Chương IV VĂN HOÁ
I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ C ỦA VĂN HOÁ
Khái niệm
Văn hoá là một
khái niệm đa ý nghĩa. Khái niệm này thể hiện trong toàn bộ mọi hoạt động, mọi
lĩnh vực của x ã hội, của cộng đồng, của mỗi gia đình và cho tới từng cá nhân.
Đến nay, văn hoá vẫn l à một trong những khái niệm phức tạp và khó xác định nhất.
về mặt ngữ
nghĩa, khái niệm văn hoá có nguồn gốc từ tiếng La tinh “Cultus”, (tiếng Anh “Culture”, tiếng Nga
“Kynbmypá’"). Từ này có ý nghĩa ban đầu l à gieo
trồng (còn có nghĩa là cây trồng). Cultus Agri là “gieo trồng ruộng đất” và
Cultus Animi là “gieo trồng tinh thần” hay “canh tác tinh thần” tức l à “sự
giáo dục bồi dưỡng cho tâm hồn con người”. Thomas Hobbes, nh à triết học
người Anh đã từng nói : “Lao động dành cho đất gọi là sự
gieo trồng V à dạy dỗ trẻ em gọi l à gieo trồng
tinh thần ”.
Hiện nay, theo số liệu thống k ê, có tới hơn 400 định
nghĩa về vă n hoá. Mỗi định nghĩa đều xuất phát từ những cứ liệu ri êng, mục
đích riêng phù h ợp với vấn đề cần quan tâm nghi ên cứu.
Các nhà tâm lý học xem xét văn hoá từ giác độ tác động của
nó đến cá nhân trong quá trình xã hội hoá: “Văn hoá là toàn thể những môn học cho phép cá nhân trong xã h ội nhất định
đạt tới sự phát triển nào đó về cảm năng, về ý thức phê phán Và các năng lực nhận
thức, các khả năng sáng tạo” (Tean Ladriere,
UNESCO 1977).
Theo các nhà triết học, khái niệm văn hoá là: “ Toàn bộ những giá trị vật chất, tinh thần, do con người tạo ra trong
quá tr ình thực tiễn lịch sử xã hội và đặc trưng cho trình độ đạt được trong sự
phát triển lịch sử của xã hội”.
Các nhà xã h ội
học cũng định nghĩa văn hoá theo nhiều cách khác nhau. Có người đồng nhất văn
hoá với văn minh theo nghĩa dân tộc học một cách rộng nhất, chỉ to àn bộ tập hợp
bao gồm cả khoa học, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục, những
kỹ năng v à thói quen khác do con người thu nhận được với tư cách thành viên của
xã hội.
Một số người khác lại chủ trương: “Văn hoá là tổng thể những hành vi học hỏi được các giá trị, niềm tin,
ngôn ngữ, luật pháp v à kỹ thuật của các th ành viên sống trong một xã hội nhất định nào đó
Hoặc một cách tiếp cận khác về văn hoá: “ Văn hoá là một hệ thống các khuôn mẫu và chuẩn mực được soạn thảo (được
ghi lại dưới hình thức này hay hình thức khác trong các tập thể) về h ành vi,
hoạt động, giao tiếp và tương tác của con người, có chức năng điều tiết v à khống chế trong
tập thể lớn
Qua những định
nghĩa về văn hoá đã dẫn trên, có thể thấy, tuy có nhiều điểm riêng theo từng
góc độ của nh à nghiên cứu, nhưng khái quát lại, giữa những định nghĩa này có
các điểm chung sau đây:
Văn hoá là một trong những thiết chế c ơ bản của đời sống
x ã hội.
Là một hệ thống (các giá trị, các cơ cấu, kỹ thuật, thể
chế các tư tưởng...) được hình thành trong quá trình ho ạt động sáng tạo của
con người, được bảo tồn v à truyền lại cho các thế hệ sau.
Hệ thống văn hoá có chức năng như là một khuôn mẫu chuẩn
mực quy định các h ành vi xã hội. Mỗi cá nhân muốn trở th ành con người xã hội,
muốn hoà nhập vào cộng đồng xã hội thì phải tiếp thu, tuân thủ các chuẩn mực
đó. Về phương diện này, có thể coi văn hoá của xã hội là mục tiêu của quá trình
xã hội hoá cá nhân v à nhóm.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về văn hoá như sau: “
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt h àng ngày về mặc, ở và phương
thức sử dụng. To àn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức
là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt, cùng với biểu hiện
của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và
đòi hỏi của sự sinh tồn”. (Hồ Chí Minh,
toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H à Nội, 2000, T3,
tr. 431).
Rõ ràng, có
th ể thấy quan niệm về văn hoá của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang tính khái quát
cao, đồng thời cũng khá tương đồng với định nghĩa văn hoá của Tổng thư ký
UNESCO Federico Mayor.
Như vậy, có thể đi đến sự thống nhất khái niệm văn hoá
theo định nghĩa của Tổng thư ký UNESCO Federico Mayor như sau: “Văn hoá
là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá
nhân v à các cộng đồng) trong quá khứ và hiện tại. Qua các
thế kỷ, hoạ t động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền
thống v à thị hiếu - những yếu tố xác định đặc
tính ri êng của mỗi dân tộc
Khái niệm văn
hoá vô c ùng phức tạp. Không ít trường hợp, người ta đồng nhất khái niệm văn
hoá với khái niệm họ c vấn. Sự đồng nhất này thường biểu hiện r õ nét trong các
v ăn bản có tính pháp quy khi quy trình độ văn hoá về trình độ học vấn. Thực ra
th ì sự đồng nhất này hết sức phiến diện và không khái quát được giá trị văn
hoá.
Cũng không thể
đồng nhất khái niệm vă n hoá với khái niệm văn minh. Văn minh chỉ đồng nghĩa với
văn hoá khi người ta đối lập văn minh với bạo tàn. Văn minh là trình độ phát
triển đạt đến một mức nhất định của x ã hội loài người, có nền văn hoá vật chất
v à tinh thần với những đặc trưng riêng. Văn minh thường được dùng để chỉ trình
độ phát triển của nhân loại đạt tới ở thời kỳ lịch sử n ào đó. Đề cập đến văn
minh tức là đề cập đến bốn nội dung cơ bản của văn minh, đó l à:
Đô thị;
Nhà nước;
Chữ viết;
Trình độ kỹ
thuật.
Từ đó, xuất hiện c ác khái niệm văn minh như văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp...
Khi đề cập tới
văn hoá, không thể không nhắc đến các khái niệm văn hiến
và văn vật. Văn hiến là truyền thống văn hoá lâu đời v à tốt đẹp. Có
thể hiểu văn hiến là văn hoá theo cách dùng và cách hi ểu trong lịch sử. Văn hiến
thi ên về những giá trị tinh thần do những người có đức, có tài tạo ra trong lịch
sử. Văn hiến l à khái niệm của văn hoá phương Đông nói chung và Việt Nam nói
riêng. Còn văn vật là truyền thống văn hoá tốt đẹp thể
hiện ở nhiều nhân t ài trong lịch sử và nhiều di tích lịch sử. Văn vật c òn là
khái ni ệm hẹp để chỉ những công tr ình, những hiện vật có giá trị lịch sử v à
giá trị nghệ thuật cao.
Tóm lại, bàn
tới văn hoá l à bàn tới con người, là đề cập đến việc phát huy những năng lực bản
chất của con người nhằm ho àn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Do đó, khái
niệm văn hoá h àm chứa tính nhân văn, nhân bản.
Cơ sở của mọi
hoạt động văn hoá là hướng tới những khát vọng vĩnh hằng của nhân loại l à Chân,
Thiện và Mỹ. Văn hoá và xã hội là hai phạm trù
khác nhau nhưng lại gắn bó với nhau, trong đó, x ã hội có phạm vi bao quát hơn.
Một xã hội,
xét một cách chung nhất l à một nhóm người chung sống với nhau trong một thời
gian, thiết lập các tổ chức quan hệ ri êng. Chính hoạt động và quan hệ xã hội
đã tạo nên văn hoá. Như vậy, có xã hội thì tất yếu phải có nền văn hoá tương ứng.
Một nền văn hoá bao giờ cũng tồn tại trong l òng một xã hội và được lưu truyền
từ thế hệ n ày sang thế hệ khác, thông qua quá tr ình xã hội hoá.
Con người là một
yếu tố trong vũ trụ, chịu sự quy định chặt chẽ của những điều kiện môi trường sống
xung quanh. Nhưng, con người, đồng thời lại sống trong một trật tự x ã hội với
những thiết chế nhất định, với những khả năng hoạt động sáng tạo nhất định, hay
nói cách khác là có văn hoá.
Nếu giới tự
nhiên là cái nôi đầu tiên nuôi sống con người, thì văn hoá, là cái nôi thứ hai,
mà ở đó, toàn bộ đời sống tinh thần của con người được hình thành, nuôi d ưỡng
và phát triển. Con người không thể tồn tại khi tách rời môi trường trường tự
nhiên, cũng như con người không thể thực sự là con người nếu tách khỏi môi trường
xã hội và môi trường văn hoá.
Văn hoá là sự
phát huy các năng lực bản chất của con ng ười, là sự thể hiện đầy đủ nhất chất
người dù trong bất kỳ lĩnh vực nào kinh tế, chính trị, xã hội... Ngày nay,
trong ngôn ng ữ của xã hội, người ta sử dụng một cách phổ biến các khái niệm có
li ên quan đến văn hoá như văn hoá chính trị, văn hoá ứng xử, văn hoá lao động,
văn hoá gia đ ình, văn hoá thẩm mỹ, văn hoá nghệ thuật... Lẽ dĩ nhi ên, điều
này không loại trừ những lĩnh vực hoạt động ri êng của văn hoá, nghĩa l à những
hoạt động không thuộc lĩnh vực kinh tế, chính trị, x ã hội...
Hoạt động văn
hoá l à hoạt động sản xuất các giá trị tinh thần v à những vật chất chứa đựng
giá trị tinh thần, nhằm giáo dục con ng ười khát vọng vươn tới Chân,
Thiện và Mỹ cũng như năng lực sáng tạo ra
chúng trong đời sống x ã hội. Do đó, có thể nói, văn hoá l à động lực cho sự
phát triển của mỗi dân tộc cũng như của toàn thể nhân loại. Đồng thời, văn hoá
còn là nền tảng tinh thần của mọi x ã hội.
Văn hoá có
vai tr ò hết sức to lớn đối với sự phát triển kinh tế. Nói tới con người là nói
tới văn hoá, vì toàn bộ các giá trị văn hoá l àm nên những phẩm chất, năng lực
tinh thần của con người. Những phẩm chất và năng lực đó được vật chất hoá trong
quá tr ình sản xuất. Đổi mới tư duy kinh tế thành công là m ột thành tựu văn
hoá. Th ành tựu này thúc đẩy kinh tế vượt qua khủng hoảng, tr ì trệ, vươn tới sự
phát triển ổn định và bền vững.
Gần đây,
trong lĩnh vực kinh doanh xuất hiện khá phổ biến khái niệm tài sản vô hình. Tài
sản vô hình là các yếu tố chính như thông tin, khoa học - kỹ thuật, bí quyết
công nghệ, tổ chức bộ máy, nghệ thuật quản lý, sự tín nhiệm của khách hàng đối
với công ty và sản phẩm... Các tài sản vô hình đó chính là sự chuyển hoá các
năng lượng tinh thần của con người vào hoạt động kinh doanh. Đó chính l à văn
hoá.
Thế giới ngày nay đã ý thức sử dụng văn hoá như một động lực
phát triển kinh tế. Một văn kiện của To à thánh Vatican năm 1972, khi đề
cập đến đời sống kinh tế của x ã hội có đoạn viết: “ Con người là tác giả, là tâm điểm và là cứu cánh của tất cả đời sốngxã
hội... Trong thời đại mà sự phát triển kinh tế, nếu được điều khiển và phối hợp một cách
hợp lý và nhân đạo, có thể giảm được những chênh lệch trongxã hội thì nhiều khi
lại làm cho những chênh lệch hoặc ở các nơi còn trở thành sự thoái hoá địa vị
xã hội của những người yếu thế và miệt thị những người ngh èo túng...”
Khả năng phát
triển của trí tuệ, của khoa học và kỹ thuật là điều kiện giải phóng v à phát
triển con người. Nhưng sự phát triển của trí tuệ, của khoa học v à kỹ thuật cũng
có khả năng ngược lại. Vấn đề l à sử dụng trí tuệ cũng như khoa học kỹ thuật v
ào mục đích gì. Nghịch lý của những thời kỳ lịch sử đã qua là lý trí và khoa h ọc
càng phát triển thì lương tâm, đạo đức con người càng có nguy cơ và xu hướng
suy giảm.
Nhà triết học Rabelais đã nói: “Khoa học mà
không có lương tâm thì chỉ làm bại hoại tâm hồn”. Tổng thư ký UNESCO Federico Mayor cũng đã nhận xét:
“Chưa bao giờ như ngày nay, sự căng thẳng giữa khoa học
và lương tâm, giữa kỹ thuật và đạo đức lên tới cực điểm đã trở thành mối đe doạ
toàn thế giới".
Nếu nói văn
hoá l à mục tiêu của phát triển kinh tế cũng có nghĩa l à phát triển kinh tế phải
hướng vào phát tri ển và hoàn thiện con người, hướng vào phát tri ển và hoàn
thiện xã hội. Từ đó, nhân loại đi tới một lý thuyết mới về sự phát triển.
Nhận thức mới về sự phát triển không dừng lại ở các chỉ
ti êu kinh tế. Phấn đấu đạt các chỉ tiêu kinh tế là điều hết sức cần thiết để đảm
bảo sự tồn tại của con người, đáp ứng nhu cầu về vật chất như ăn, mặc, ở, đi lại...,
nhưng sự phấn đấu đó lại có thể l à nguyên nhân t ạo ra sự bất bình đẳng trong
thu nhập và hưởng thụ, có thể dẫn tới lối sống không lành mạnh, ích kỷ, thực dụng,
coi thường trí tuệ và nhân cách.
Chính vì vậy,
sau các chỉ ti êu kinh tế, xã hội học phải quan tâm tới hàng loạt các chỉ ti êu
khác không kém quan tr ọng như tuổi thọ trung bình, trình độ học vấn chung của
x ã hội, tỷ lệ người có việc l àm, môi trường xã hội lành mạnh, môi trường tự
nhiên trong s ạch...
Định hướng của
thế giới hiện đại l à khởi động sức sống của văn hoá để phát triển v à hội nhập,
để cân bằng với tiến tr ình văn minh. Văn hoá, vì vậy, ngày càng chứng tỏ vai
tr ò tiên quyết của mình. Văn hoá là “cái chốt an toằrì", là “chìa
khoẩ" và “động lực" của sự phát triển như lời
kêu gọi của UNESCO khi tổ chức này phát động “ Thập kỷ
phát triển văn hoá thế giới" trước ngưỡng cửa thế kỷ XX.
Như vậy, văn
hoá vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển, đang trở th ành vấn đề
lý luận v à thực tiễn có tính thời đại, l à hành trang chung của mọi dân tộc để
bước vào kỷ nguyên văn minh mới.
CẤU TRÚC VĂN HOÁ
Khi đề cập đến
cấu trúc văn hoá, cần xem xét văn hoá như một hệ thống chứa đựng trong đ ó hàng
loạt các thành tố tạo nên nền văn hoá. Giữa các thành tố này có sự liên kết chặt
chẽ v à sự thay đổi của mỗi một trong các th ành tố đó đều kéo theo sự thay đổi
của các th ành tố khác. Có các thành tố hợp thành cấu trúc văn hoá như sau:
1. Chân lý
Trong lịch sử
đã tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về chân lý. Có quan niệm cho rằng chân lý
l à tính chính xác, rõ ràng c ủa tư duy. Quan niệm khác lại cho rằng chân lý l
à những nguyên lý, quan ni ệm được nhiều người tán thành thừa nhận. Cũng có
quan điểm gắn chân lý với lợi ích thực tế của bản thân chân lý.
Xét về mặt
khoa học, phải khẳng định chân lý l à sự phản ánh sự vật, hiện tượng của hiện
thực v ào nhận thức của con người đúng như chúng tồn tại trong thực tế khách
quan. Nói cách khác, chân lý l à sự phản ánh đúng thế giới khách quan trong ý
thức của con ng ười. Chân lý là tri thức, phù hợp với hiện thực khách quan và
đã được thực tế kiểm nghiệm. Chân lý l à những quan niệm về cái thật, cái đúng.
Chân lý là ph
ạm trù mang tính tương đối, bởi lẽ mỗi nền văn hoá có những cái đúng, cái thật
ri êng, hay nói cách khác là có chân lý riêng. Cái mà ở dân tộc này, ở nền văn
hoá này được coi là chân lý thì có thể, ở dân tộc khác, ở nền văn hoá lại bị phủ
nhận.
Chân lý luôn
c ụ thể, gắn liền với hiện thực khách quan. V ì vậy, ngay trong m ột nền văn
hoá, một dân tộc, ở những thời điểm khác nhau của lịch sử cũng có những chân lý
khác nhau.
Khi đề cập đến
chân lý, th ì phải đề cập đến nhóm hay cộng đồng xã hội. Chân lý chỉ có thể được
hình thành thông qua nhóm ng ười. Một cá nhân không th ể xây dựng được chân lý.
Cá nhân, qua tiếp xúc, tương tác với nhóm nhỏ, nhóm lớn h ình thành nên nh ững
ý kiến cho là đúng, là thật, ngày càng có tính khách quan, càng g ần với hiện thực hơn.
Hiện thực
khách quan, những sự vật, hiện tượng, những quá trình cụ thể của x ã hội là nguồn
gốc của chân lý. Do đó, con người luôn tồn tại gắn liền với những điều kiện
khách quan lịch sử cụ thể. Khi những điều kiện khách quan thay đổi th ì chân lý
khách quan c ũng thay đổi theo.
Mỗi nền văn
hoá, mỗi dân tộc đều có những hoàn cảnh lịch sử khác nhau và vì v ậy, trong nền
văn hoá của mỗi dân tộc cũng có những bộ phận chân lý khác nhau.
Giá trị là những cái cao cả mà con người cần vươn tới và khi đạt được
thì con người cảm thấy m ãn nguyện, có sự thăng hoa về tình cảm, sự cân bằng về
tâm lý. Là một trong những th ành tố quan
trọng của văn hoá, giá trị luôn được sự quan tâm v à chấp nhận rộng r ãi trong
khoa h ọc xã hội.
Có thể coi
giá trị l à những quan niệm về cái đúng mong muốn ảnh hưởng tới hành vi lựa chọn.
Giá trị là điều mà chủ thể quan tâm. Vì vậy, nhìn nhận vấn đề một cách khoáng đạt
h ơn, thì có thể cho rằng bất cứ cái gì đều cũng có thể có giá trị.
Giá trị gắn
liền với nhận thức v à tình cảm của chủ thể. Giá trị có tính hướng dẫn và lựa
chọn. Khi đ ã nhận thức được, giá trị trở th ành tiêu chuẩn để lựa chọn, để hướng
tới và dùng nó để phán xét. Do đó, giá trị chính là yếu tố quan trọng để hướng
dẫn cho h ành vi của chủ thể.
Con người đã
tiếp cận những giá trị ngay từ khi c òn nhỏ thông qua giáo dục gia đình, nhà
trường, quan hệ xã hội (bạn bè, nhóm xã hội...), các phương tiện truyền thông đại
chúng hay thông qua nhiều nguồn khác. Chính nh ững giá trị mà con người tiếp nhận
được đó đã trở thành một phần nhân cách của anh ta. Tuy nhi ên, do nhận thức,
điều kiện, m ôi trường, hoàn cảnh sống... của mỗi người khác nhau nên ở mỗi người
thường có hệ giá trị ri êng nhất định. Những hệ giá trị đó, có thể ph ù hợp với
cộng đồng x ã hội, nhưng cũng có thể có những mâu thuẫn, xung đột giữa các cá
nhân, giữa cá nhân với cộng đồng, với xã hội.
Mỗi cộng đồng
xã hội, mỗi dân tộc, mỗi xã hội, mỗi nền văn hoá đều có những hệ giá trị ri
êng. Chính hệ giá trị riêng đó chi phối hành vi của đại đa số th ành viên trong
xã h ội. Giá trị l à cái hiện hữu, có thực v à tồn tại trong thực tế. Giá trị
phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của từng x ã hội. Do vậy,
khi nghi ên cứu, xem xét hệ giá trị, phải đặt chúng trong những điều kiện lịch
sử, những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Hệ giá trị của một x ã hội chính
là phương hướng phấn đấu cho toàn xã hội.
Hệ giá trị của
mỗi con người hay của mỗi x ã hội rất phức tạp v à luôn tồn tại mâu thuẫn, thậm
chí xung đột nhau. Ng ười ta thường ưu tiên, nhấn mạnh những giá trị được xếp
theo thứ bậc quan trọng. Con người cũng như xã hội thường hành động theo những
giá trị cơ bản và quan trọng nhất.
Giá trị ảnh
hưởng đến động cơ và hướng dẫn cho hành động của con người. Do đó, có thể nhìn
hành động mà ít nhiều xét đoán được giá trị của con người. Tuy nhi ên, trong m ột
số trường hợp, giá trị v à hành động có thể không nhất quán nhau.
Mục tiêu là cái đích cần phải đạt tới. Mục tiêu là một bộ phận của văn
hoá phản ánh văn hoá của một dân tộc. Mục ti êu là một trong những yếu tố cơ bản
của hành vi và sự hoạt động có ý thức của con người. Mục tiêu chính là kết quả
của hành động được dự đoán trước. Mục tiêu là cái đích thực tế cần phải ho àn
thành.
Mọi hoạt động
của con người đều xoay quanh những cái đích thực tế nhất định. Nhờ nó m à các
hoạt động đa dạng của con người được liên kết với nhau trong mộ thệ thống, hướng
tới những phương án hành động chung.
Có hai loại mục tiêu là mục tiêu cá nhân và m ục tiêu
chung:
Mục tiêu cá nhân là m ục tiêu của mỗi con người. Mục
tiêu cá nhân rất đa dạng và không giống nhau với mọi cá nhân.
Mục tiêu chung là mục tiêu của cộng đồng, xã hội. Mục
tiêu chung được hình thành bằng hai con đường sau:
+ Thông qua s ự đồng ý lẫn nhau của các mục ti êu cá
nhân;
+ Thông qua s
ự trùng khớp của một v ài mục tiêu cá nhân của các thành viên trong c ộng đồng,
x ã hội.
Mục tiêu gắn
bó chặt chẽ với giá trị v à chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của giá trị. Không có giá
trị th ì không có mục tiêu. Nói cách khác, giá trị nào thì sinh ra mục tiêu ấy.
Tuy nhiên, mục tiêu khác giá trị ở chỗ, giá trị hướng đến mục đích tư tưởng;
còn mục tiêu hướng đến mục đích cụ thể mà con người tổ chức hành động.
Sự tương tác
giữa các th ành viên trong vi ệc chia sẻ những mục tiêu và giá tr ị chung chính
là cơ sở cho sự tồn tại của các cộng đồng, x ã hội. Mục tiêu và giá tr ị tạo ra
con người của hành động, hướng con người đến những mục đích cụ thể, đến những
điều cao cả, tạo ra sự tồn tại của cộng đồng x ã hội.
Cộng đồng, x
ã hội tập hợp các cá nhân, biến mục ti êu, giá trị cá nhân trở thành mục tiêu,
giá trị của cộng đồng, x ã hội. Khi giá trị v à mục tiêu không thống nhất thì cộng
đồng, xã hội sẽ thiếu tính bền vững. Khi đó, cần phải củng cố giá trị v à mục
tiêu.
Chuẩn mực là cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, để hướng theo đó mà
làm cho đúng. về mặt xã hội, chuẩn mực là tổng thể những mong đợi, những yêu cầu,
những quy tắc của xã hội được ghi nhận bằng ngôn ngữ, ký hiệu hay bằng các biểu
tượng văn hoá làm căn cứ cho các hành vi của các thành viên trong xã hội.
Qua hệ thống
các chuẩn mực, các th ành viên xã h ội biết mình được phép làm gì và cần phải
xử sự như thế nào cho đúng trong những tình huống xã hội khác nhau. Chuẩn mực l
à sản phẩm của sự cân nhắc của cơ cấu xã hội, của quyền lợi nhóm, của hệ thống
các mối quan hệ giữa các thành viên xã hội về cái cần, cái được phép, cái có khả
năng, cái mong mu ốn; hay về cá i không mong mu ốn và không được phép.
Chuẩn mực xã
hội thực hiện chức năng li ên kết, điều chỉnh, duy tr ì quá trình ho ạt động của
xã hội, như là hệ thống của các mối quan hệ tác động lẫn nhau của các cá nhân v
à các nhóm xã h ội.
Chuẩn mực là
khái niệm có nội hàm rất rộng. Chuẩn mực bao gồm các đạo luật, các quy tắc chặt
chẽ nhất cho đến những quy định lỏng lẻo nhất giữa một số người với nhau. Nhờ hệ
thống các chuẩn mực m à hành vi của con người hoà nhập với cộng đồng, x ã hội;
cùng chia sẻ và thực hiện hệ các giá trị xã hội. Tuy vậy cũng cần phân biệt chuẩn
mực với giá trị. Nếu giá trị l à cái quan tr ọng, đáng giá nhất, th ì chuẩn mực
là các tiêu chuẩn, các quy ước, hướng dẫn và sự mong đợi đối với h ành vi con
người.
Mỗi địa vị xã
hội đều có chuẩn mực ri êng. Con người ở các địa vị khác nhau đều được xã hội
mong đợi v à yêu cầu ở các mức độ ph ù hợp. Tuy nhiên, với chuẩn mực chung thì
không xét đến địa vị xã hội.
Có nhiều loại
chuẩn mực x ã hội khác nhau. Tuỳ theo cách phân loại, xã hội học đề xuất hệ thống
các ch uẩn mực như sau:
Căn cứ vào mức độ cộng đồng có:
+ Chuẩn mực của
toàn xã hội (chuẩn mực chung);
+ Chuẩn mực của các
hệ thống x ã hội nhỏ (chuẩn mực
nhóm);
+ Chuẩn mực của từng
địa vị x ã hội (chuẩn mực
riêng).
Căn cứ vào mức độ thiết chế hoá có:
+ Chuẩn mực được
thiết chế hoá ;
+ Chuẩn mực không
được thiết chế hoá.
Căn cứ vào mức độ nghiêm khắc của sự trừng phạt đối với
sự vi phạm, có:
+ Lề thói;
+ Phép tắc.
Lề thói là
thói quen xã h ội từ lâu đ ã thành nề nếp, là những tục lệ, những quy ước, quy
tắc xử sự đối với hành vi của con người trong nhóm, trong xã h ội. Lề thói được
con người tiếp thu qua giao tiếp và truyền từ thế hệ n ày sang thế hệ khác. Lề
thói lan truyền rộng r ãi và định chế hoạt động, hành vi của con người một
cách tự giác qua sự giám sát của cộng đồng bằng dư luận xã hội. Đôi khi, những
định chế của lề thói lại tỏ ra hết sức khắt khe. Phạm vi của lề thói nhiều khi
hết sức rộng lớn. Có những lề thói bao tr ùm toàn xã h ội, cũng có lề thói
riêng cho từng vùng hay từng cộng đồng nhỏ.
Phép tắc là
những quy tắc, lề lối phải tuân theo. Phép tắc l à những chuẩn mực quan trọng
hơn lề thói. Cộng đồng, x ã hội thường cử ra một nhóm người để thực thi phép tắc.
Cộng đồng, x ã hội sẽ áp dụng sự trừng phạt nghiêm khắc đối với sự vi phạm phép
tắc. Phép tắc phân b iệt rạch ròi đúng sai, gắn với những giá trị mà xã hội cho
là quan trọng hơn lề thói. Phép t ắc được thể hiện thông qua pháp luật. Như vậy,
luật pháp l à chuẩn mực của phép tắc v à là chuẩn mực quan trọng nhất đối với mọi
xã hội.
Loại hình văn
hoá vật chất bao gồm những sản phẩm văn hoá chứa đựng trong vật chất mà sự tồn
tại của chúng gắn liền với sự hiện diện của khối vật chất cụ thể như các công
tr ình kiến trúc, nhà cửa, thành phố, công viên, tượng đài, công c ụ sản xuất...
Đó l à những vật phẩm do con người sáng tạo nên trước hết là đáp ứng các nhu cầu
sinh tồn v à phát triển, thứ nữa là để phân biệt anh ta với người khác.
Chính trong
quá trình làm ra các s ản phẩm để đáp ứng nhu cầu sống của mình, con người đã
không ngừng sử dụng v à phát huy m ọi yếu tố văn hoá vật chất như công cụ lao động,
tri thức, kỹ năng lao động, các yếu tố này luôn g ắn liền với điều kiện, môi
trường sống và môi trường sinh thái cụ thể
nhất định.
Các yếu tố
văn hoá vật chất thể hiện tính văn hoá của con người và được kết tinh trong mỗi
sản phẩm văn hoá do con ng ười tạo ra. Mỗi sản phẩm vật chất được tạo ra bởi
con người đều chứa đựng trong nó tính hai mặt:
Mặt thực thể cho phép nhận biết nó l à cái gì
và được tạo ra nhằm thoả mãn nhu cầu nào của con người.
Mặt văn hoá cho phép nhận biết nó được sản xuất
như thế nào và trong những điều kiện, ho àn cảnh nào.
Loại hình văn
hoá tinh thần (văn hoá phi vật chất) bao gồm những sản phẩm văn hoá có giá trị
tinh thần thuần tu ý, mà sự tồn tại của chúng có tính độc lập tương đối, không
trực tiếp liên quan đến những vật chất mà chúng đ ã vay mượn trong quá tr ình
sáng tạo ra các giá trị.
Văn hoá tinh
thần là những ý niệm, tư tưởng triết học, tôn giáo, tín ngưỡng, những sáng tác
vă n học nghệ thuật lấy ngôn ngữ l àm chất liệu chính, những giá trị, chuẩn mực
đạo đức, phong tục, tập quán...
Sự phân chia
ra hai loại h ình văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần chỉ có ý nghĩa tương đối,
chỉ nhằm mục đích dễ phân biệt m à thôi. Xã hội học kh ông cứng nhắc trong quan
niệm, bởi lẽ, trong phạm trù “văn hoá vật chất” có giá trị của văn hoá tinh thần
v à trong phạm trù “văn hoá tinh thần” ít nhiều cũng cần có những nhân tố vật
chất nhất định để thể hiện.
Đề cập đến chức
năng giáo dục của văn hoá tức là đề cập đến tính định hướng xã hội, là hướng
lý tưởng đạo đức và hành vi c ủa con người vào Chân -
Thiện - Mỹ, theo như khuôn mẫu xã hội đã quy định. Mỗi dân tộc đều
có văn hoá riêng. Những quan niệm, đặc tính, truyền thống và tâm lý của mỗi
dân tộc gắn liền với những điều kiện lịch sử ri êng đã tạo ra bản sắc văn hoá
dân tộc.
Nền văn hoá của
mỗi dân tộc đ ã giáo dục, định hướng cho mỗi con người của dân tộc mình phát
triển văn hoá theo bản sắc dân tộc.
Cùng với bản
sắc dân tộc, văn hoá trong x ã hội có giai cấp luôn mang tính giai cấp. Điều
kiện sinh hoạt vật chất của các giai cấp khác nhau làm nảy sinh những tư tưởng,
ý thức hệ và tình cảm khác nhau.
Cuộc đấu tranh giai cấp về ý thức hệ thường diễn ra hế t sức quyết liệt,
gay gắt trong lĩnh vực văn hoá.
Bằng văn hoá
và thông qua văn hoá, x ã hội có thể định hướng hành vi của xã hội theo những
giá trị, chuẩn mực nhất định. Tuy vậy, không nên bi ến các hoạt động văn hoá thành sự giáo huấn khô khan, quá trừu tượng, mà phải bằng các hình thức hoạt động
phong phú, sinh động tác động vào việc hình thành nhân cách, giúp con ng ười
phát triển toàn diện, phát huy được mọi năng lực tinh thần của con người.
Trong bất kỳ
hoạt động văn hoá n ào cũng chứa đựng chức năng nhận thức. Bằng văn hoá v à
thông qua ho ạt động văn hoá, x ã hội tác động đến nhận thức của mỗi cá nhân;
trang bị th êm cho cá nhân nh ững tri thức, kinh nghiệm v à làm cho sự hiểu biết
của cá nhân về thế giới, về xã hội và về bản thân ng ày càng sâu s ắc.
Chức năng nhận
thức được biểu hiện rất r õ trong hoạt động giáo dục, đào tạo, nghiên cứu triển
khai khoa học, công nghệ. Đây chính l à những hoạt động tác động trực tiếp tới
nhận thức, trí tuệ; mở mang v à nâng cao dân trí.
Phát huy chức
năng nhận thức của văn hoá sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội
phát triển, rút ngắn khoảng cách giữa các nước chậm phát triển với các nước
phát triển.
Cùng v ới nhu
cầu nhận thức, con người còn hướng đến nhu cầu cảm nhận và thụ hưởng các giá trị
thẩm mỹ. Nhu cầu v à khả năng hướng tới cái đẹp l à dấu hiệu cơ bản để nhận biết
con người. về điều này, Karl Marx đ ã từng viết: “Bản chất con người là biết
nhào nặn hiện thực theo quy luật của cái đẹp”.
Hướng tới cái
đẹp, nhận thức được cái đẹp v à có khả năng rung động trước cái đẹp, đó chính là cảm xúc thẩm mỹ. Cảm xúc thẩm mỹ, ở một mức độ nào đó, tạo nên giá trị, phẩm
chất đạo đức của con người.
Lịch sử nhân
loại cho thấy, mỗi bước tiến của x ã hội là một bước con người vươn tới cái đẹp.
Chính nhu cầu và khả năng vươn tới cái đẹp là một trong những động lực quan trọng
tạo nên sự tiến bộ cả về vật chất và tinh thần của đời sống con người. Càng tiến
đến trình độ văn minh cao bao nhiêu thì khát vọng về cái đẹp của con người
càng trở nên bức thiết bấy nhi êu.
Thiên nhiên và đời sống xã hội luôn tạo cho con người
những cảm xúc thẩm mỹ. Cái đẹp vừa l à khuôn mẫu, vừa là gợi ý cho các chủ thể
trong sự sáng tạo nghệ thuật, tức là làm ra cái đẹp.
Chức năng thẩm
mỹ của văn hoá chính l à ở chỗ chỉ cho con người nhận biết khả năng phát hiện
cái đẹp và sáng tạo cái đẹp. Chức năng này không th ể tách rời chức năng nhận
thức của con người và do vậy, chức năng thẩm mỹ còn gắn bó mật thiết với cả
chức năng giáo dục.
Con người là
chủ thể sáng tạo lịch sử. Tính sáng tạo n ày chỉ thực sự được phát huy một cách
hiệu quả khi con người biết căn cứ vào những điều kiện lịch sử. Những điều kiện
đó hoặc đ ã có, hoặc đang dần dần xuất hiện.
Văn hoá là tổng
thể những hoạt động mang tính tinh thần và trí tuệ cao, là quá trình nh ận thức
ngày càng sâu s ắc những quy luật của tự nhiên, của xã hội cũng như của con người
nhằm mở rộng tầm hiểu biết, trí tưởng tượng cũng như năng lực khám phá v à sáng
tạo không ngừng của con người. Chính với ý nghĩa đó, văn hoá có thể đưa ra những
dự báo cần thiết về tự nhi ên, xã hội và con người.
Trước sự phát
triển như vũ bão của cách mạng khoa học - công nghệ hiện nay, các nhà văn hoá
đưa ra những dự báo về to àn cầu hoá, hội nhập văn hoá, về một x ã hội tri thức
trong tương lai gần... Những dự báo đó đều là căn cứ để xây dựng các chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển con người.
Nhu cầu hưởng
thụ văn hoá của con người vô cùng đa dạng, nhưng nhìn chung, có th ể quy về hai
loại nhu cầu cơ bản là nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Khi x ã hội phát
triển ng ày càng cao, con người thường hướng tới việc thoả mãn nhu cầu tinh thần.
Giải trí l à
thoả mãn một phần nhu cầu tinh thần của con người. Các hoạt động văn hoá sẽ đáp
ứng v à không ngừng thoả mãn nhu cầu này của con người. Con người tìm đến
các hoạt động văn hoá, hoạt động nghệ thuật l à nhằm thoả mãn những sở thích cá
nhân của m ình.
Chức năng giải
trí của văn hoá không chỉ nhằm b ù đắp lại sức lao động đã hao phí mà còn nhằm
phát huy những năng khiếu tiềm tàng ở mỗi con người, tạo điều kiện cho sự phát
triển toàn diện của con người.
Hoạt động văn
hoá với mục đích giải trí không chỉ có chức năng giải trí đơn thuần, mà đồng thời
với chức năng n ày, hoạt động văn hoá còn hàm ch ứa chức năng giáo dục hoàn
thiện con người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét