối
vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng hết sức phục vụ nhân
dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người.
Hồ Chí Minh có tình thương yêu bao la đối với con người. tình
thương đó gắn liền với niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh và trí tuệ của nhân dân.
Người luôn dạy cán bộ, đảng viên, việc gì có pợi cho dân thì phải hết sức làm,
việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh; phải gần dân, hiểu dân, học dân,
kính trọng dân; hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Người phê phán quyết liệt đầu
óc “quan cách mạng” và tự mình, Người thường xuyên đi xuống cơ sở để tìm hiểu,
“lắng nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những người không quan trọng”.
Là người có uy tín rất cao và sức hấp dẫn rất lớn, song không bao giờ Hồ Chí
Minh đặt mình cao hơn nhân dân, chỉ tâm niệm suốt đời là công bộc của dân, “như
một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận”.
Với tình thương yêu bao la, Hồ Chí Minh dành cho tất cả, chia
sẻ với mỗi người những nỗi đau riêng. Người nói, trong “mỗi người, mỗi gia đình
đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi
gia đình thì thành mỗi đau khổ của tôi”. Cách mạng Tháng Tám thành công, cũng
là lúc Việt Nam vừa trải qua nạn đói khủng khiếp, Hồ Chí Minh chủ trương tăng
gia sản xuất, mỗi tháng mỗi người nhịn ăn ba bữa cơm để góp gạo cứu đói và Người
cũng đóng góp lon gạo của mình như mọi người dân. Đi thăm trại tù binh trong
chiến dịch biên giới về, Người không còn khoác áo ngoài vì Người đã cho tên
quan ba thầy thuốc người Pháp bị rét cóng.
Lòng nhân ái, khoan dung, nhân hậu của Hồ Chí Minh bắt nguồn
từ đại nghĩa của dân tộc, nên có sức mạnh và sự cảm hóa to lớn trong việc xây dựng
và tái tạo lương tri. Ở Hồ Chí Minh, thương người là một tình cảm lớn. Cho nên,
khi làm cách mạng, Hồ Chí Minh đặt vấn đề tự do và hạnh phúc đi đôi. Đó chính
là biểu hiện chủ nghĩa nhân văn cộng sản, vừa thánh thiện, vừa gần gũi, đã làm
xúc động trái tim nhân loại và Người được suy tôn như “một ông thánh cộng sản”;
“một con người của huyền thoại”. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng có lần bình luận:
“Long nhân đạo, tình thương đồng bào, đó là điều sâu sắc nhất, tốt đẹp nhất
trong con người Hồ Chí Minh.
+ Học tấm gương về ý
chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thủ thách, gian nguy để
dạt được mục đích cuộc sống.
Cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh là một chuỗi những năn
tháng vô cùng gian khổ. Hai lần ngồi tù, một lần đã nhận án tử hình, có giai đoạn
hoạt động rất sôi nổi, được đánh giá rất cao, có giai đoạn bị hiểu nhầm, nghi kỵ,
không được giao nhiệm vụ…song nhờ ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, Hồ Chí
Minh đã bình tĩnh, kiên cường, chủ động vượt qua mọi thử thách, gian nguy, kiên
trì mục đích cuộc sống, bảo vệ chân lý, giữ vững quan điểm cách mạng của mình.
Người đã làm thơ để tự răn:
Muốn
nên sự nghiệp lớn
Tinh
thần càng phải cao
Dũng cảm, quyết tâm, bền bỉ, bất khuất là những đặc trưng
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Một tờ báo nước ngoài đã viết: “đằng sau cái cốt
cách dịu dàng của Cụ Hồ là một ý chí sắt thép. Dưới cái vẻ bề ngoài giản dị là
một tinh thần quật khởi anh hùng không có gị uy hiếp nổi”.
Trong tình hình hiện nay, để phong trào “học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của sinh viên có hiệu quả, đòi hỏi phải có sự phối
kết hợp của nhiều nhân tố; Sự giáo dục và việc tự tu dưỡng, rèn luyện của sinh
viên; sự nêu gương của mọi người trong xã hội, của bố mẹ trong gia đình, của
cán bộ , đảng viên, của các thầy, cô giáo, các cán bộ quản lý giáo dục và sự hướng
dẫn của dư luận xã hội và pháp luật. Nếu coi thường một trong những nhân tố
trên, việc học tập và rèn luyện khó đạt được kết quả như mong muốn.
III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người
a. Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể
- Hồ Chí Minh xem xét
con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực và các hoạt động của
nó. Con người luôn có xu hướng vươn lên cái Chân, Thiện, Mỹ, mặc dù “có thế
này, thế khác”.
Hồ Chí Minh có cách nhìn nhận, xem xét con người trong tính
đa dạng của nó: đa dạng trong quan hệ xã hội; đa dạng trong tính cách, khát vọng,
phẩm chất, khả năng, cũng như năm ngón tay dài ngắn khác nhau nhưng đều hợp
nhau lại nơi bàn tay; mấy mươi triệu người Việt Nam, có người thế này, thế khác
nhưng đều cùng là nòi giống Lạc Hồng; đa dạng trong hoàn cảnh xuất thân, điều
kiện sống, làm việc.
- Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt
đối lập: thiện và ác, hay và dở, tốt và xấu, hiền và dữ,…bao gồm cả tính người
– Mặt xã hội và tính bản năng – mặt sinh học của con người. Theo Hồ Chí Minh,
con người có tốt, có xấu, nhưng “dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có
tình”.
b. Con người cụ thể, lịch sử
Hồ Chí Minh cũng dùng khái niệm “con người” theo nghĩa rộng
trong một số trường hợp nhưng đặt trong một bối cảnh cụ thể và một tư duy chung,
còn phần lớn, Người xem xét con người trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ
giai cấp, theo giới tính, theo lứa tuổi, nghề nghiệp, trong khối thống nhất của
cộng đồng dân tộc và quan hệ quốc tế. Đó là con người cụ thể, hiện thực, khách
quan.
c. Bản chất con người mang tính xã hội
- Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá
trình lao động, sản xuất, con người dần nhận thức được các hiện tượng, quy luật
của tự nhiên, của xã hội; hiểu về mình và hiểu biết lẫn nhau…, xác lập các mối
quan hệ giữa người với người.
- Con người là sản phẩm của xã hội. Trong quan niệm của Hồ
Chí Minh, con người là sự tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, chủ yếu
bao gồm các quan hệ: anh, em, họ hàng, bầu bạn, đồng bào, loài người.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của
con người và chiến lược “trồng người”
a. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người
- Con người là vốn quý
nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, “trong bầu trời không có gì quý bằng nhân
dân, trong thế giới không có gì quý bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Vì
vây, “vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều
thế cả”. Người cho rằng; “việc đễ mấy, không có nhân dân cũng chịu, việc khó mấy
có dân liệu cũng xong”. Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và
tinh thần. Hồ Chí Minh tổng kết ngắn gọn: dân ta tốt lắm. Người phân tích phẩm
chất tốt đẹp của dân từ lòng trung thành và tin tưởng vào cách mạng, vào Đảng,
không sợ gian khổ, tù đày, hy sinh, đến việc dân nhường cơm, sẻ áo, chở che,
đùm bọc, bảo vệ, nuôi nấng bộ đội và cán bộ cách mạng.
Dân ta là tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ biết “giải quyết
mọi vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những
đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Đặc biệt là lòng sốt sắng, hăng hái của
dân để thực hiện con đường cách mạng. Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc rằng với
tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc ta, với lòng yêu nước và
chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng ta có thể thắng lợi,
mà chúng ta nhất định thắng lợi.
Nhân dân là yếu tố quyết định thành công của cách mạng. “lòng
yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai
thắng nổi”.
- Con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của cách mạng; phải coi trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố
con người
Vì sống gần dân, với dân, giữa lòng dân, hiểu rõ dân tình,
dân tâm, dân ý. Hồ Chí Minh thấy rõ yêu cầu giải phóng dân tộc, giải phóng con
người, giải phóng xã hội. Nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.
Năm 1911, giữa lúc đất nước đang bị xâm lược, nhân dân phải chịu cảnh lầm than,
Người ra đi với ý chí” quyết giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào”. Người xác
định rõ trách nhiệm của Người cũng là của Đảng và chính phủ là “làm sao cho nước
ta hoàn toàn được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Ở Hồ Chí Minh, có sự cảm nhận, thông cảm sâu sắc với thân phận
những người cùng khổ và nô lệ lầm than. Nhưng không phải là sự cảm thông kiểu
tôn giáo; ngược lại, Người có niềm tin vững chắc vào trí tuệ, bản lĩnh của con
người, ở khả năng tự giải phóng của chính bản thân con người. người làm hết sức
để xây dựng, rèn luyện con người và quyết tâm đấu tranh để đem lại độc lập, tự
do, hạnh phúc cho con người. Người xác định con người là mục tiêu trong điều kiện
cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Khi đất nước còn nô lệ, lầm than thì mục
tiêu trước hết, trên hết là giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc. Sau khi
chính quyền đã về tay nhân dân, thì mục tiêu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa
bệnh lại được ưu tiên hơn, bởi vì, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Vì vậy, chúng ta phải thực hiện
ngay: làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân
có học hành. Đến Di chúc, Người viết: “đầu
tiên là công việc đối với con người”.
Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có
thể là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt; lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ
phận, giai cấp, tầng lớp và cá nhân. Với hoạt động thực tiễn thì việc gì lợi
cho dân, dù nhỏ mấy – ta phải hết sức làm, việc gì hại cho dân, dù nhỏ mấy – ta
hết sức tránh.
Hồ Chí Minh có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại và năng
lực sáng tạo của quần chúng.
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh nhận rõ: “muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”, “có
dân thì có tất cả”.
Niềm tin vào sức mạnh của dân còn được nhận thức từ mối quan
hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nếu không có nhân
dân thì chính phủ không đủ lực lượng; nếu không có chính phủ thì nhân dân không
có ai dẫn đường. Đảng lãnh đạo, nhưng nhân dân là chủ. Dân như nước, bộ đội như
cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. Tin dân, học dân, tôn trọng dân, dựa
vào dân sẽ tạo nên sức mạnh vô địch. Bởi vì, sự nghiệp cách mạng giành độc lập
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện được với sự giác ngộ
đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân dân.
Hồ Chí Minh tin ở dân còn xuất phát từ niềm tin vào tình người.
Đã là người cộng sản thì phải tin nhân dân và niềm tin quần chúng sẽ tạo nên sức
mạnh cho người cộng sản. Người nói: dân tộc ta là một dân tộc anh hùng.
Trong khi giữ vững niềm tin vào dân thì phải chống các bệnh: xa nhân dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân;
không tin cậy nhân dân; không hiểu biết nhân dân; không yêu thương nhân dân. Không
yêu thương và tin tưởng nhân dân là nguyên nhân của căn bệnh nguy hiểm – bệnh
quan liêu, mệnh lệnh. Bệnh này sẽ dẫn đến kết quả là “hỏng việc”.
Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm
vi cả nước, toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông
dân. Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Nhà nước mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh lấy công – nông – trí
làm nền tảng. Từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười phải nhìn nhận và đánh giá
đúng giai cấp đứng ở trung tâm thời đại mới, đó là giai cấp công nhân. Chỉ có
giai cấp công nhân với những đặc điểm chung và riêng mới lãnh đạo được dân tộc
đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản. Muốn vậy, giai cấp công nhân chỉ có liên minh với
giai cấp nông dân và gắn bó với dân tộc mới trở thành lực lượng hùng mạnh.
Không phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải là
những con người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn
hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa hàng
ngàn năm của dân tộc Việt Nam… Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản
trong động lực con người.
Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động
có tổ chức, có lãnh đạo. Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Giữa con người – mục tiêu và cong người – động lực, càng chăm
lo cho con người - mục tiêu tốt bao nhiêu, thì sẽ tạo thành con người – động lực
tốt bấy nhiên và ngược lại.
Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lưc trong con người và tổ chức. Đó là chủ nghĩa cá nhân,
thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: thói quen truyền thống lạc hậu,
tàn tích xã hội cũ, bảo thủ, rụt rè, không dám nói, không dám làm, không dám đề
ra ý kiến, tóm lại không dám đổi mới và sáng tạo.
b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược” trồng người”
- “Trồng người” là yêu
cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng
Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực.
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo, rèn luyện con người.
Người nói đến “lợi ích mười năm trồng cây, trăm năm trồng người” và mục tiêu
xây dựng chủ nghĩa xã hội là những quan điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ bản,
lâu dài, nhưng cũng rất cấp bách. Nó liên quan đến nhiệm vụ” trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa” và “trồng người”. Tất cả những điều này phản
ánh tư tưởng lớn về tầm quan trọng có tính quyết định của nhân tố con người, tất
cả vì con người, do con người.
Như vậy, con người phải được dặt vào vị trí trung tâm của sự
phát triển. Nó vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục và đào tạo theo nghĩa hẹp.
- “Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa”
+ Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã
hội tạo ra. Nhưng ở đây trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội thì “trước hết
cần có những con người xã hội chủ nghĩa”.
Điều này cần được hiểu là ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người
có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người mới xã hội chủ nghĩa, làm
gương, lôi cuốn xã hội. Công việc này là một quá trình lâu dài, không ngừng
hoàn thiện, nâng cao và thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình, cá
nhân mỗi người.
+ Mỗi bước xây dựng những con người như vậy là nấc thang xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “xây dựng chủ nghĩa
xã hội” và “con người xã hội chủ nghĩa”.
+ Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa
có hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Một
là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống (Việt Nam và
phương Đông). Hai là, hình thành những
phẩm chất mới như: có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức xã hội chủ nghĩa;
có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ (bản thân, gia đình, xã hội, thiên nhiên,…);
có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng.
- Chiến lược “trồng người”
là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội.
Để thực hiện chiến lược “trồng người”, cần có nhiều biện
pháp, nhưng giáo dục và đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì, giáo
dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược
lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến thanh niên.
Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện về cả đức,
trí, thể, mỹ, phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội
chủ nghĩa lên hàng đầu. hai mặt đức, tài thống nhất với nhau, không tách rời
nhau, trong đó đức là gốc, là nền tảng cho tài năng phát triển. Phải kết hợp giữa
nhận thức và hành động, lời nói với việc làm… Có như vậy mới có thể “học để làm
người”.
“Trồng người” là công việc “trăm năm”, không thể nóng vội “một
sớm một chiều”, không phải làm một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện, đến
đâu hay đến đó. Nhận thức và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền
bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người, trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng: “Việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học”.
KẾT
LUẬN
Hồ Chí Minh được cả thế giới tôn vinh là Nhà văn hóa kiệt xuất, không chỉ vì Người đã sáng tạo ra một thời đại
mới và một nền văn hóa mới ở Việt Nam, mà còn là vì những đóng góp mới của Người
vào lý luận và sự phát triển chung của văn hóa nhân loại.
Trong lĩnh vực văn hóa,
Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy vai trò và sức mạnh của văn hóa, đã sớm đưa
văn hóa vào chiến lược phát triển của đất nước.
Ngay sau khi giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính
phủ bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng một nền văn hóa mới ở Việt Nam bằng việc
phát động phong trào bình dân học vụ, diệt giặc
dốt, nâng cao dân trí và xây dựng đời
sống mới, xây dựng và phát triển thuần phong mỹ tục… đưa những giá trị văn
hóa đi sâu vào quần chúng, coi nó như một sức mạnh vật chất, một động lực, một
mục tiêu, một hệ điều tiết xã hội trong quá trình phát triển. Đây là một quan
điểm hoàn toàn mới mẻ, điều mà mãi đến những năm 80 của thể kỷ XX, UNESCO mới tổng
kết và coi đó như một quy luật phát triển của xã hội.
Phát triển quan điểm của C.Mác: văn hóa không thể đứng ngoài
mà phải ở trong kinh tế và chính trị, Hồ Chí Minh bổ sung thêm: văn hóa cũng là
một mặt trận, văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Bàn về chức năng của
văn hóa, Người cho rằng: “văn hóa phải
soi đường cho quốc dân đi” (chức năng nâng cao nhận thức, mở rộng hiểu biết);
“văn hóa phải làm cho ai cũng có lý tưởng
tự chủ, độc lập, tự do” (chức năng bồi dưỡng tinh thần vì nước quên mình);
“văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười
biếng, phù hoa, xa xỉ” (xây dựng và hoàn thiện đạo đức con người)… Hầu hết
những luận điểm có tính chân lý này, Hồ Chí Minh đều đưa ra trong thời kỳ 1945
– 1946, khi Người bắt tay vào việc xây dựng một nền văn hóa mới ở Việt Nam. Thực
tiễn chứng minh rằng những luận điểm đó không chỉ có ý nghĩa với Việt Nam mà
còn có ý nghĩa quốc tế rất sâu sắc. Đánh giá cao tư tưởng và những đóng góp của
Hồ Chí Minh, Nghị quyết tôn vinh Người là anh hùng giải phóng dân tộc, danh
nhân văn hóa thế giới của UNESCO có đoạn: “Những tư tưởng của Người là hiện
thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc
của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”.
Trong lĩnh vực đạo đức,
Hồ Chí Minh đã có những đóng góp rất đặc sắc vào tư tưởng đạo đức học
Mácxít. Những đóng góp đó đã nâng Người lên vị trí một nhà đạo đức học lỗi lạc,
được thế giới thừa nhận.
Do nhiều nguyên nhân, C.Mac, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin nói nhiều
về đạo đức, song chưa có điều kiện bàn nhiều về vai trò của đạo đức trong đời sống
xã hội. Hồ Chí Minh đã phát triển, hoàn thiện tư tưởng, đạo đức học Mácxít về
vai trò và sức mạnh của đạo đức, về những chuẩn mực đạo đức cơ bản và những
nguyên tắc xây dựng một nền đạo đức mới phù hợp với Việt Nam. Nhờ đó, đã tạo
nên một cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới có giá trị lý
luận và thực tiễn rất quan trọng.
Về mặt lý luận, tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới với nội dung sâu sắc và mới mẻ, có
ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo con người Việt
Nam. Trên cơ sở quán triệt quan điểm giáo dục đạo lý để làm người, coi con người
là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao
nhất của chế độ ta, con người vửa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã xác định giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu.
Con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất
và văn hóa, ngày càng được quan tâm chăm sóc, phát triển cao về trí tuệ, cường
tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, là động lực của
chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ ưu việt nhưng phải hiểu sự ưu
việt trên hai mặt gắn bó với nhau: Một
là, nó là kết quả của những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của toàn dân ta, với
những con người phát triển cả về trí lực và khả năng lao động, về tính tích cực
chính trị - xã hội, về đạo đức, tình cảm trong sáng. Hai là, đó là xã hội do những con người mới làm chủ, một xã hội
không phải do con người mà còn vì con người.
Về mặt thực tiễn, sự
phát triển con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong việc xếp
hạng các nước trên thế giới. Năm 1990, Chương trình phát triển của Liên hợp quốc
(UNDP) đã đưa ra chỉ dẫn nhằm đánh giá tiến bộ kinh tế và xã hội của một nước,
không chỉ ở tổng sản phẩm quốc dân như trước đây, mà dựa trên cơ sở của ba chỉ
tiêu cơ bản: thu nhập, trình độ giáo dục
và tuổi thọ.
Hướng bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người Việt Nam là không ngừng gia
tăng tính tự giác, năng động, tự chủ, phát huy sức mạnh bên trong của mỗi cá
nhân, chú trọng xây dựng những mặt thuộc hạ
tầng của đời sống xã hội như: giáo dục, y tế, phúc lợi công cộng, kết hợp với
sức mạnh của cả cộng đồng, xây dựng nền tảng tinh thần vững chắc của chế độ mới.
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta nhấn mạnh việc chăm lo cho hạnh
phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta. Trong mục tiêu
chung “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Đảng ta phấn đấu làm
cho nhân dân có cuộc sống no đủ, có nhà ở tương đối tốt, có điều kiện thuận lợi
về đi lại, học hành, chữa bệnh, có mức hưởng thụ văn hóa khá; quan hệ xã hội
lành mạnh, lối sống văn minh, gia đình hạnh phúc.
Xét đến cùng, đó là tư tưởng phấn đấu cho độc lập, tự do, hạnh phúc của
con người, của dân tộc và nhân loại. Nói cách khác, tất cả vì con người, do con người.
Hồ Chí Minh thường nói đến “văn minh thắng bạo tàn”. Văn minh ở đây được
hiểu là trình độ phát triển đời sống tinh thần và trình độ phát triển của khoa
học – kỹ thuật. Xã hội văn minh là xã hội có những con người nhân văn, tức là
những con người phát triển cả đức, trí, thể, mỹ; lý tưởng và tình cảm; nhân ái
và khoan dung. Xã hội mới không chấp nhận con người phát triển một chiều, phiến
diện, què quặt. Muốn con người trở thành vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự
nghiệp cách mạng thì phải phát huy vai trò của giáo dục và đào tạo. Bởi vì,
giáo dục bao gồm gia đình – nhà trường – xã hội, góp phần hình thành, phát triển
và hoàn thiện nhân cách con người. “Trồng người” là nhằm phát triển toàn diện
con người, nâng cao trình độ “người”, hướng con người tới Chân – Thiện – Mỹ.
Tư tưởng về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới là một bộ phận rất
quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ lâu, tư tưởng đó đã trở
thành một bộ phận của nền văn hóa dân tộc và là ngọn đèn pha soi đường cho công
cuộc xây dựng một nền văn hóa và đạo đức mới ở Việt Nam. Nghiên cứu và học tập
tư tưởng văn hóa, đạo đức Hồ Chí Minh, cũng như noi theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh không chỉ đơn thuần là vấn đề nhận thức, mà còn là trách nhiệm chính
trị của cả dân tộc, nhằm xây dựng Việt Nam thành một quốc gia văn minh trong thời
kỳ hội nhập.
……………/…………….
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét