GIẢI ĐỀ
CƯƠNG MÔN
LỊCH SỬ NHÀ
NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Câu
1: Điều
kiện ra đời và bộ máy nhà nước của nhà nước Văn Lang.
Trả lời:
Theo “Đại Việt sử ký
toàn thư”, dựa theo sách “Lĩnh Nam chích quái” và một bộ sử khuyết danh thời Trần
“Việt sử lược” cùng với những kết quả nghiên cứu ngày nay, thời điểm hình thành
nhà nước Văn Lang vào khoảng nửa đầu thiên niên kỷ thứ nhất Tr.CN, tương ứng
với giai đoạn xuất hiện của văn hóa Đông Sơn, cách đây gần 3.000 năm.
Bắt nguồn từ giai
đoạn Phùng Nguyên và đặc biệt ở giai đoạn Đông Sơn, xã hội Việt Nam đã có sự chuyển biến ở các mặt:
* Về kinh tế, với vị trí chủ đạo là nền nông nghiệp trồng lúa, ban đầu người Việt chỉ sử dụng
công cụ lao động bằng đá nên năng suất thấp. Đến thời văn hóa Phùng Nguyên thì
bước vào thời đại kim khí và phát triển nhảy vọt vào thời văn hóa Đông Sơn. Sự
xuất hiện của nhiều loại công cụ lao động kim khí, đặc biệt là lưỡi cày bằng
sắt đã giúp năng suất nông nghiệp tăng vượt bậc. Đồng thời với đó, các ngành
nghề thủ công, chăn nuôi, đánh bắt … tiếp tục phát triển đã có sự tác động sâu
sắc và chuyển biến cơ bản về mọi mặt của nền kinh tế.
* Về xã hội, chế độ
phụ hệ thay thế cho chế độ mẫu hệ; xuất hiện “gia đình nhỏ” và chế độ tư hữu ra đời. Công xã nông thôn thay thế cho công xã thị tộc, ngoài quan hệ huyết thống
còn có quan hệ láng giềng, cộng với chế độ tư hữu đã làm
phá vỡ tính công bằng xã hội, phân
hóa xã hội thành 3 tầng lớp: quý tộc; nông dân công xã nông thôn và nô tì mà thực
chất đó là những “nô lệ gia đình”.
Sự
phân hóa xã hội như vậy tất yếu sẽ dẫn đến mâu thuẫn, xung đột trong xã hội,
mặc dù sự đối kháng chưa đến mức gay gắt, không thể điều hòa, nhưng đó là một
trong những cơ sở quan trọng, thúc đẩy sự ra đời của các cơ quan quyền lực công
cộng để quản lý xã hội, giải quyết các mâu thuẫn xung đột trong xã hội. Cơ quan
quyền lực đó chính là nhà nước.
* Về các nhân tố khác tác động đến sự
ra đời của nhà nước Văn Lang:
Một
là, do điều kiện thiên nhiên của nước ta vừa thuận lợi vừa có những khó khăn,
khắc nghiệt đối với nông nghiệp. Vì vậy người Việt phải đoàn kết, tập hợp lại
dưới sự chỉ đạo của một cơ quan quyền lực công cộng để xây dựng các công trình
thủy lợi như đắp đê, đào kênh mương vừa chống lũ vừa phục vụ tưới tiêu cho nông
nghiệp.
Hai
là, với địa thế của một nước đầu mối giao thông và giao lưu kinh tế, văn hóa
nên yêu cầu tự vệ, chống ngoại xâm sớm được đặt ra một cách bức thiết. Điều này
đã được ghi nhận khá nhiều trong các truyền thuyết dân gian mà tiêu biểu nhất
là chuyện Thánh Gióng phá giặc Ân vào đời vua Hùng Vương thứ 6.
Tóm lại,
yêu cầu tự vệ chống ngoại xâm cùng với yêu cầu thủy lợi có tác động rất quan
trọng vào quá trình hình thành nhà nước đầu tiên trên lịch sử nước ta; Do vậy
nhà nước đầu tiên (Văn Lang) ra đời có phần sớm hơn điều kiện chín muồi của sự
phát triển kinh tế và phân hóa xã hội.
Khi
nhà nước Văn Lang ra đời, tổ chức bộ máy đã được hình thành với vị trí cao nhất
thuộc về Hùng Vương – người có vai trò như vị thủ lĩnh, được 14 bộ lạc còn lại
tôn lên đứng đầu đất nước, thực chất là thủ lĩnh của liên minh bộ lạc. Hùng
Vương nắm quyền cao nhất cả về chính trị và quân sự, đồng thời còn là người chủ
trì các nghi lễ tôn giáo lớn nhất. Các vua Hùng thế tập, truyền ngôi được 18
đời.
Dưới
vua Hùng Vương, những người giúp việc thân cận nhất cho vua Hùng là các Lạc
hầu, đó có thể là tướng văn hoặc tướng võ, có quyền thay mặt vua Hùng giải
quyết các công việc triều chính. Ở địa phương, nước Văn Lang được chia thành 15
bộ do các Lạc tướng đứng đầu, đây cũng chính là 15 bộ lạc đã liên kết với nhau
để lập nên nước Văn Lang. Lạc tướng cũng có quyền thế tập cha truyền con nối
giữ chức vụ này, do vậy Lạc tướng còn được gọi là Phụ đạo.
Ở cơ sở, bộ máy chính quyền là các “kẻ”,
“chạ”, “chiềng”. Thực chất đây là các công xã nông thôn do Bồ chính, một chức
vụ đứng đầu chính quyền cơ sở được dân làng lựa chọn, đồng thời cử một số người
cao tuổi, có uy tín trong làng lập nên hội đồng công xã, cùng với Bồ chính quản
lý, điều hành các hoạt động của địa phương. Mỗi làng có một ngôi nhà công cộng
làm nơi hội họp và là trung tâm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của cả làng.
Như
vậy, bộ máy nhà nước Văn Lang còn đơn giản, mang nhiều dấu ấn của chế độ công
xã nguyên thủy. Đó là một hình thức nhà nước sơ khai của thời dựng nước.
*
--------------------* --------- *--------------------
Câu
2: Sự ra
đời, bộ máy nhà nước, việc điều hành đất nước và vai trò nhà nước của các triều
đại nhà Lý, Trần, Lê Sơ và Nguyễn.
Trả lời
2.1. Nhà Lý.
* Sự ra đời của nhà Lý:
Năm 1005, Lê Hoàn
mất, các con của ông
chém giết nhau để tranh giành ngôi báu. Đến cuối thời vua Lê Ngọa triều (Lê
Long Đĩnh), tình hình chính trị ngày càng thối nát, nhân dân oán giận. Năm
1009, Lê Long Đĩnh chết khi mới 23 tuổi và các con đều còn nhỏ. Triều thần chán
ghét nhà Tiền Lê, vì vậy, các sư tăng và đại thần, đại diện là Đào Cam Mộc đã
tôn Điện tiền chỉ huy sứ tên là Lý Công Uẩn (sinh năm 974) lên làm vua, mở đầu
cho Vương triều nhà Lý (l009 - 1225), đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của
đất nước, giai đoạn kỷ nguyên Đại Việt.
* Bộ máy nhà nước:
Nhà Lý xây dựng bộ
máy của mình từ trung ương đến địa phương theo thiết chế nhà nước quân chủ
trung ương tập quyền, quyền hành tập trung vào tay triều đình, đứng đầu là vua
(hoàng đế). Vua nắm toàn quyền về lập pháp, hành pháp, tư pháp và thần quyền,
là người chủ trì các nghi lễ lớn của đất nước và được phong thần Thành hoàng.
Về xây dựng các đơn
vị hành chính, nhà Lý đã có những thay đổi, bổ sung quan trọng so với trước. Cả
nước được chia thành 24 lộ, dưới lộ có phủ, châu; ở cơ sở là hương, giáp, thôn
và tiếp tục duy trì đơn vị đạo ở một số vùng miền núi.
Về bộ máy quan lại, phẩm trật các quan văn, võ thời Lý có 9 bậc,
chia làm hai ngạch văn và võ. Đứng đầu ngạch văn là sáu quan đại thần (gồm tam
thái và tam thiếu). Dưới hơn, đứng đầu các bộ là chức quan thượng thư và dưới
nữa là các chức tả hữu tham tri, tả hữu gián nghi, trung thư thị lang, bộ thị
lang … Đứng đầu ngạch võ là các chức quan đại thần như thái úy, thiếu úy; dưới
hơn là các võ quan cao cấp như đô thống, nguyên súy, tổng quản, khu mật sứ, kim
ngô, đại tướng, đô tướng…
Quan
lại ở địa phương cũng được chia thành hai loại quan văn và quan võ. Đứng đầu
các lộ, trại là thông phán, trại chủ; ở phủ, châu thì có chức tri phủ, tri châu
và ở cơ sở là đội ngũ xã quan phụ trách các hương, xã, thôn.
Nhìn
chung, bộ máy quan lại nhà Lý có nhiều điểm mô phỏng theo quan chế nhà Tống,
nhưng có sự giản lược hơn, rõ nét nhất là dưới thời vua Lý Nhân Tông.
* Việc điều hành đất nước:
-
Về phân chia địa giới hành chính: Cơ bản là kế thừa thời Tiền Lê và trước đó là của
chính quyền họ Khúc, tuy nhiên chưa có sự quy định thống nhất thể hiện ở nhiều tên gọi giữa các cấp lộ, trấn và
phủ, huyện, châu…
-
Về sử dụng, tuyển chọn quan lại: Nhà Lý sử dụng người thân và các công thần nắm giữ các chức vụ trọng
trách trong triều. Việc tuyển chọn quan lại thì kết hợp chế độ “nhiệm tử” và
“bảo cử” vẫn được áp dụng theo truyền thống từ trước. Nếu như chế độ “bảo cử”
dựa vào tiêu chuẩn tuổi tác, tài năng và đức độ, thì chế độ “nhiệm tử” phải là
con cái quan lại, chủ yếu ở hàng ngũ tông thất, công thần. Từ 1075 đến hàng thế
kỷ tiếp theo, “khoa cử” tuy đã xuất hiện, nhưng chưa đủ khả năng và cũng không
dễ thay thế hoàn toàn chế độ bảo cử và nhiệm tử đã thành phương thức tuyển chọn
quan lại truyền thống.
-
Về tổ chức quân đội: Nhà Lý
thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông”, thời bình họ không phải tập trung, chỉ
tham gia sản xuất ở hương ấp hoặc các điền trang, thái ấp của vương hầu, khi có
chiến tranh thì cho gọi ra lệ thuộc vào các tướng. Đây là một biện pháp quan
trọng nhằm duy trì và phát triển một nền nông nghiệp vững mạnh, vừa không phải
trích ra một lượng lớn lương thực nuôi quân, vừa lại không mất đi một lượng lao
động chính do phải sung các tráng đinh vào quân ngũ trong thời bình, nhưng cũng
vừa bảo đảm nguồn quân lính khi cần thiết.
-
Về kinh tế: Nhà Lý chú
trọng phát triển liên hoàn trong chủ trương chính sách về nông nghiệp, bao gồm:
sở hữu tư nhân về ruộng đất, tổ chức khai hoang, trị thủy - thủy lợi, bảo vệ
sức kéo, ngụ binh ư nông, ban cấp thái ấp, mở rộng mạng lưới giao thông đường
bộ, đường thủy. Những chủ trương chính sách trên không ngoài mục đích mở mang
nông nghiệp, làm cho dân giàu nước mạnh, bảo đảm “thực túc binh cường” với tinh
thần cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu giữ nước.
-
Về xây dựng pháp luật: Từ
trị nước theo luật tục do người đứng đầu nhà nước Đinh, Tiền Lê điều hành vận
dụng, đến thời nhà
Lý đã đánh dấu một bước tiến mới
trên con đường pháp trị. Năm 1042, đời Lý Thái Tông đã ban hành bộ “Hình thư” -
bộ sách luật mở đầu của thời này, nổi lên mấy điểm cốt yếu:
1. Khắc phục tình
trạng phiền nhiễu, khắc nghiệt, oan uổng do người chịu trách nhiệm cầm cân công
Lý đã gây nên cho dân.
2. Giữ phép nước trên
tinh thần nhân ái, yêu thương con người.
3. Phổ biến rộng rãi
cho dân dễ hiểu, tạo điều kiện thuận tiện cho dân tuân theo pháp luật.
-
Về đối nội: Thực hiện
chính sách “thân dân”, “khoan thư sức dân” nhằm động viên nhân dân tham gia vào
công cuộc xây dựng đất nước khi hòa bình và đánh giặc lúc có chiến tranh.
-
Về đối ngoại: Nhà Lý thực
hiện chính sách đối ngoại mềm dẻo; ở phía bắc thì chủ động cử sứ giả sang Tống,
hằng năm vẫn triều cống và chấp nhận là phiên thần nhưng vẫn hết sức cương
quyết bảo vệ lãnh thổ, giữ vững quan điểm là một nước có chủ quyền, độc lập.
Ngoài việc bang giao chính thức bằng các sứ bộ, hai nước Tống và Lý còn có sự
giao dịch hằng ngày ở biên thùy. Phía nam thì linh động, có mềm có cứng đối với
các nước Chiêm Thành, Ai Lao… một mặt không để họ quấy rối, mặt khác ngăn chặn
liên kết với nhà Tống đánh chiếm nước ta.
* Vai trò của nhà nước thời Lý:
Nhà nước phong kiến
thời Lý là nhà nước quân chủ trung ương tập quyền phương Đông. Đứng đầu là vua,
bên cạnh vua là một bộ máy quan lại gồm tầng lớp quý tộc quan lại văn, võ làm
việc trong các cơ quan hành chính và chuyên môn.
Trước hết, trong lĩnh
vực bảo vệ Tổ quốc thì nhà nước thời Lý, mà đứng đầu là vua thường giữ vai trò
là thủ lĩnh quân sự của cộng đồng dân tộc, là người có quyền quyết định trong
việc tổ chức và phát động chiến tranh, hoặc xuống chiếu huy động quân đội trong
nước. Khi có chiến tranh, vua hoặc các hoàng tử thường trực tiếp “tự làm tướng”
cầm quân đi đánh giặc. Song hành với bảo vệ Tổ quốc, một nhiệm vụ không kém
phần quan trọng khác là trị thủy – thủy lợi. Trong lĩnh vực này, nhà Lý đã quan
niệm việc trị thủy như một quốc sách, một mặt quan trọng trong hoạt động của
nhà nước từ trung ương cho đến các lộ, có bộ máy điều hành nằm trong hệ thống
quan chức của nhà nước, đóng vai trò chỉ đạo, huy động, triển khai và giám sát
công tác trị thủy – thủy lợi, phục vụ mục đích phát triển nông nghiệp, “thực
túc, binh cường”.
2.2. Nhà
Trần (1226 – 1400).
* Sự ra
đời của nhà Trần:
Vào cuối thế kỷ XII,
từ đời vua Lý Cao Tông (lên ngôi khi mới 3 tuổi), không lo triều chính mà chỉ
ăn chơi, phung phí vô độ, đẩy nhà Lý bước đầu bước vào thời kỳ suy thoái. Đến
đời vua Lý Huệ Tông, tình hình suy thoái ngày càng nghiêm trọng, đất nước loạn
lạc bởi các thế lực cát cứ ở địa phương, trong triều thì nhiều biến động, do đó
buộc nhà Lý phải lệ thuộc vào các thế lực bên ngoài, nhất là họ Trần. Đến cuối
năm 1225, dưới sự sắp xếp và quyết định của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng kết hôn
với Trần Cảnh (Con thứ của Trần Thừa, cháu họ của Trần Thủ Độ), sau đó làm lễ
nhường ngôi cho chồng. Trần Cảnh lên ngôi vào đầu năm 1226, trở thành vua Trần
Thái Tông, mở ra một triều đại mới với một nhà nước mới – Nhà Trần.
Sự thay thế của nhà Trần
đối với nhà Lý đã đáp ứng được yêu cầu của đất nước vào lúc đó. Bằng con đường hôn nhân, sự
thay đổi triều đại này đã diễn ra một cách tương đối êm ả, hợp lòng quân dân và
làm nên một triều đại với nhiều chiến công vẻ vang, xây dựng và phát triển đất
nước trên nhiều lĩnh vực.
* Bộ máy
nhà nước:
Nhà Trần tiếp tục kế
thừa nhà Lý trong việc xây dựng bộ máy theo thiết chế nhà nước quân chủ trung
ương tập quyền, nhưng có nhiều bổ sung, đổi mới quan trọng. Điểm mới và nổi bật
nhất là chế độ “lưỡng đầu” (Vua – Thái thượng hoàng). Cơ chế này được lập ra
ngày từ đầu và duy trì trong hầu hết thời gian tồn tại nhà Trần. Về danh nghĩa,
Thái thương hoàng là cố vấn cho vua, nhưng trên thực tế thì Thái thượng hoàng
lại là người quyết định hầu hết những vấn đề trọng đại của triều đình và đất
nước, do đó có thể gọi đây là chế độ hai vua cùng trị vì đất nước. Việc thiết
lập và duy trì cơ chế đó trong phần lớn thời gian tồn tại của vương triều này
là cách thức để nhà Trần vừa bảo vệ sự cầm quyền của dòng họ mình, vừa ngăn
chặn việc tranh giành ngôi vua giữa các hoàng tử, đồng thời còn là sự kèm cặp,
hỗ trợ của vua cũ đối với vua mới, giúp vua mới điều hành đất nước được tốt
hơn.
Dưới thời nhà Trần,
các cơ quan hành chính và chuyên môn sớm được thiết lập, mở rộng và quản lý
chặt chẽ hơn trước. Theo thể chế “lưỡng đầu”, bên cạnh kinh đô Thăng Long còn
có phủ Thiên Trường, được xây dựng và bảo vệ gần như một kinh đô thứ hai. Đó là
quê hương, là nơi ở của thượng hoàng.
Về bộ máy quan lại,
dưới triều Trần thì được tổ chức quy củ và có hệ thống hơn triều Lý, gồm hai bộ
phận: quan trong (ở trung ương) và quan ngoài (ở địa phương). Tầng lớp quý tộc,
tôn thất phát triển hơn và thể hiện rõ vai trò của mình trong sự nghiệp giúp
vua giữ nước. Các vương hầu nhà Trần, ngoài việc nắm giữ những chức vụ chủ chốt
ở triều đình, còn được phân phong đi trấn trị các vùng trọng yếu. Vương hầu có
quyền lực lớn ở vùng mình trấn trị. Họ còn được phân phong thái ấp có phủ đệ và
được tồ chức đội quân riêng. Lúc bình thường họ sống ở phủ đệ, lúc hữu sự họ về
kinh đô.
Ở triều đình, nhà Trần
đặt thêm nhiều cơ quan chuyên trách mới, đó là:
- Hệ thống các cơ
quan tư pháp như: Thẩm hình viện (xét xử), Tam ty viện (Kiểm sát), Bình bạc ty
(coi việc kiện tụng) và Ngự sử đài (giám sát quan lại và can gián vua);
- Quốc sử viện: Lo
việc chép sử;
- Thái y viện: Lo
việc trông coi sức khỏe;
- Quốc học viện: Lo
việc học hành;
- Tư thiên giám: Lo
việc thiên văn, làm lịch;
- Quốc tử giám:
Trường học lớn nhất nước.
Về quan chế, Tướng
quốc là người đứng đầu bá quan văn võ. Ở triều đình trung ương có các chức Tam
thái, Tam thiếu (sư, phó, bảo) giống như thời Lý, ngoài ra bổ sung thêm ba chức
quan mới được gọi là Tam tư: Tư đồ phụ trách ngoại giao, văn hóa; Tư mã phụ
trách chinh phạt và Tư không phụ trách các mặt còn lại.
Ở ban võ, đứng đầu là
các quan đại thần bao gồm: Thái úy, Thiếu úy và Bình chương sự, tiếp dưới là
quan lại ở các bộ do quan Thượng thư đứng đầu và các chức võ quan khác Thị lang,
Lang trung… Về ngạch võ, điểm khác hơn thời Lý là có các chức Phiêu kỵ thượng
tướng quân (dành riêng cho hoàng tử), Tiết chế tướng quân. Các chức vụ quan
trọng trong triều lúc đầu phần lớn là do các quý tộc tông thất nắm giữ, sau do
nhu cầu chuyển dần sang giới quan liêu.
Ở cấp địa phương, có
các chức An phủ chánh sứ và An phủ phó sứ; đứng đầu phủ là tri phủ,
trấn phủ sứ. Đứng
đầu châu là Chuyển vận sứ, Thông phán. Đứng đầu huyện là Lệnh úy; ở xã là đội ngũ
xã quan (đại, tiểu tư xã, xã chính). Ngoài ra còn có các chức võ quan trông coi
quân đội ở địa phương như: Quan sát sứ, Kinh lược sứ, Phòng ngự sứ và các chức
quan trông coi về kinh tế như: “Hà đê phó chánh sứ” chuyên trách việc đê điều,
“Đồn điền chánh phó sứ” chuyên trách quản lý đồn điền cùng một số chức quan
trông coi về giáo dục ở lộ, phủ.v.v.
Bên
cạnh bộ máy quan lại như trên, nhà Trần vẫn tiếp tục duy trì hệ thống “tăng
quan” như thời nhà Lý với các chức đứng đầu là Quốc sư, Tăng thống, Tăng lục.v.v.
Nhìn chung, so với bộ máy quan lại nhà Lý thì nhà Trần có sự bổ sung và mở rộng hơn cả ở
trung ương và địa phương. Các chức vụ và nhiệm vụ được gắn chặt, quy định rõ
ràng, cụ thể hơn. Bộ máy này vừa thực hiện sự kế thừa, vừa có sự sáng tạo, đáp
ứng được yêu cầu đất nước trong thời kỳ mới, đó chính là bước tiến quan trọng
của nhà nước thời Trần.
* Việc
điều hành đất nước:
-
Về phân chia địa giới hành chính: Sau khi thành lập, nhà Trần thực hiện cải tổ hành chính, chia cả nước
thành 12 lộ, hai trại và đặt thêm năm phủ, sáu châu.
-
Về sử dụng, tuyển chọn quan lại: Trong sử dụng quan lại thì nhà Trần có điểm khác hơn nhà Lý là dành
nhiều quyền lợi cho quan lại thông qua chế độ lương bổng; các quan lại thuộc
tầng lớp quý tộc được ban cấp đất đai để lập thái ấp, được khai khẩn để lập
điền trang.
Trong tuyển chọn quan
lại, nhà Trần tiếp tục kế thừa và phát triển hơn thời Lý. Kế thừa ở chỗ ban đầu
cũng dành những vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước cho những người thuộc
dòng dõi quý tộc và các công thần (quân chủ quý tộc). Nhưng mặt khác, ngay buổi
đầu thành lập, năm 1227 nhà Trần đã mở khoa thi Tam giáo (Nho, Phật, Đạo); thi Thái
học sinh (tiến sĩ) vào năm 1232 và đã chọn tam khôi với học vị trạng nguyên,
bảng nhãn, thám hoa vào năm 1247. Nhà Trần cũng đã định ra lệ khảo duyệt (khảo
khóa) các quan theo định kỳ. Qua đó cho thấy, ở thời Trần, việc tuyển chọn quan
lại bằng con đường khoa cử giữ vị trí hết sức quan trọng, công tác khoa cử
tuyển chọn người thực tài đã ngày càng nâng cao vai trò của tầng lớp nho sĩ
quan liêu trong bộ máy chính trị thời Trần từ số lượng khiêm tốn lúc đầu, sau
càng gia tăng trong những triều đại kế tiếp. Điều đó đã nói lên xu thế phát
triển của nhà nước thời Trần là từ nhà nước quân chủ quý tộc chuyển sang nhà
nước quân chủ quan liêu.
-
Về tổ chức quân đội: Quân
đội thời Trần cũng bao gồm quân cấm vệ và quân các lộ với nhiều binh chủng (bộ
binh, thủy binh, kỵ binh, tượng binh…) giống như thời nhà Lý. Điểm khác hơn
chính là lực lượng quân đội riêng của vương hầu, quý tộc và các thủ lĩnh dân
tộc thiểu số, khi đất nước bị xâm lăng thì các đạo quân hợp lực cùng nhau đánh
giặc.
Về xây dựng lực lượng
quân đội, nhà Trần tiếp tục áp dụng chính sách “ngụ binh ư nông” của thời Lý, đồng
thời chủ trương “binh cốt tinh không cốt nhiều”. Do đó nhà Trần rất coi trọng
việc rèn luyện võ nghệ cho binh sĩ, lập ra “Giảng võ đường” để đào tạo quan võ,
tướng lĩnh, chú trọng xây dựng kỷ cương quân đội. Nhờ đó thời nhà Trần có lực
lượng quân đội rất hùng mạnh, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ vương
triều và đất nước.
-
Về kinh tế: Nhà Trần tiếp
tục chú trọng phát triển liên hoàn các chính sách về nông nghiệp, bao gồm: sở
hữu tư nhân về ruộng đất, tổ chức khai hoang, trị thủy - thủy lợi, bảo vệ sức
kéo, ngụ binh ư nông, ban cấp thái ấp, mở rộng mạng lưới giao thông đường bộ,
đường thủy. Triều đình đã lập ra Ty Khuyến nông, đặt các chức quan Hà đê chánh
phó sứ, hàng năm, mọi người đều có nghĩa vụ lao động tu sửa đê, học sinh Quốc
Tử Giám cũng không được miễn trừ.
Nhìn chung, dưới
triều Trần, một thế cân bằng ổn định về kinh tế đã được duy trì giữa các yếu tố
công hữu và tư hữu, giữa nông nghiệp và nền kinh tế hàng hóa, giữa quyền lực,
lợi ích của Nhà nước, (quyền sở hữu ruộng đất Nhà nước, nguồn tô thuế) với các
đẳng cấp quý tộc quan liêu (thái ấp điền trang) cũng như của khối bình dân làng
xã (ruộng công).
-
Về xây dựng pháp luật: Kế
thừa nhà Lý, thời Trần cũng tồn tại song song hai hình thức pháp luật: luật
thành văn do Nhà nước ban hành và luật tục trong các làng xã. Tuy nhiên nhà Trần
rất quan tâm đến việc xây dựng pháp luật của vương triều, biểu hiện qua việc đã
cho biên soạn và ban hành nhiều bộ luật như:
- Quốc triều thông
chế (1230);
- Quốc triều thường
lễ (1230);
- Hoàng triều ngọc
điệp (1267);
- Công văn cách thức
(1290);
- Hoàng triều đại
điển (1341);
- Hình thư (1341).
Đây là bộ luật được Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn khảo đính bộ Hình thư thời
Lý và trở thành bộ luật cơ bản của vương triều.
Nhìn chung, pháp
luật đời Trần bảo vệ nghiêm ngặt chính thể quân chủ và chế độ đẳng cấp. Tội mưu
phản Triều đình bị xếp vào hàng đại nghịch và bị trừng trị rất nặng “phải giết
hết thân tộc”. Đẳng cấp quý tộc quan liêu được pháp luật ưu đãi, có quyền dùng
tiền chuộc tội. Gia nô và nô tì không được quyền tố cáo chủ. Trong gia đình,
cấm cha con, vợ chồng và gia nô không được kiện cáo nhau.
Pháp luật đời Trần
cũng đã bảo vệ quyền tư hữu tài sản của người dân. Tội trộm cắp bị trừng trị
rất nặng, thích chữ vào mặt, chặt ngón chân, lần thứ ba sẽ bị giết. Những đồ
vật lấy trộm một phần sẽ phải đền 9 phần, nếu không đền được bắt vợ con sung
làm nô tì.
Trong các làng xã,
dân chúng vẫn tuân theo các phong tục cổ truyền, các bô lão giữ vai trò dàn xếp
và xét xử.
-
Về đối nội: Nhận thấy được
những khiếm khuyết của các triều đại trước, nên sau khi thành lập, nhà Trần đã
ra sức củng cố bộ máy nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, xây dựng hệ thống
bộ máy nhà nước gồm bốn cấp từ trung ương đến địa phương một cách chặt chẽ. Đây
là một bước phát triển vượt bậc trong lịch sử và phản ánh cho thấy nhà nước
thời này đã đặc biệt quan tâm trực tiếp với tay quản lý đến cấp cơ sở, đưa
hương - giáp - xã vào nền nếp, khuôn khổ, vận hành theo qũy đạo chung của quốc
gia phong kiến quân chủ trung ương tập quyền. Việc làm này hẳn không ngoài mục
đích quản lý có hiệu lực vì lợi ích của đội ngũ cầm quyền đồng thời còn để sát
dân, gần dân, động viên huy động toàn dân dựng nước, giữ nước có kết quả. Vai trò
của hương, giáp, xã trong kháng chiến chống giặc Tống vào thế kỷ XI và ba lần
chống giặc Nguyên Mông vào thế kỷ XIII đã chứng minh rõ điều đó.
-
Về đối ngoại: Nhà Trần
tiếp tục chính sách của nhà Lý trong việc giữ yên biên cương, bảo toàn lãnh
thổ. Tuy có sự việc xảy ra năm 1252, quân Chămpa cướp bóc vùng ven biển phía
nam Đại Việt đã bị quân Việt, dưới sự chỉ huy của vua Trần Thái Tông, tiến quân
vào đánh bại, nhưng nổi bật lên vẫn là quan hệ hoà hiếu rất tốt đẹp giữa nhà Trần
với vương triều Indravarman IV của Chămpa, nhất là trong và sau cuộc phối hợp
kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược. Trong quan hệ ngoại giao với Mông Cổ,
nhà Trần tỏ thái độ rất kiên quyết tìm mọi cách để giữ vững độc lập, tự chủ,
mặc dù vẫn chịu nộp cống cho chúng theo lệ thường từ trước với nhà Tống, làm
cho nhà Nguyên phải kính nể. Khi quân Mông - Nguyên xâm lược nước ta, nhà Trần
đã lãnh đạo cả nước đứng lên đánh thắng chúng, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền và độc
lập của đất nước.
* Vai
trò của nhà nước thời Trần:
Giống như nhà nước
phong kiến thời Lý, nhà nước thời Trần cũng là một nhà nước quân chủ trung ương
tập quyền phương Đông. Tuy nhiên do áp dụng chế độ “lưỡng đầu”, nên mặc dù trên
danh nghĩa thì nhà vua là người đứng đầu đất nước, nhưng quyền hành thực tế lại
nằm trong tay Thái thượng hoàng. Các vua Trần tự coi là cha mẹ của dân, thi
hành một chính sách thân dân kiểu gia trưởng, kết hợp với tư tưởng nhân từ bác
ái của đạo Phật. Thời bình, các vua Trần thường xuyên thăm hỏi việc đắp đê, gặt
hái, trong các dịp hội hè đã xuống dự cùng dân chúng. Khi đất nước có họa xâm
lăng, Vua – Thái thượng hoàng là người có quyền quyết định trong việc tổ chức
và phát động chiến tranh, hoặc xuống chiếu huy động quân đội trong nước. Khi có
chiến tranh, vua hoặc các hoàng tử thường trực tiếp “tự làm tướng” cầm quân đi
đánh giặc.
2.3. Nhà Lê Sơ.
* Sự ra
đời của nhà Lê Sơ:
Năm 1406, lấy cớ nhà
Hồ cướp ngôi của nhà Trần, nhà Minh đưa quân sang xâm chiếm nước ta. Chỉ sau
sáu tháng, do đường lối chiến lược và chiến thuật sai lầm, cuộc kháng chiến của
nhà Hồ đã bị thất bại, từ đó nước ta rơi vào ách đô hộ tàn bạo của phong kiến
nhà Minh trong 20 năm (1407-1427).
Tháng
7 năm 1407, vua Minh ra chiếu đổi nước ta thành quận Giao Chỉ, sát nhập vào
Trung Quốc, đồng thời, các quan
lại nhà Minh còn ráo riết thi hành chính sách ngu dân, đồng hoá dân tộc, triệt để cướp bóc, vơ vét của cải, nhân dân ta bị
cưỡng bức đi khai thác vàng, bạc, mò ngọc trai dưới biển, khai thác lâm thổ
sản, các hương liệu quý, đi lao dịch, nhiều người còn bị bắt làm nô tỳ, hoặc bị bắt đưa về
Trung Quốc, phục dịch bọn quan lại nhà Minh.
Chính
sách thống trị tàn bạo của nhà Minh đã vấp phải sự kháng cự của nhân dân ta.
Nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra và đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi
lãnh đạo. Trải qua 10 năm (1418 – 1427) gian khổ đấu tranh, nghĩa quân Lam Sơn
đã đánh đuổi được quân Minh, khôi phục nền độc lập của đất nước, mở ra một
triều đại mới đó là triều Hậu Lê mà thời kỳ đầu là Lê Sơ, một thời kỳ đỉnh cao
trong lịch sử phát triển Nhà nước và Pháp luật Việt Nam.
* Bộ máy
nhà nước:
Nhà nước Lê Sơ thời
kỳ này được xây dựng theo thiết chế quân chủ trung ương tập quyền. Quyền lực
nhà nước tập trung vào triều đình trung ương, đứng đầu là vua. Vua nắm trong
tay mọi quyền lực bao gồm cả kinh tế, chính trị, văn hóa, cả vương quyền và
thần quyền. Thời Lê Thánh Tông, chức Tướng quốc (Tể tướng) đầu triều và
một số chức danh đại thần khác đã bị bãi bỏ. Hoàng đế trực tiếp điều khiển
triều đình. Quyền lực của các quý tộc tôn thất cũng bị hạn chế, không được
lập quân vương hầu, phủ đệ, Lê Thánh Tông bỏ lệ ban Quốc tính.
Về
phẩm trật trong triều, dưới vua là các quan chức cao cấp dành riêng cho các tôn
thất và các đại công thần. Đứng đầu quan lại trong triều là Tả, Hữu tướng quốc
(tương đương chức Tể tướng), tiếp đó là các đại thần ban văn gồm Tam thái (sư,
phó, bảo), Tam thiếu (sư, phó, bảo), Tam tư (đồ, mã, không). Đại thần ban võ
gồm Thái úy, Thiếu úy và Bình chương sự. Đội ngũ quan lại trong triều cũng được
chia thành hai ngạch văn và võ. Đứng đầu ngạch văn là chức Đại hành khiển, tiếp
là chức Thượng thư đứng đầu các bộ (ban đầu chỉ có hai bộ là bộ lại và bộ lễ.
Sau là 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ,
Binh, Hình, Công).
Ở các bộ vẫn là các chức quan như: Tham tri, Gián nghị, Thị lang, Lang trung
.v.v. Những cơ quan chuyên môn
trong triều gồm có các đài, các viện, giám, sảnh như Ngự sử đài, Hàn lâm
viện, Quốc tử giám, Nội thị sảnh ... Đứng đầu ngạch quan võ là Đại
tổng quản hay Đại đô đốc tổng quản (tổng chỉ huy quân đội). Tiếp đó là các chức
võ quan cao cấp như thời Lý, Trần.
Nói
tóm lại, qua các triều đại thời Lê sơ, các đời vua đều quan tâm và cố gắng thực hiện là kiện toàn bộ máy nhà nước
quân chủ tập trung. Đến thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497), nó đạt tới đỉnh
cao, trở thành một nhà nước toàn trị, cực quyền, mang tính quan liêu
chuyên chế. Đây là một bước ngoặt lịch sử, một sự chuyển đổi mô hình, từ
nền quân chủ quý tộc thời Lý - Trần mang đậm tính Phật giáo màu sắc Đông
Nam Á sang một nền quân chủ quan liêu Nho giáo Đông Á.
* Việc
điều hành đất nước:
-
Về phân chia địa giới hành chính:
Năm
1427, khi còn bao vây quân Minh ở Đông Quan, Lê Lợi đã bước đầu xây dựng hệ
thống chính quyền và phân chia các khu vực hành chính trong nước, Vùng Bắc bộ
được chia thành 4 đạo Đông, Tây, Nam, Bắc. Dưới các đạo là trấn, châu, huyện.
Sau
khi đánh đuổi được quân Minh, nhà Hậu Lê chia cả nước thành 5 đạo gồm 4 đạo cũ
ở Bắc bộ và một đạo mới Hải Tây. Dưới đạo là các trấn, lộ rồi đến phủ, huyện,
châu và cuối cùng là xã.
Năm
1466, nhà Hậu Lê phân chia lại đơn vị hành chính. Theo đó, cả nước được chia
thành 12 đạo, dưới đạo là phủ, châu, huyện, xã. Đến năm 1471, khi lãnh thổ Đại
Việt được mở rộng đến Bình Định, nhà nước đã cho đặt thêm đạo thứ 13 là Quảng
Nam gồm 4 phủ, 9 huyện. Bộ máy cai quản ở các đạo tăng từ 2 ty lên thành 3 ty
nhằm phân chia quyền hạn giữa các lĩnh vực binh, chính, hình nhằm thu hẹp, hạn
chế bớt quyền hạn của quan lại ở địa phương, ngăn chặn khuynh hướng phân tán,
cát cứ.
-
Về sử dụng, tuyển chọn quan lại:
+ Trong vấn đề sử
dụng quan lại,
nhà nước thời Lê Sơ rất coi trọng việc đánh giá đúng nỗ lực và phẩm chất của
từng quan lại. Cứ 3 năm một lần, nhà nước tổ chức sơ khảo; sau 3 lần sơ khảo
thì tiến hành chung khảo. Kết quả các kỳ thi sơ khảo, chung khảo là cơ sở để
thăng hoặc giáng chức, thuyên chuyển quan lại. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông ra
chiếu dụ “Hiệu định quan chế” quy định rõ ràng công việc và trách nhiệm của các
chức quan từ trung ương cho đến địa phương, cấp xã quan cũng phải đạt tiêu
chuẩn là hạng giám sinh, tư đồ hay “lương gia tử đệ”, trên 30 tuổi, phải biết
chữ và có hạnh kiểm tốt. Quan lại được hưởng đặc quyền, đặc lợi so nhà nước quy
định, đồng thời còn có quy định riêng về trang phục, nhà cửa cho các hạng quan
mà dân không được áp dụng.
+
Trong tuyển chọn quan lại, thời Lê Sơ nói chung và đặc biệt là thời vua Lê
Thánh Tông, việc tuyển chọn quan lại được thực hiện chủ yếu thông qua con đường
thi cử. Từ năm 1442, nhà nước đã quy định về việc thi tiến sĩ và chủ trương
khắc tên những người thi đậu tiến sĩ vào bia đá đặt tại Quốc tử giám. Đến đời
vua Lê Thánh Tông, chế độ giáo dục và khoa cử theo Nho giáo đã phát triển tới
mức cực thịnh với ba kỳ thi Hương, Hội, Đình, mở rộng đối tượng dự thi (trừ
người phạm tội và người ca hát). Ngoài những kỳ thi trên, nhà nước còn tổ chức
những kỳ thi chọn nhân viên với môn thi viết chữ và làm tính. Với cách thức
tuyển chọn như vậy, nhà nước Lê Sơ đã thực sự mang tính chất nhà nước quân chủ
quan liêu, lấy Nho giáo làm nền tảng tư tưởng . Ngoài ra, nhà nước Lê Sơ còn có
các công thức tuyển chọn quan lại khác như: Bảo cử (đề cử người có nỗ lực lên
bộ lại để tâu vua xin bổ dụng), nhiệm tử (sử dụng con cháu quan lại có công).
-
Về tổ chức quân đội: Quân đội thời Lê Sơ gồm thân binh
(quân trong thành) và ngoại binh (quân ở các địa phương). Quân các đạo ở địa
phương được chia thành vệ, ty, đội và tiếp tục thực hiện chính sách “ngụ binh ư
nông” như thời Lý – Trần. Thời vua Lê Thánh Tông, nhà vua trực tiếp chỉ huy
quân đội và quy định chế độ tuyển binh rất chặt chẽ.
Việc
luyện tập quân đội được quy chế hóa theo từng bình chủng và khảo hạch quân sĩ
theo thời hạn 3 năm một lần. Nhờ sự luyện tập và kỷ luật chặt chẽ nên quân đội
thời Lê Sơ rất mạnh, là công cụ bảo vệ vững chắc biên cương và mở rộng lãnh
thổ.
-
Về kinh tế: Nhà nước Lê sơ là một Nhà nước trọng nông, đã đề ra nhiều
biện pháp để khuyến khích và phát triển nông nghiệp.Việc chăm sóc, đào đắp
kênh đê rất được chú trọng. đặt ra các chức quan Khuyến nông và Hà đê. Khi
khẩn cấp đã huy động cả học sinh Quốc Tử Giám trong việc hộ đê. Để
bảo đảm sản xuất, các vua Lê đã cho thi hành chính sách “ngụ binh ư nông”, cho
quân đội thay phiên về làm ruộng, theo tinh thần “tĩnh vi nông. động vi binh”. Luật pháp nghiêm cấm việc giết trâu, bò
sống để bảo vệ sức kéo. Khi huy động công việc lao dịch, các quan sở tại
phải tránh thời vụ, để không làm kinh động sức dân.
Hoạt động thương nghiệp
chủ yếu ở thời Lê sơ là nền buôn bán nhỏ thông qua mạng lưới chợ ở nông
thôn và thành thị. Nhà Lê đã ban hành lệ lập chợ, khẳng định “trong dân gian hễ có dân là
có chợ, để lưu thông hàng hoá”.
Đối với thủ công nghiệp thì nhà nước Lê sơ một mặt dung dưỡng nền sản xuất nhỏ
thủ công nghiệp trong các làng xã, mặt khác đẩy manh hoạt động của các
quan xưởng thuộc thủ công nghiệp Nhà nước. Ở nông thôn, đã xuất hiện nhiều
làng chuyên nghề như Bát Tràng (gốm sứ), Huê Cầu (nhuộm thâm). Riêng việc
buôn bán với nước ngoài, Nhà nước đã kiểm soát nghiêm ngặt các cáng khẩu,
như Vân Đồn, Vạn Ninh, (Quảng Ninh), Càn Hải, Hội Thống (Nghệ An), cấm dân
chúng tự tiện buôn bán trao đổi hàng hóa với các tàu buôn ngoại quốc, thi
hành chính sách “bế
quan toả cảng”.
-
Về xây dựng pháp luật: Các
hoạt động lập pháp thời Lê Sơ được đẩy mạnh để đáp ứng các yêu cầu mọi mặt của
xã hội Đại Việt thời kỳ này. Quá trình xây dựng hệ thống pháp luật được bắt đầu từ thời vua Lê Thái
Tổ với các quy định về ruộng đất, kiện tụng và hình phạt. Đời vua Lê Thái Tông
nêu ra nguyên tắc xét xử các vụ kiện. Đời vùa Lê Nhân tông đưa ra quy định công
nhận và bảo vệ ruộng đất tư, đỉnh cao là đời vua Lê Thánh Tông với nhiều bộ
luật ban hành, trong đó có bộ luật cơ bản của nhà nước thời Lê Sơ là “Quốc triều
hình luật” hay còn gọi là “Lê triều hình luật”, “Luật Hồng Đức”. Đánh giá về bộ
luật này, trong “Lịch triều hiến chưng loại chí” nhà sử học Phan Huy Chú cho
rằng nó là: “cái
mẫu mực để trị nước, cái khuôn phép để buộc dân”. Ngoài bộ luật cơ bản trên,
nhà nước thời Lê Sơ còn ban hành nhiều bộ luật khác như:
+ Lê
triều quan chế (1471);
+
Thiên nam dư hạ tập (1483);
+
Hồng Đức thiện chính thư (1470 - 1497);
Tóm
lại, hệ thống pháp luật thời Lê Sơ mà tiêu biểu là Luật Hồng Đức được thiết lập
nhằm mục tiêu bảo vệ quyền thống trị của nhà nước phong kiến tập quyền (trừng
phạt nặng những tội làm tổn hại tới vua và triều đình). Bên cạnh việc củng cố
trật tự xã hội thì các điều luật đều nhắm đến việc bảo vệ chế độ tư hữu; lợi
ích của giai cấp địa chủ, phong kiến và tầng lớp quý tộc quan liêu, đồng thời
bảo vệ chế độ gia tộc phụ quyền và đạo đức phong kiến. Mặc dù có mô phỏng luật Trung Quốc, nhưng
nhiều điều khoản đã lưu ý đến những tập quán cổ truyền mang tính đặc hữu
dân tộc. Điểm tiến bộ của pháp luật
thời kỳ này là thể hiện được tính dân chủ, bảo vệ cuộc sống của dân tự do,
chống nô tì hóa, chống sự hà hiếp của cường hào, quan lại đối với nhân dân. Tôn
trọng quyền lợi phụ nữ trong việc
thừa kế gia tài và xét xử ly hôn, được coi là tiến bộ hơn so với luật
Trung Quốc đương thời. Có thể nói, bộ Quốc triều hình luật là một công trình lập pháp có vị
trí, vai trò rất lớn trong lịch sử nhà
nước và pháp luật Việt Nam. Nó là sản phẩm của thời đại chế độ phong kiến đang
lên, góp phần đưa quốc gia Đại Việt phát triển đến đỉnh cao.
-
Về đối nội: Các vua thời Lê sơ rất chú trọng đến việc trị nước bằng các chế định pháp luật; độc tôn Nho giáo và Nho học; đẩy mạnh phát triển nông
nghiệp kết hợp tăng cường rèn luyện quân đội; mở mang giáo dục, khoa cử và chấn
chỉnh kỷ cương triều chính… từng bước đưa nước Đại Việt từ một nước bị nô lệ
của nhà Minh trở thành một quốc gia độc lập và có vị thế trong khu vực.
-
Về đối ngoại: Với lòng tự
hào dân tộc, các vua thời Lê sơ đã không ngừng củng cố, phát triển quốc
gia dân tộc thống nhất. Lê Thánh Tông nói: “Quyết không để một tấc đất, một thước sông của
Thái Tổ lọt vào tay kẻ khác”.
Các vua Lê đã thi hành một chính sách hòa hoãn nhưng kiên quyết với nhà
Minh trong vấn đề biên giới, phát triển lãnh thổ về phía tây và phía nam.
Năm 1471, Lê Thánh Tông cất quân đánh Cham pa, chiếm thành Đồ Bàn
(Bình Định), lấy vùng đất mới lập thành thừa tuyên Quảng Nam. Các nước
trong khu vực (như Xiêm La, Miến Điện) đều đến triều cống.
* Vai trò của nhà nước thời Lê Sơ:
Trong thiết chế quân
chủ tuyệt đối thời Lê sơ, vai trò của nhà vua đã được đẩy lên rất cao với
chủ nghĩa “tôn quân”. Nhà
nước quân chủ tập trung thời Lê sơ là một nhà nước mạnh và ổn định. Bên
cạnh vai trò nhà vua chỉ huy, thống lĩnh quân đội cùng với bộ máy quan lại thực
thi chính sách và pháp luật của triều đình được kế thừa và phát huy từ thời Lý
– Trần, nhà nước thời Lê Sơ còn đề cao vai trò chỉ đạo và sự can thiệp của
mình vào đời sống kinh tế - xã hội, duy trì sự cân bằng giữa những yếu tố
nhà nước và dân gian, công hữu và tư hữu; can thiệp và bảo hộ chính sách trọng
nông, thu tô; khuyến khích phát triển nền kinh tế tiểu nông - sản xuất nhỏ làng
xã, đồng thời hạn chế giao thương với nước ngoài.
2.4. Nhà Nguyễn.
* Sự ra
đời của nhà Nguyễn:
Nhà Nguyễn được thành
lập năm 1802, sự ra đời của vương triều này là kết quả của cuộ đấu tranh lâu
dài và khốc liệt giữa dòng họ Chúa Nguyễn ở Đàng Trong với phong trào nông dân
Tây Sơn. Người lập ra thời đại phong kiến cuối cùng này là Nguyễn Phúc Ánh
(1762 - 1820).
Năm 1774, lợi dụng sự suy sụp của triều đình chúa Nguyễn do
cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, quân Trịnh vào chiếm Phú Xuân khiến Nguyễn Phúc Ánh
phải trốn vào Nam. Từ đó ông bôn tẩu gian nan, tìm đủ mọi cách chiêu tập lực
lượng, cầu cứu nước Pháp (1784), xin viện trợ quân Xiêm (1785) để giành lại
vương quyền cho họ Nguyễn nhưng đều bị quân Tây Sơn đánh bại. Chỉ đến sau khi
vua Quang Trung mất (năm 1792), quân Tây Sơn ngày càng yếu thì quân Nguyễn mới
khôi phục và ngày càng lớn mạnh. Năm 1801, quân Nguyễn do Nguyễn Phúc Ánh chỉ
huy đã đánh chiếm Quy Nhơn và chiếm Thuận Hóa. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh
lên ngôi Hoàng đế ở Phú Xuân, lấy niên hiệu là Gia Long, chính thức lập nên
triều đại nhà Nguyễn. Tháng 3 năm 1804, vua Gia Long đổi quốc hiệu nước ta là
Việt Nam.
Sự ra đời của nhà
Nguyễn đã chấm dứt thời kỳ đất nước bị phân liệt, chia cắt kéo dài, hoàn thành
sự nghiệp thống nhất quốc gia mà trước đó nhà Tây Sơn đã đặt nền móng. Lãnh thổ
nước ta thời Nguyễn đã kéo dài từ Lạng Sơn, Cao Bằng cho đến tận Cà Mau, Hà
Tiên, cơ bản trùng với lãnh thổ nước ta hiện nay.
* Bộ máy
nhà nước:
Nhà Nguyễn đã xây
dựng một thiết chế nhà nước theo khuynh hướng trung ương tập quyền, quân chủ
chuyên chế. Trải qua các đời vua Nguyễn, có thể nói triều vua Minh Mạng đã xây
dựng một nhà nước phong kiến đạt đỉnh đến cao, Ông đã tiến hành cải cách và tổ
chức bộ máy nhà nước từ trung ương đến các địa phương chặt chẽ hơn, hoàn chỉnh
hơn đời vua Gia Long trước đó. Về cơ bản, bộ máy nhà nước thời Nguyễn như sau:
+
Chính quyền trung ương: Đứng
đầu đất nước và triều đình là vua (hoàng đế). Vua là người nắm mọi quyền lực,
nắm toàn quyền quyết định mọi công việc từ vương quyền đến thần quyền; kinh tế,
chính trị, lập pháp, hành pháp và tư pháp. Dưới vua có 6 bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh,
Hình, Công). Đứng đầu mỗi bộ là thượng thư, giúp việc cho thượng thư có các
quan chức tả hữu tham tri, tả hữu thị lang. Mỗi bộ đều có văn phòng bộ và tùy theo
phạm vi công việc mà chia thành các ty chuyên trách.
Các
cơ quan chuyên môn trong triều là Viện, Giám, Ty, Phủ, Quán…còn được gọi là Nha
môn. Mỗi Nha môn chịu trách nhiệm về một lĩnh vực cụ thể và có quyền tấu trình
trực tiếp lên hoàng đế.
Hệ
thống tư pháp gồm ba cơ quan chính là Bộ hình, Đô sát viện và Đại Lý tự hợp
thành Tam pháp ty. Thời nhà Nguyễn, triều đình không chỉ quan tâm chú trọng xây
dựng hệ thống cơ quan tư pháp thông qua việc kiện toàn Tam pháp ty mà còn
thường xuyên đích thân nhà vua hoặc cử các quan đại thần làm khâm sai thay mặt
triều đình đi thanh tra, nắm bắt tình hình ở các địa phương, kịp thời chấn
chỉnh, giải quyết các vấn đề của đất nước.
+ Chính quyền địa phương:
-
Thời kỳ đầu (1802 – 1830): Chức vụ cao nhất ở địa phương là Tổng trấn, quản lý
Bắc Thành và Gia Định thành. Giúp việc cho Tổng trấn là Phó Tổng trấn. Bộ máy ở
thành có các Tào (hộ, binh, hình), Phòng (lại, lễ, công). Các trấn, doanh do Trấn
thủ đứng đầu, giúp việc ho Trấn thủ là Hiệp trấn, Tham trấn, Cai bạ. Các phủ,
huyện, châu do Tri phủ, Tri huyện, Tri châu đứng đầu và cuối cùng là các chức
Chánh tổng, Xã trưởng ở cấp xã.
-
Thời kỳ sau (từ 1831 trở đi): Do vua Minh Mạng xóa bỏ đơn vị hành chính cấp
thành, thành lập cấp tỉnh nên đứng đầu các tỉnh là Tổng đốc, tiếp đó là các
chức Tuần phủ, Bố chánh, Án sát. Ngạch võ thì có Đề đốc, Lãnh binh trông coi
quân đội. Ngoài ra còn có các chức quan chuyên trách như: Hà đê sứ, Doanh điền
sứ, Đốc học… Riêng cấp hành chính dưới tỉnh thì không có thay đổi gì lớn ngoài
việc quy định xóa bỏ quyền thế tập của các Tri châu miền núi, đồng thời cử Lưu
quan là người kinh lên các châu để giám sát và thu thuế; các huyện có bổ sung
thêm các chức Giáo thụ, Huấn đạo để trông coi việc học.
* Việc
điều hành đất nước:
-
Về phân chia địa giới hành chính:
Dưới thời Gia Long,
các đơn vị hành chính trong cả nước được chia thành nhiều khu vực có tên gọi
rất khác nhau: Kinh đô gọi là dinh Quảng Đức, đến
năm 1822 đổi thành phủ Thừa Thiên. Từ Thanh Hoá trở ra Bắc gọi là Bắc thành gồm
11 trấn và từ Bình Định trở vào Nam gọi là Gia Định trấn (đến năm 1808 đổi là
Gia Định thành) chia thành 5 trấn. Bắc thành và Gia Định thành là hai đơn vị
hành chính địa phương lớn nhất trực thuộc trung ương, có đầy đủ bộ máy cai trị
như một triều đình thu nhỏ, đứng đầu mỗi thành là một viên tổng trấn và một
viên phó tổng trấn trông coi mọi việc.
Đến thời Minh Mệnh, địa giới hành chính có nhiều thay đổi nhằm củng cố chế độ quân chủ chuyên
chế và quốc gia thống nhất. Các đơn vị hành chính cấp thành, trấn bị bãi bỏ,
thống nhất tên gọi các đơn vị hành chính cấp trung gian trong cả nước là liên
tỉnh và tỉnh, bãi bỏ cả tên gọi doanh ở miền Trung.
Năm 1831, Minh Mệnh
chia các trấn trước đây thành 18 tỉnh. Năm 1832, tất cả các trấn, doanh còn lại
ở miền Trung và miền Nam cũng được đổi thành tỉnh. Cả nước có 31 tỉnh chịu sự quản
lý trực tiếp của chính quyền trung ương. Hai tỉnh có địa dư gần nhau ghép lại
thành một liên tỉnh do một viên tổng đốc cai quản (cá biệt cũng có trường hợp 3
tỉnh liên hợp như - liên tỉnh Sơn - Hưng - Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên
Quang). Dưới tỉnh là phủ rồi đến huyện (châu), tổng, xã. Cả nước bấy giờ có 31
tỉnh, 89 phủ và phân phủ, 255 huyện và châu, 1742 tổng và 18.200 xã.
Có thể thấy bộ máy
nhà nước ngày càng được củng cố chặt chẽ và hoàn thiện dưới thời vua Minh Mệnh
qua cuộc cải cách hành chính và chính quyền từ trung ương đến địa phương vào
những năm 1831-1832.
-
Về sử dụng, tuyển chọn quan lại: Nhà Nguyễn cũng dành cho quan lại nhiều quyền lợi như: lương bổng,
ban cấp đất đai, xe ngựa, trang phục…; cứ ba năm một lần thì tổ chức khảo hạch
quan lại. Đề ra một số chính sách để ngăn chặn nạn quan trường như: chính sách “hồi
ty”, có nghĩa tránh không cho quan lại làm quan ở chánh quán, quê mẹ, quê vợ;
không cho những người có quan hệ thân thiết cùng làm quan một nơi. Ngoài ra còn
có quy định về tiền công phí và tiền dưỡng liêm để giữ liêm chính trong đội ngũ
quan lại.
Về tuyển chọn quan
lại: nhà Nguyễn vẫn áp dụng ba phương thức truyền thông là “ấm sung”, “bảo cử”
và “khoa cử”, trong đó “khoa cử” là chủ yếu. Với cách thức tuyển chọn quan lại
như vậy, nhà Nguyễn cũng mang bản chất là nhà nước quân chủ quan liêu như thời Hậu
Lê.
-
Về tổ chức quân đội:
Dưới triều Nguyễn, về
mặt tổ chức quân đội, trên hết có 5 phủ đô đốc chỉ huy 5 quân (trung quân, tiền
quân, hậu quân, tả quân, hữu quân). Đứng đầu mỗi phủ đô đốc có chức đô thống
chưởng phủ sự, rồi đến các chức thống chê, chưởng vệ. Năm phủ đô đốc đặt dưới
quyền chỉ huy trực tiếp của nhà vua. Vua nắm quyền quyết định tối hậu về việc
điều động và di chuyển quân đội.
Quân đội được chia
làm 3 loại: thân binh, cấm binh, tinh binh. Thân binh có nhiệm vụ bảo vệ nhà
vua. Cấm binh bảo vệ hoàng thành, tinh binh bao gồm cả bộ binh, thuỷ binh, tượng
binh.
Sang thời Minh Mệnh,
quân đội gồm có bốn binh chủng: bộ binh, thuỷ binh, pháo binh, tượng binh. Tuy
nhiên, pháo binh và tượng binh còn là binh chủng phụ thuộc, chưa trở thành một
binh chủng hoàn chỉnh và mạnh như bộ binh và thuỷ binh. Trên các binh chủng này
có bốn quan đô thống chỉ huy. Đứng đầu 4 đô thống là Đô thống trung quân.
Quân đội thời Nguyễn
có tổ chức chặt chẽ, có quy củ, từng bước đi vào chính quy hoá từ tổ chức đến
trang bị, là một đội quân khá mạnh ở vùng Đông Nam Á bấy giờ. Thế nhưng, quân
đội đó đã không bảo vệ được nền độc lập của đất nước trước cuộc xâm lược của tư
bản Pháp. Nguyên nhân thất bại không phải do tổ chức, trang bị, lực lượng yếu
kém mà bởi những nguyên nhân khác, trong đó nguyên nhân cơ bản là do đường lối
đánh giặc giữ nước sai lầm của vua quan triều Nguyễn ở nửa cuối thế kỷ XIX.
-
Về kinh tế: Triều Nguyễn quản
lý đất nước từ năm 1802, đứng trước những khó khăn, thử thách to lớn về kinh
tế, đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề ruộng đất và đời
sống của nhân dân.
Trong
lĩnh vực nông nghiệp thì các vua
triều Nguyễn đã thực hiện một số biện pháp, chính sách về ruộng đất như chính
sách quân điền (năm 1804), doanh điền (1828), đồng thời đẩy mạnh chính sách khai khẩn ruộng đất hoang dưới nhiều hình thức và huy động binh lính, dân nghèo, người Hoa, người dân
tộc thiểu số, những người bị tù tội nặng đi khai hoang do nhà nước tổ chức để
thành lập đồn điền ở nhiều nơi. Ngoài ra, công cuộc trị
thuỷ và thuỷ lợi cũng được các vua triều Nguyễn từ Gia Long đến Minh Mệnh,
Thiệu Trị quan tâm. Hàng năm, nhà nước xuất tiền của thuê nhân công sửa đắp đê
và kêu gọi các quan lại đóng góp ý kiến về các biện pháp chống lụt, hạn.
Trong
lĩnh vực thủ công nghiệp: Thời Nguyễn, thủ công nghiệp nhà nước giữ một vai trò
quan trọng, bao gồm 57 cục với nhiều công xưởng và ngành nghề khác nhau như làm
gạch ngói, đúc, làm đá, vẽ, làm đồ pha lê, vàng, bạc, khắc chữ, đúc súng, làm
đạn, đóng thuyền, bè, làm đồ trang sức, in ấn, sản xuất lịch và một số máy móc. Bên cạnh đó, thủ công nghiệp trong nhân dân khá phát triển.
Các làng nghề thủ công tiếp tục được duy trì và mở rộng bao gồm các nghề xây
dựng, làm đồ gốm, sành sứ, dệt vải, lụa...
Trong lĩnh vực thương nghiệp: Việc
buôn bán trong nước được mở rộng và phát triển, nhưng ngược lại thì thực hiện chính sách “đóng
cửa” không buôn bán với các nước tư bản phương Tây do lo sợ dã tâm xâm chiếm
ngày càng lộ rõ của các đế quốc tư bản Phương Tây hùng mạnh.
Nhìn chung, nền kinh
tế hàng hoá Việt Nam dưới triều Nguyễn tuy có một số hoạt động mới, nhưng vẫn
không có bước phát triển đáng kể.
-
Về xây dựng pháp luật: Hoạt động lập pháp của nhà
Nguyễn thời kỳ này được đẩy mạnh, các đời vua đầu của nhà Nguyễn từ Gia Long
đến Tự Đức đều chú trọng xây dựng pháp luật, cho biên soan và ban hành các bộ
luật, điển hình như:
+ Năm
1815 ở đời vua Gia Long, nhà Nguyễn ban hành bộ luật cơ bản của vương triều, đó
là bộ “Hoàng Việt luật lệ” hay còn gọi là Luật Gia Long.
+ Năm
1833, vua Minh Mạng ban hành bộ “Đại Nam Hội điển toát yếu”, đầy là công trình
tập hợp, hệ thống hóa các văn bản pháp luật do hoàng đế ban hành như: Chiếu,
Chỉ, Dụ, Lệnh, Chuẩn được sắp xếp theo trình tự thời gian. Tập Hội điển này quy
định về chế độ, chức trách của các quan và nhiệm vụ, quyền hạn chính của các bộ
luật hành chính.
+ Năm
1843, vua Thiệu Trị cho xây dựng bộ “Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ”, kéo dài
đến đời vua Tự Đức mới hoàn thành (13 năm). Bộ Luật này cũng tập hợp các văn
bản pháp luật do hoàng đế ban hành, chủ yếu bổ sung thêm về lĩnh vực dân sự,
hình sự và tố tụng.
Nội
dung chủ yếu của pháp luật thời Nguyễn là bộ “Hoàng Việt luật lệ”. Đây là một
bộ luật tổng hợp giống như bộ “Quốc triều hình luật” thời Lê. Bộ luật này đề
cập đến đến bốn lĩnh vực chính: Luật hình, luật dân sự, luật hôn nhân gia đình
và luật tố tụng. Các điều luật của luật pháp thời Nguyễn đã phản ánh và củng cố
quan hệ phong kiến ở giai đoạn cuối của chế độ phong kiến Việt Nam. Nó là căn
cứ bảo vệ quyền thống trị cỉa chế độ quân chủ chuyên chế nhà Nguyễn và là quyền
lợi của giai cấp địa chủ phong kiến. Nó cũng là căn cứ để bảo vệ trật tự xã hội
và chế độ gia đình gia trưởng phụ quyền trên cơ sở đạo Lý nho giáo kết hợp với
các phong tục tập quán của làng xã Việt Nam.
Nhận
xét chung về Bộ luật Gia Long nói
riêng và luật pháp thời Nguyễn nói chung, luật pháp thời kỳ này đã đạt
được những thành tựu quan trọng, thể hiện qua việc xây dựng và ban hành bộ
“Hoàng Việt Luật lệ” và các tập “Hội điển” lớn. Đó vừa là kết quả của hoạt động
lập pháp thời Nguyễn, vừa sự kế thừa những thành tựu pháp luật của các thời kỳ
trước, nhất là thời Lê đồng thời có sự vận dụng pháp luật của nhà Thanh (Trung
Quốc). Tuy nhiên đến thế kỷ XIX, với việc bảo vệ và củng cố chế độ phong kiến
khi chế độ này đã lỗi thời, do vậy mà pháp luật thời Nguyễn không đóng góp được
hiện có yêu cầu phát triển của đất nước ta lúc đó, đó là thúc đẩy kinh tế hàng
hóa, chuyển sang chế độ tư bản chủ nghĩa.
-
Về đối nội: Mặc dù triều đình nhà Nguyễn
có nhiều cố gắng trong việc cải cách nhà nước, nhưng với một chế độ phong kiến
lỗi thời và nhiều chính sách sai lầm khác đã đẩy đời sống nhân dân Việt Nam vào
con đường cơ cực. Vì vậy trong
nửa đầu thế kỷ XIX đã có tới trên 300 cuộc nổi dậy của các tầng lớp nhân dân
nối tiếp nhau diễn ra. Phong trào đấu tranh không chỉ thu hút lực lượng nông
dân mà còn lôi cuốn cả trí thức, quan lại nhỏ, nhân dân và thủ lĩnh các dân tộc
ít người cùng binh lính. Từ những rối ren đó cộng với những âm mưu thôn tính
nước ta lamg thuộc địa của các nước phương Tây đã khiến triều đình nhà Nguyễn
gặp nhiều lúng túng trong chính sách đối nội.
-
Về đối ngoại: Cũng như các
triều đại trước, nước đầu tiên mà Gia Long tiến hành ngoại giao là Trung Quốc.
Năm 1802, sau khi lên ngôi vua, Gia Long cho một đoàn sứ giả sang cầu phong
triều đình Trung quốc, xin đổi quốc hiệu là Nam Việt. Sau những
tranh luận về tên gọi, nhà Thanh đồng ý đảo ngược lại thành Việt Nam, vua Thanh
cho Tổng đốc Quảng Tây là Tề Bố Xâm sang làm lễ tấn phong cho
Gia Long là Việt Nam quốc vương, ấn định thể lệ tiến cống hai năm
một lần và cứ bốn năm một lần Việt Nam sẽ phái sứ bộ sang làm lễ triều kính.
Ngoài Trung Quốc, nhà
Nguyễn còn qua lại với Xiêm La. Từ năm 1802 trở đi hai bên vẫn có sự sứ bộ qua
lại trao đổi thân thiện và tặng phẩm. Tại Ai Lao, Việt và Xiêm cùng đặt ảnh
hưởng, Quốc vương Ai Lao xin thần phục cả Việt lẫn Xiêm. Còn với Chân
Lạp, khi vua Gia Long lên ngôi, nước Cao Miên tuy mất Thủy Chân
Lạp cho người Việt nhưng vẫn phải chịu thần phục.
Đối
với các nước phương Tây, do sự bành trướng ngày càng lớn của họ tại các quốc
gia Đông Nam Á nên khiến triều đình nhà Nguyễn lo ngại và thực hiện chính sách
bế quan tỏa cảng. Chỉ sau khi Gia
Định bị người Pháp chiếm, việc ngoại giao giữa triều đình với các
nước phương Tây khó khăn, Tự Đức mới thay đổi chính sách, đặt
ra Bình Chuẩn Ty để lo buôn bán và Thượng Bạc Viện để giao
dịch với người nước ngoài, nhưng không được khuyến khích phát triển.
* Vai trò của nhà nước thời Nguyễn:
Cùng
là nhà nước quân chủ phong kiến
tập quyền thống nhất trên toàn lãnh thổ, nhưng với một số các cải cách hành chính, đặc biệt
dưới triều vua Minh Mạng đã có một số đổi mới làm tăng thêm vai trò của bộ máy
quan liêu đối với việc đóng góp ý kiến vào thể chế điều hành, quản lý nhà nước
của nhà vua.
Trong
quá trình quản lý đất nước, mặc dù triều đình nhà Nguyễn vẫn còn nhiều tồn tại,
hạn chế; nhưng khách quan mà xét thì nhà nước thời Nguyễn đã đóng vai trò rất
lớn trong việc mở mang bờ cõi và định hình đất nước, chú trọng xác lập chủ
quyền biển đảo, quan tâm tôn tạo các di tích lịch sử đời trước, đồng thời để
lại một số di sản văn hóa có giá trị quốc tế như: Cố đô Huế, Hội An và Nhã nhạc cung đình Huế.
*
--------------------* --------- *--------------------
Câu
3: Những nội dung cơ bản của hai
Bộ Luật “Quốc triều hình luật” (Luật Hồng Đức) thời Lê Sơ và “Hoàng Việt luật
lệ” (Luật Gia Long) thời nhà Nguyễn. So sánh hai bộ luật trên.
Trả lời
1) Nội
dung cơ bản hai bộ luật:
Xem giáo trình Thầy Thông
2) So
sánh hai bộ luật:
a)
Điểm giống nhau: Đều ra
đời trong chế độ phong kiến nên cả hai bộ luật đều thể hiện rõ bản chất giai
cấp của nó. Mục tiêu hàng đầu của nó là để bảo vệ vương quyền và bên cạnh việc
củng cố trật tự xã hội thì các điều luật đều nhắm đến việc bảo vệ chế độ tư
hữu; lợi ích của giai cấp địa chủ, phong kiến và tầng lớp quý tộc quan liêu,
đồng thời bảo vệ chế độ gia tộc phụ quyền và đạo đức phong kiến. Nó là sự pháp
điển hóa tư tưởng chính trị và đạo đức Nho giáo.
b)
Điểm khác nhau: So với bộ
Hoàng Việt luật lệ (hay luật Gia Long) ra đời sau hàng thế kỷ (năm 1811), có
thể thấy luật Hồng Đức chưa có tính khái quát hóa cao và phân ngành rõ như
Hoàng Việt luật lệ. Tuy nhiên, sự bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong luật
Hồng Đức lại tốt hơn so với Hoàng Việt luật lệ. Như giáo sư Vũ Văn Mẫu đã viết
khi nhận xét về Hoàng Việt luật lệ “bao nhiêu những sự tân kỳ mới lạ trong bộ luật triều
Lê đã không còn lưu lại một chút dấu tích nào trong luật nhà Nguyễn. Không còn
những điều khoản liên quan đến hương hỏa, đến chúc thư, đến các điều kiện về
giá thú, đến chế độ tài sản của vợ chồng.” (Vũ Văn Mẫu, Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử, quyển
1, tập 1, Sài Gòn, 1973).
* Các điểm tiến bộ
của Luật Hồng Đức:
- Điểm tiến bộ thứ
nhất trong luật Hồng Đức là nó cho thấy vai trò của người phụ nữ đã được đề cao
hơn rất nhiều so với các bộ luật đương thời trong khu vực. Nó cho thấy người vợ
có quyền quản lý tài sản của gia đình (khi chồng chết) và họ có quyền thừa kế
như nam giới.
- Điểm thứ hai, là
hình phạt cho phạm nhân nữ bao giờ cũng thấp hơn so với phạm nhân nam.
- Điểm thứ ba, nó thể
hiện chính sách trọng nông của triều Lê. Bộ luật trừng phạt rất nặng các tội
như phá hoại đê điều (điều 596), chặt phá cây cối và lúa má của người khác
(điều 601), tự tiện giết trâu ngựa (điều 580) v.v
- Điểm thứ tư, luật
Hồng Đức thể hiện sự quan tâm và bảo vệ dân thường. Trong bộ luật có nhiều điều
trừng phạt nghiêm khắc những người quyền quý ức hiếp, nhũng nhiễu thường dân.
*
--------------------* --------- *--------------------
Câu
4: Chứng minh rằng Luật
Hồng Đức đã thể chế hoá tư tưởng Nho giáo.
Trả lời
Các vua nhà Lê, kể từ
vua Lê Thái Tổ (1428-1433) sau khi lên ngôi đều đề cao Nho học. Thời Lê các bộ
kinh điển và sách vở liên quan tới Nho giáo được du nhập từ Trung Hoa và được
phổ biến rộng rãi, vì vậy Nho giáo có điều kiện để trở thành cơ sở Lý luận cho
các nhà soạn thảo luật pháp thời Lê.
Cũng giống như vấn đề
chủ quyền quốc gia, luật pháp thời kỳ nào cũng điều chỉnh vấn đề hôn nhân và
gia đình, nhưng mục đích của việc điều chỉnh vấn đề hôn nhân gia đình trong
Quốc Triều Hình Luật là nhằm bảo vệ chế độ tông pháp của Nho giáo. Những chuẩn
mực đạo đức ấy được tập trung vào các mối quan hệ cơ bản (Tam cương) với năm
đức chủ yếu (Ngũ thường). Quốc Triều Hình Luật điều chỉnh những quan hệ cơ bản
về kết hôn, ly hôn, quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, giữa
cha mẹ và con cái nhằm bảo vệ chế độ tông pháp và cũng là bảo vệ thuần phong mĩ
tục của dân tộc.
Pháp luật hình sự
thời kỳ nhà Lê cho phép người trong gia đình được che chở lẫn nhau, nghiêm cấm
sự tố cáo ông bà, cha mẹ - đó là đạo hiếu truyền thống của người Việt từ ngàn
đời nay được thể chế hoá vào trong luật. Trong tâm hồn của mỗi người Việt nam,
ngay từ thuở lọt lòng đã được giáo dục và ứng xử theo nguyên tắc hiếu - kính, con cái
trong gia đình phải kính trọng, hiếu thuận với ông bà, cha mẹ, biết “kính trên
nhường dưới”, người Việt quan niệm rằng “hiếu là nhân cách con người, là gốc
của nhân luân, là một giá trị xã hội cao quí”
Điều 504 qui định:
“Con cháu tố cáo ông bà, cha mẹ, nô tỳ tố cáo chủ có tội lỗi gì đều xử tội lưu
đi châu xa, vợ tố cáo chồng cũng bị tội trên. Tố cáo ông bà ngoại, cha mẹ và
ông bà cha mẹ về bậc tôn trưởng và hàng cơ thân của chồng, cùng là nô tỳ tố cáo
người bậc cơ thân của chủ, dẫu việc có thật cũng phải tội biếm hay tội đồ.”;
Điều 485: “Ông bà cha
mẹ bị người ta đánh, con cháu đánh lại mà không bị què gẫy, bị thương thì không
phải tội.” Đây là đặc điểm rất đặc sắc của Quốc Triều Hình Luật, thể hiện rõ ưu
thế của đạo đức, ngay cả trong trường hợp có sự xung đột giữa pháp luật và đạo
đức thì đạo đức vẫn được coi là cái gốc để điều chỉnh hành vi của con người.
Quốc Triều Hình Luật qui định về thất xuất (bảy trường hợp người chồng được
phép bỏ vợ), đây là những căn cứ mà người vợ rất dễ mắc phải. Cũng trong bộ
luật này nhà làm luật cũng qui định 3 trường hợp đặc biệt (tam bất khứ) buộc
người chồng không được phép bỏ vợ: Đã để tang nhà chồng được 3 năm; Trước khi
lấy chồng thì nghèo, sau đó trở nên giàu có; Trước khi lập gia đình có họ hàng
thân thích sau đó không còn bà con để trở về. Về mặt kĩ thuật lập pháp, hai
điều luật này tưởng chừng như ở rất xa nhau, nhưng chỉ với một điều luật qui định
“tam bất khứ” nhà làm luật đã hoàn thành xuất sắc việc bảo vệ sự ổn định của
gia đình, bảo vệ chế độ tông pháp, hạn chế việc phá vỡ trật tự gia đình của Nho
giáo vì thế mà người có cơ sở bền vững để tiết chế nhân tình, thực hiện nhân
nghĩa ở đời... Nhờ có Lễ, con người có thể tự mình nuôi dưỡng tính tình thành
tập quán, thói quen đạo đức truyền thống.
Tiếp thu quan điểm Lễ
của Nho giáo, các nhà làm luật triều Lê đã đưa ra những qui định và hình phạt
chặt chẽ nhằm bảo vệ lễ giáo phong kiến. Trong gia đình, những hành vi vi phạm
đạo Lý của Nho giáo cũng bị qui định phải chịu hình phạt theo hệ thống hình
phạt ngũ hình ở Điều 1, đó là hình phạt từ nhẹ đến nặng như: Suy, trượng, đồ,
lưu, tử. Để cho giáo Lý của đạo Nho được mọi người tuân theo một cách triệt để,
nhà làm luật đã dùng đến những hình phạt rất nặng để trừng trị những hành vi
trái với đạo Lý Nho giáo. Ngoài xã hội, chịu ảnh hưởng tư tưởng trung quân của
Nho giáo, Quốc Triều Hình Luật đưa ra các hình phạt cho những người phạm vào kỉ
cương phép nước và trật tự xã hội, mưu mô làm việc đại nghịch, mưu mô theo giặc
phản nước phải chịu hình phạt cao nhất là xử tử ở Điều 411, 412.
Việc qui định chặt
chẽ những lễ nghi trong gia đình, ngoài xã hội và trừng phạt nghiêm khắc những
người xâm hại lễ nghi thì Quốc Triều Hình Luật đã thể hiện sự kết hợp chặt chẽ
giữa Lễ và Hình. Qua đó, Bộ luật đã bảo vệ giá trị đạo đức truyền thống của dân
tộc như lòng hiếu thảo, sự tôn kính ông bà, cha mẹ của con cháu; sự hoà thuận
chung thuỷ giữa vợ chồng; sự kính nhường hoà thuận giữa anh chị em, truyền
thống tôn sư trọng đạo. Đồng thời các qui định nghiêm khắc áp dụng trong mỗi vi
phạm lễ nghi gia đình của Quốc Triều Hình Luật có tác động rất lớn đến sự tự
điều chỉnh hành vi trong gia đình khiến họ sớm có ý thức về nghĩa vụ, trách
nhiệm với bản thân và làm tròn bổn phận ở từng vị trí cụ thể với gia đình mình.
Như vậy, bộ luật đã hỗ trợ đắc lực cho sự giáo dục đạo đức trong gia đình,
trong xã hội, đã dùng pháp luật để xây dựng, củng cố những chuẩn mực và giá trị
đạo đức truyền thống.
Ngoài ra, Luật Hồng
Đức phần nào đã thể hiện được tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc ở
những điểm sau:
1) Tính
giai cấp: Bộ luật thể hiện
được tính bảo vệ công khai và tuyệt đối quyền lực chính trị và kinh tế của nhà
nước phong kiến. Bảo vệ lợi ích giai cấp phong kiến và các đặc quyền của tầng
lớp quí tộc quan liêu, đối với luật hình khi áp dung phương pháp chuộc tội bằng
tiền đối với những tội danh có mức lưu trở xuống. Đối tượng ngoài người phạm
tội do vô ý, người già, trẽ em thì chỉ có người thuộc họ hàng thân thích của
vua mới được áp dụng (công dân bình thường không được)
2) Tính
nhân dân: Bộ luật thể hiện
ở tính bảo vệ quyền lợi cá nhân con người, bảo vệ nền kinh tế tư hữu, chống sự
hà hiếp.
3) Tính
dân tộc: Bộ luật thể hiện
ở phương pháp làm luật phản ảnh các tiềm lực lập pháp ở các triều vua trước và
phản ảnh dưới sự phát triển kinh tế xã hội nội tại, xã hội phong kiến. Tuy
nhiên có những hạn chế như việc phân loại sắp xếp các điều luật còn phần nào
chồng chéo lẫn lộn, tính khái quát chưa cao. Nhưng với những nội dung và giá
trị to lớn về mặt lập pháp, bộ luật Hồng Đức đã phát huy ảnh hưởng không chỉ
trong xã hội cộng đồng mà còn là một di sản pháp luật quí giá của dân tộc ta.
*
--------------------* --------- *--------------------
Câu
5: Tại sao nói, pháp luật
phong kiến bảo vệ tuyệt đối quyền lợi của giai cấp thống trị.
Trả lời
Pháp luật phong kiến
Việt Nam bảo vệ tuyệt đối quyền lợi giai cấp thống trị vì pháp luật phong kiến
Việt Nam đã thể hiện tính giai cấp công khai, thể hiện rõ ý chí thống nhất về
trừng trị, dùng hệ thống hình phạt hà khắc để ngăn ngừa và trừng trị
những người có hành vi vi phạm pháp luật, điều đó mang đặc điểm chung của pháp
luật phong kiến, nó bảo vệ quyền thống trị của nhà nước phong kiến tập quyền.
Các hành vi xâm hại sự an toàn của triều đại đều được xếp vào tội thập ác và bị
xử Lý rất nặng. Luật Hồng Đức và Gia Long đều có chương cấm về qui định việc
bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự cho nhà Vua, bảo vệ cung điện, hoàng thành.
Quyền lợi kinh tế của nhà Vua được bảo vệ chặt chẽ. Luật nghiêm trị tất cả
những kẻ có hành vi xâm hại quyền sở hữu ruộng đất của nhà nước, nghiêm cấm
việc ẩn lậu thuế.
- Luật bảo vệ lợi ích
và đặc quyền đặc lợi của giai cấp địa chủ phong kiến và tầng lớp quí tộc quan
liêu. Luật của các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều bảo vệ quyền sở hữu tư
nhân của giai cấp địa chủ. Các tội trộm cướp đều bị trừng trị rất nặng. Luật
triều Nguyễn còn thừa nhận việc chuyển quyền chiếm hữu ruộng đất lâu năm thành
quyền sở hữu, tạo điều kiện cho giai cấp địa chủ và tầng lớp quí tộc, quan lại
lấn chiếm ruộng đất.
- Luật củng cố, bảo
vệ tôn ty trật tự xã hội phong kiến, chế độ gia đình trưởng và các nguyên tắc
đạo đức phong kiến. Nội dung này được thể hiện rõ nhất trong ngành luật hôn
nhân gia đình, luật tố tụng.
*
--------------------* --------- *--------------------
Câu
6: So sánh sự giống và
khác nhau về hình phạt chính và phụ của pháp luật thời Lý -
Trần với thời Lê Sơ.
Trả lời
1) Về hình phạt chính:
* Điểm
giống nhau:
Về
bản chất: Đều ra đời trong chế độ phong kiến nên cả hai
bộ luật đều thể hiện rõ bản chất giai cấp của nó. Mục tiêu hàng đầu của nó là
để bảo vệ vương quyền và bên cạnh việc củng cố trật tự xã hội thì các điều luật
đều nhắm đến việc bảo vệ chế độ tư hữu; lợi ích của giai cấp địa chủ, phong
kiến và tầng lớp quý tộc quan liêu, đồng thời bảo vệ chế độ gia tộc phụ quyền
và đạo đức phong kiến. Nó là sự pháp điển hóa tư tưởng chính trị và đạo đức Nho
giáo.
Về
nội dung: Đều có 5 loại hình
phạt chính là: Suy, Trượng, đồ, lưu, tử.
- Suy: hình phạt đánh
bằng roi.
- Trượng: hình phạt
đánh bằng gậy.
- Đồ: hình phạt bắt
người phạm tội làm khổ
- Lưu: Hình phạt bắt
người phạm tội đi đày.
- Tử: giết người phạm
tội bằng hình thức chém đầu.
* Điểm khác nhau:
- Pháp luật Lý - Trần
áp dụng 5 hình phạt chính không phân biệt người phạm tội là nam hay nữ điều như
nhau. Đến pháp luật Lê sơ thì sử dụng hình phạt suy giành cho nữ, và sử dụng
hình phạt trượng giành cho nam. (đối với nữ chỉ phạt đánh bằng roi chứ
không dùng hình phạt đánh bằng gậy như pháp luật Lý - Trần).
- Thời Lê sơ cũng có
5 hình phạt chính, nhưng qui định cụ thể hơn như:
Suy có 5 khung:
+ Khung1: Bắt người phạm tội làm người hầu, phục
vụ trong quân đội, làng xã, trồng dâu nuôi tầm. Kèm theo hình phạt phu: Nam 80
trượng, nữ 60 roi.
+ Khung 2: bắt người
phạm tội làm ở chuồng voi, nhà bếp. Kèm hình phạt phụ: Nam 80 trượng, Nữ: 60
roi, thích 2 chữ vào mặt.
+ Khung 3: bắt người
phạm tội làm ruộng, xay lúa. Kèm hình phạt phụ: Nam 80 trượng, nữ 60 roi, thích
4 chữ vào cổ.
Đồ có 3 khung.
+ Khung 1: Lưu cận
châu;
+ Khung 2: Lưu ngoại
châu;
+ Khung 3: Lưu viễn
châu.
Tử có 3 khung.
+ Khung 1: Giảo (treo
cổ người phạm tội).
+ Khung 2: Trảm (chém
đầu người phạm tội, bêu đầu nơi công cộng).
+ Khung 3: lăng trì
(dùng dao xẻo thịt người phạm tội cho đến chết).
- Trong 1 số hình
phạt cụ thể nhà Lê đã đưa ra 1 số hình phạt bổ sung như:
+ Tội phạm về chức vụ
(hối lộ).
+ Tội cướp của giết
người.
+ Tội đấu ẩu (đánh
nhau).
+ Tội phạm về tình
dục.
+ Tội phạm về quân sự.
- Hinh phạt phụ: Đây
là hình phạt phụ đi kèm với hình phạt chính như giáng cấp bảy chức, chặt chân
tay, bắt vợ con làm nô tì cho người khác, thích chữ vào mặt.
Ngoài những điểm trên
ra, pháp luật thời Lê Sơ có những yếu tố tích cực nhất định như: Nhấn mạnh tầm
quan trọng của việc bảo vệ an ninh quốc gia, đồng thời còn bổ sung những qui định nhằm hạn chế sự sách nhiểu của
quan lại. Khuyến khích và bảo vệ sản xuất nông nghiệp. Chú ý tới quyền lợi của
phụ nữ và những người cô quả, goá phụ. Đề cao một số tiêu chuẩn đạo đức của con
người mà những tiêu chuẩn này mang tính nhân đạo, tính dân tộc.
*
--------------------* --------- *--------------------
Câu
7: Sự giống và khác nhau
về bộ máy Nhà nước của các triều đại Lý, Trần, Hậu Lê.
Trả lời
* Bộ máy
nhà nước thời Lý:
Được thiết lập từ trung
ương đến địa phương và tập trung quyền hành vào tay triều đình, đứng đầu là vua
và nhà vua cũng quy định phẩm trật các hàng quan văn, võ đều có 9 bậc. Những
chức quan cao cấp nhất trong triều đình được chia làm hai ngạch:
- Ngạch văn: Gồm có
Tam thái (thái sư, thái phó, thái bảo) và tam thiếu (thiếu sư, thiếu phó và
thiếu bảo).
- Ngạch võ: gốm có
Thái úy, thiếu úy và một số chức vị khác
Lúc đầu tam thái, tam
thiếu không giữ chức làm việc, sau này mới được trao quyền hành.
Dưới quan văn, võ còn
có các thượng thư đứng đầu các bộ, ngoài ra còn có các chức quan khác như: tả
và hữu tham tri, tả và hữu giám nghị, trung thư thị lang, bộ thị lang, tả và
hữu ty lang trung, tả và hửu phúc tâm, nội thường thị, phủ sĩ sư điện học sĩ,
hàn lâm điện học sĩ...
Quan võ ở triều đình
có các chức: đô thống, nguyên soái, tổng quản, khu mật sứ, tả và hữu kim ngô...
Chức quan nắm quyền
lực cao nhất trong triều là tể tướng được gọi là tướng công dưới thời Lý Thái
Tổ, Phụ quốc thái úy dưới thời Thái tông và Nhân tông có gia phong phẩm trật là
“bình chương quân quốc trọng sự”.
Ở địa phương cũng đặt
các quan văn, võ, ở xã thì có xã quan. Hiện nay chúng ta chưa có điều kiện xác
định được quyền hạn, nhiệm, vụ của từng chức quan trên nhưng nhìn chung tổ chức
bộ máy này có nhiều điểm phỏng theo quan chế thời nhà Tống, tuy nhiên có giản
lược hơn.
Trong bộ máy chính
quyền thời Lý, tầng lớp quý tộc bao gồm những người thân thuộc của nhà vua và
một số công thần nắm giữ các trọng trách ở trung ương và địa phương, các hoàng
tử được phong tước vương và cử đi trấn trị ở các nơi trọng yếu.
* Bộ máy
nhà nước thời Trần:
Được xác định trên cơ
sở của bộ máy nhà nước đời Lý nhưng hoàn thiện và phát triển hơn. Ở Trung ương
bên cạnh các cơ quan, các chức quan đã có ở đời Lý thì nhà Trần đặt thêm một số
chức quan, cơ quan mới mang tính chuyên trách.
Ví dụ: Nhà Trần đã
cho ra đời chức quan gọi là tư mà người ta thường gọi là tam tư đó là:
- Tư đồ: Viên quan
trông coi về ngoại giao, văn hóa, lễ nghi.
- Tư mã: Viên quan
trông coi về ANQP
- Tư không: đảm trách
những công việc còn lại ở trung ương.
Về phía cơ quan thì
nhà Trần đặt tên một loạt cơ quan chuyên trách mới đó là các quán - cục - viện
- sảnh - đài:
- Ngự sử đài là cơ
quan chuyên trông coi, giám sát, kiểm tra các công việc ở trong triều.
- Hàn lâm viện: đây
là cơ quan chuyên trách soạn thảo các loại văn bản cho nhà vua nhưng nhà Trần
đặc biệt chú ý tới các quan mang tính tư pháp.
Đời Trần hệ thống cơ
quan tư pháp được hình thành và phát triển bao gồm: thẩm hình viện, tam ty
viện, bình bạc ty.
- Thẩm hình viện: là
cơ quan xét xử cao nhất chuyên xét xử các trọng án, xử phúc thẩm và xét xử lại
những bản án do tam ty viện đã xét xử.
- Tam ty viện: Có
chức năng xem xét các vụ kiện tụng ở trong nước, giám sát việc thi hành pháp
luật của quan lại và người giữ nước; xem xét và đề nghị vua sửa đổi luật.
- Bình bạc ty: Cơ
quan chuyên xem xét các vụ kiện tụng.
Tóm lại bộ máy nhà
nước ở trung ương thời Trần so với đời Lý cao hơn, hệ thống cơ quan chuyên môn
được chú ý và xác lập, bước đầu đã hình thành nên hệ thống cơ quan tư pháp.
Ở địa phương: Nhà Trần
đã đổi các đơn vị hành chính của đời Lý từ 24 lộ thành 12 lộ. Mỗi lộ nhà Trần
đặt ra 2 viên quan: 1 trông coi về tư pháp, 1 trông coi về hành chính. Bên cạnh
2 viên quan cơ bản này nhà Trần còn đặt thêm 1 viên quan trông coi về quân đội.
*
Điểm giống nhau của bộ máy nhà nước thời Lý và thời Trần: Cả hai bộ máy đều là chính thể quân chủ trung ương tập quyền mang tính quý
tộc. Các chức vụ chủ chốt do những người trong dòng
tộc nắm giữ. Trong triều đình, Tể tướng là người đứng đầu đội ngũ quan lại.
*
Điểm khác nhau: Thời Trần
duy trì chế độ chính trị lưỡng đầu. Vua nhường ngôi cho con để lên làm Thái
thượng hoàng nhiếp chính hướng dẫn vua trẻ các công việc triều chính. Lưỡng đầu
có Thái thượng hoàng kiểm soát và chia sẻ quyền lực với vua.
Việc
tồn tại chế độ chính trị lưỡng
đầu thời Trần do chính thể tập quyền mang tính quý tộc, cần chế độ lưỡng đầu để tập trung quyền lực tập thể
dòng họ. Do quân quyền Nho giáo một vua có quyền lực tuyệt đối chưa đỉnh điểm
nên lưỡng đầu là phương pháp tối ưu để tạo quyền lực nhà nước được quản lý bởi
những người trong họ tộc. Còn thời nhà nhà Lý, Thái Thượng Hoàng chỉ xuất hiện
rất ít trong những trường hợp đặc biệt như bị ép buộc để tước đoạt quyền lực
vua và không có quyền lực. Hay nói cách khác, có thái thượng hoàng nhưng không
phải lưỡng đầu.
* Điểm
giống và khác nhau về bộ máy nhà nước Lý - Trần và Lê sơ:
* Điểm giống:
- Bộ máy nhà nước
được thành lập từ trung
ương đến địa phương.
- Quyền lực tập trung
vào tay triều đình.
* Điểm khác:
- Đời Lý - Trần có
chức Tể tướng nắm quyền hành thay vua nhưng đối với thời Lê sơ đã nhận ra
khuyết điểm khi có chức Tể tướng cho nên đã bỏ chức tể tướng nhằm thâu tóm
quyền lực vào tay vua.
- Ở địa phương: Thời Lý
- Trần có chức xã quan nhưng nhà Lê sơ nhận thấy được hạn chế của xã quan cho
nên mới bỏ chức xã quan thay vào đó là chế định do nhân dân bầu để làm xã
trưởng.
*
--------------------* --------- *--------------------
Câu
8: Phương thức tuyển mộ
quan lại của các thời kỳ. Nhận xét về ưu khuyết của từng phương
thức.
Trả lời
* Phương thức tuyển mộ quan lại đời Lý:
-
Nhiệm tử: Nhà nước phong kiến cần có một đội ngũ quan lại đông
đão và có năng lực, nên chế độ tuyển bổ quan lại trong số con cháu của quý tộc
quan liêu thịnh hành dưới các triều đại Đinh, Lê và đầu Lý
gọi là chế độ nhiệm tử.
-
Thủ sĩ: Nhìn thấy được
điểm yếu của hình thức thủ sĩ cho nên đã dần dần kết hợp với chế độ tuyển dụng
thông qua thi cử gọi là thủ sĩ.
* Phương thức tuyển mộ quan lại thời
kỳ Trần:
Nhà Trần cũng sử dụng
các phương thức tuyển bổ như thời Lý nhưng đặc biệt coi trọng hình thức thủ sĩ.
Chính vì vậy những người được tuyển dụng theo hình thức này sẽ đảm nhận những
trọng trách quan trọng và cũng chính điều đó mà chế độ thi cử đời Trần phát
triển rất mạnh và nó được tổ chức thành lệ hàng năm mà nội dung thi là nho
giáo.
*
Phương thức tuyển mộ quan lại thời kỳ Lê sơ: Thời kỳ Lê sơ có 4 hình thức tuyển mộ quan lại:
1) Khoa
cử: Là qui trình hai bước học
và thi với các tiêu chuẩn sau
Một là, có trình độ
học vấn thể hiện trước và trong khi thi;
Hai là, có đạo đức tư cách trong suốt quá trình
học tập, lúc đi thi (những người đi thi đều phải trải qua thể lệ bảo kết và thi
khảo hạch tức là phải đủ tư cách) và khi làm quan;
Ba là, có năng lực làm việc trong thời gian tập
sự cũng như suốt quá trình làm quan.
Khoa cử thời Lê Thánh
Tông thực sự phát triển, trở thành hình mẫu tiêu biểu cho các triều đại sau
này. Khoa cử trở thành phương thức chủ yếu để tuyển lựa quan lại của nhà nước
từ triều đình đến địa phương. Những chức vụ thấp hơn, kể cả các thuộc lại ở bộ,
ty, viện đều phải qua thi cử. Việc tuyển chọn quan lại bằng con đường khoa cử
có ba ưu điểm lớn.
Thứ
nhất, tiêu chuẩn xét tuyển thống
nhất trong phạm vi cả nước và khách quan, công bằng, khuyến khích học tập.
Thứ
hai, những người tham gia thi
bình đẳng về cơ hội, không phân biệt thành phần, giàu nghèo, sang hèn hoặc tuổi
tác.
Thứ
ba, tạo sự kết hợp giữa học tập,
thi cử và tham chính, thúc đẩy xã hội coi trọng giáo dục, văn hóa và tài năng
cá nhân.
2) Tiến
cử: Là chọn người tài, đức
hơn hẳn từ trong nhân dân mà không căn cứ thân phận. Chế độ này cho phép một vị
quan được đề nghị đưa một người có tài nhưng vì nhiều nguyên nhân mà chưa có
điều kiện đi thi (hoặc thi không đỗ) được giữ một chức quan nào đó. Vào đầu
triều Lê Sơ, việc tiến cử và tự tiến cử rất được đề cao. Tiến cử người hiền tài
trở thành nhiệm vụ mà các quan từ tam phẩm trở lên phải thực hiện. Khi quan
tiến cử được người tài sẽ được thưởng theo mức độ tài, đức của người được tiến
cử. Người tiến cử phải lấy tước vị, phẩm hàm của mình để đảm bảo rằng người
được tiến cử là có tài, xứng đáng với chức vị được giao.
3)
Bảo cử: Là chọn
những quan lại có quá trình làm quan tốt, tài năng và có kinh nghiệm thực tiễn
quan trường để bổ sung vào những chức vị quan trọng đang khuyết ở Triều đình và
địa phương. Các trường hợp bảo cử cần phải tuân theo những thủ tục sau: Các
quan đứng đầu nha môn, có chức khuyết, giới thiệu người mình thấy xứng đáng với
chức đó lên Bộ Lại. Các quan ở Lại Khoa và Ngự sử đài phải ghi chép bản đề nghị
đó rõ ràng để sau này người được giới thiệu không xứng đáng thì sẽ trị tội
người giới thiệu. Sau đó, Bộ Lại sẽ xem xét và nếu chấp thuận thì tâu lên vua,
đợi chiếu chỉ của vua ban xuống, sẽ chuyển qua các quan chính đường tra xét
lại. Lại Khoa xét lần cuối cùng. Bộ Lại làm sắc mệnh cho viên quan được đề cử
ra làm việc. Cách thức này được áp dụng thường xuyên, trở thành nền nếp thời Lê
Thánh Tông và được kế tục ở các đời sau.
4) Nhiệm
tử (tập ấm): Là định lệ
của Triều đình dựa vào ân trạch của cha ông mà được bổ vào một chức quan nào
đó. Theo tinh thần “trọng thị công thần”, khi một nhân thân, nhờ tiêu chí “thân
huân” được tuyển dụng vào cương vị quan chức cao, thì con cháu người đó, nhờ
được tín nhiệm về mặt lý lịch, cũng được “tập ấm”, được phong “ấm tước” mà trở
thành quan chức. Trường hợp viên quan nào có quyền tập ấm mà lại không có con
trai thì được phép nuôi một người con của họ hàng thân thích trong họ làm thừa
kế để hưởng tập ấm. Lê Thánh Tông thực hiện rất ít chế độ tập ấm, chủ yếu vào
những năm mới lên ngôi.
*
--------------------* --------- *--------------------
Câu
9: Tại sao nói bộ máy nhà
nước thời kỳ Lê sơ đã phát triển tới mức hoàn thiện nhất.
Trả lời
Bởi vì dưới thời vua
Lê Thánh Tông, bộ máy nhà nước đã được xây dựng một cách chặt chẽ từ trung ương
đến địa phương, nhà Hậu Lê đã quy định rõ chức tước, phẩm hạng; nhiệm vụ của
các cơ quan và các chức quan. Nhà Lê cho ra đời cuốn “Đạo dụ”, cuốn sách này
được xuất bản năm 1471, ở đây nhà Lê đã quy định phẩm hạng của quan lại được
chia làm 24 bậc, trong 24 bậc đó có các tước phẩm cụ thể.
1/ Bộ máy nhà nước ở Trung ương:
- Vua nắm cả 3 quyền
nhưng nó khác với Lý - Trần là nhà Hậu Lê
đã xóa đi chức tể tướng, để nhà vua là người điều hành trực tiếp nhằm thu hút
tất cả quyền lực vào tay vua. Dưới vua còn có các quan văn, quan võ và các cơ
quan chuyên môn.
- Quan văn: gồm có 6
bộ, 6 khoa và 6 tự:
6 bộ:
+ Bộ binh: là bộ
trông coi về quân đội.
+ Bộ hình: trông coi
về xét xử
+ Bộ lại: trông coi
về mặt giấy tờ, văn bản.
+ Bộ lễ: trông coi về
mặt phép tắt, xã giao.
+ Bộ hộ: Trông coi về
mặt dân sự.
+ Bộ công: trông coi
về mặt đất đai.
6 khoa đi kèm với 6
bộ để kiểm tra, giám sát các hoạt động của 6 bộ.
6 tự bao gồm: Đại Lý
tự, thái thượng tự, Thái bộ tự, khoan lộ tự, hồng lân tự, thượng bảo tự. Nhiệm
vụ của 6 tự là làm những việc mà 6 khoa và 6 bộ chưa làm.
- Quan võ: Gồm tả đô
đốc và hữu đô đốc để điều khiển toàn bộ các hoạt động khi đất nước có chiến
tranh.
- Các cơ quan chuyên
môn:
+ Ngự sử đài: Đây là
cơ quan chuyên để vua quan bàn bạc về những vấn đề chính sự đương thời. Ngự sử
đài còn là nơi xét duyệt các bản án, những đơn thư khiếu nại tồn đọng và cũng
là nơi khiển trách, nhắc nhỡ các quan đầu triều.
+ Hàn lâm viện: là
nơi lưu giữ, soạn thảo những chiếu, biểu, chứng chỉ của nhà vua.
+ Quốc tử giám: Đây
là cơ quan đào tạo ra các sĩ tử, nhân tài cho đất nước, có thể nói rằng đây là
trường đại học đầu tiên của Việt Nam.
+ Quốc sử việt: Đây
là cơ quan viết sử.
Tóm lại bộ máy nhà
nước trung ương thời Hậu Lê đã thực thi một chế độ quân chủ tuyệt đối với bộ
máy hoàn thiện và các cơ quan phát triển.
2/ Bộ máy nhà nước ở địa phương:
Từ năm 1471 Lê Thánh
Tông đã chia đất nước thành 13 đạo, dưới đạo là phủ, dưới phủ là huyện, dưới
huyện là châu, dưới châu là xã.
- Đạo: Nhà Hậu Lê đã
học tập nhà Minh triệt để thực hiện việc phân chia quyền lực nhà nước ở địa
phương. Ở cấp đạo hình thành nên 3 cơ quan quyền lực:
+ Đô ty: là cơ quan
chỉ huy về quân sự.
+ Thừa ty: cơ quan quản
lý về hành chính.
+ Hiến ty: Cơ quan
phụ trách xét xử, kiện tụng, kiểm tra, giám sát tất cả các hoạt động trong đạo
để báo cáo với triều đình trung ương.
Trong 3 cơ quan trên
nhà Hậu Lê đặc biệc chú ý tới vai trò của Hiến ty. Vì vậy muốn bổ nhiệm quan
lại cho Hiến ty thì người đó phải là tiến sĩ và phải là người mang đức thanh
liêm.
Ở cấp đạo quyền lực
nhà nước được phân định rõ ràng, nó có 3 cơ quan riêng biệt được phát triển và
hoàn thiện hơn so với thời kỳ Lý - Trần.
- Xã: là cấp hành
chính nhỏ nhất nhưng lại rất quan trọng vì tất cả các chính sách của nhà nước
đều hoạt động thông qua cấp xã, sự cải cách được thể hiện ở chổ:
+ Xóa bỏ chế độ xã
quan do bổ nhiệm mà thay vào đó là chế độ xã trưởng do dân bầu.
+ Nhà Hậu Lê đã định
ra một số tiêu chuẩn cụ thể cho xã trưởng. Nếu muốn làm xã trưởng thì phải có
điều kiện như sau: 30 tuổi trở lên, phải là người gốc Đại Việt và phải biết
chữ.
+ Nhà Hậu Lê đã phân
đơn vị hành chính cấp xã thành 3 loại như sau:
. Tiểu xã: là những
xã có 100 hộ trở lên, nếu là xã ở vùng núi, hải đảo là 60 hộ trở lên.
. Trung xã: là những
xã có từ 300 hộ trở lên.
. Đại xã: Có 500 hộ
trở lên.
Nhà Hậu Lê cũng ban
hành thể lệ, điều kiện để tách xã cũ lập thêm xã mới đó là nếu tiểu xã phát
triển vượt quá quy định thì sẽ được chuyển thành Trung xã, nếu trung xã phát
triển thì chuyển thành đại xã. Như vậy có thể nói rằng nhà Hậu Lê đã xây dựng
được các đơn vị hành chính cơ sở phù hợp, tránh tình trạng chỉ có một loại
như thời phong kiến trước đó.
Tóm lại, so với thời
Lý - Trần - Hồ, thời kỳ này bộ máy nhà nước hoàn bị hơn hẳn. Sự hoàn bị và được
đánh giá cao trong tổ chức chính quyền thời kỳ này là bên cạnh việc phân công
chức năng, nhiệm vụ tương đối rõ ràng giữa các cơ quan còn có cả những thiết
chế giám sát, phản biện như Lục khoa và đặc biệt là cơ quan Ngự sử đài.
Nhiều nhà nghiên cứu
đánh giá cao tính chất hoàn bị của mô hình này không chỉ ở chỗ bộ máy thời kỳ
này có nhiều chức quan hơn, được chuyên môn hoá hơn so với thời kỳ trước mà
chính ở việc đã có sự xuất hiện của những thiết chế và cách thức giám sát quyền
lực, mặc dù tính chất, mức độ còn rất sơ khai.
*
--------------------* --------- *--------------------
Câu
10: Phân tích địa vị và
quyền lực của Nhà vua trong Nhà nước Phong kiến Việt Nam.
Trả lời
Trong gần chín thế kỷ
(939-1858), đất nước ta đã trải qua các triều đại như: Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý,
Trần, Hồ, Hậu lê, Mạc, Tây Sơn, Nguyễn… với rất nhiều các vị vua nổi tiếng như:
Tiền Ngô Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Hồ
Quý Ly, Lê Thánh Tông, Gia Long, Minh Mạng… Bên cạnh đó, cũng đã xuất hiện
không ít các vị vua hoang tàn, bạo ngược như Lê Uy Mục, Lê Tương Dực…
1) Địa vị của nhà
vua trong nhà nước Phong kiến Việt Nam:
Trong chế độ Phong
kiến, đặc biệt là quan điểm của Nho giáo, vua được coi là “Thiên Tử” (con
Trời). Về địa vị của nhà vua, thuyết "Mệnh Trời" (Thiên Mệnh) đã chỉ
rõ:
- Vua là người đại
diện cho Thượng đế (Trời) để cai trị dân, là người “thay Trời hành đạo”, đồng
thời cũng là người đại diện cho dân trước Thượng đế: Mọi ý chỉ, mệnh lệnh của
vua đều được cho là theo “Mệnh Trời” nên trong các chiếu chỉ thường có “Phụng
thiên thừa vận, hoàng đế chiếu viết…” hay như trong Bình Ngô Đại Cáo, câu đầu
tiên cũng khẳng định: “Thay Trời hành hoá, Hoàng thượng truyền rằng…”. Cũng
chính vì thể theo “Mệnh Trời” nên mệnh lệnh của vua phải tuyệt đối được phục
tùng và thực hiện như một điều tất yếu. Bên cạnh đó, các vị vua Phong kiến Việt
Nam cũng thường đại diện cho dân trước Thượng đế, thể hiện ở việc lập đàn tế
Trời, cầu xin mùa màng tươi tốt, mưa thuận gió hoà để người dân có cuộc sống ấm
no, hưng thịnh, thái bình…
- Địa vị và chức năng
làm vua là do Trời định sẵn cho người đó (Thiên Mệnh): Đây được coi như một “sự
uỷ nhiệm” của Trời. Nếu vị vua đó trở nên hoang tàn, bạo ngược, không thể chăm
sóc được cho người dân, thì Trời sẽ bãi bỏ sự uỷ nhiệm của mình và trao địa vị này
cho người khác phù hợp hơn thông qua con đường lật đổ vị vua cũ, nếu việc lật
đổ thành công thì sự uỷ nhiệm đó đã được trao cho người mới và ngược lại.
- Vua với địa vị của
mình chỉ đứng dưới một người là Trời, còn trên muôn người: Trong cả nước, quan
lại là bầy tôi của vua, nhân dân là thần dân của nhà vua. Vua là người đứng đầu
bách thần trong cả nước. Nước - quốc gia Phong kiến (Sơn hà xã tắc) không phải
là của nhân dân mà là của nhà vua.
Như vậy, địa vị của
nhà vua đã bao trùm lên toàn bộ đất nước. Và vị vua theo “Thiên Mệnh” sẽ phải
chăm sóc, đảm bảo sự thịnh vượng của mọi người dân trong xã hội.
2) Quyền lực của nhà vua:
a)
Nhà vua nắm vương quyền: Có thể
thấy, với một địa vị là “Thiên Tử”, đứng dưới một người mà trên vạn người, thì
nhà vua cũng chính là người nắm trong tay toàn bộ vương quyền của đất nước.
Những điều đó được thể hiện ở các điểm sau:
- Về
mặt lập pháp: nhà vua
chính là người duy nhất có quyền đặt ra pháp luật. Ý chí của nhà vua dưới mọi
hình thức đều trở thành pháp luật: Nếu là lời nói thì mệnh lệnh đó sẽ được sứ
giả truyền đi khắp nơi và thực thi (“Vua truyền rằng” hay “Vua ban rằng”), nếu
là bằng văn bản thì trở thành thánh chỉ, thánh ý…
- Về
mặt hành pháp: Nhà vua có
toàn quyền bổ nhiệm, thăng giáng, thưởng phạt, thuyên chuyển, quy định quyền
hạn, trách nhiệm, lương bổng đối với quan lại trong cả nước (Năm 971, Đinh Tiên
Hoàng phong cho Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân; Lê Thánh Tông bãi bỏ chức Đại
hành khiển). Như vậy, nhà vua chính là người đứng đầu nền hành chính quốc gia,
có quyền lực rất lớn.
- Về
mặt tư pháp: Nhà vua chính
là người giữ tài phán quyết cao nhất. Thế hiện ở việc vua là người có quyền
quyết định cuối cùng đối với bất cứ một vụ án nào. Các bản án vua đã xét xử (dù
là sơ thẩm hay phúc thẩm) đều không ai có quyền xét xử lại, không được thụ lý
các vụ án mà triều vua trước đã xử… Bên cạnh đó, vua là người duy nhất có quyền
đại xá hay đặc xá cho các can phạm.
-
Về mặt quân sự: Vua chính
là người đứng đầu quân đội, là Tổng tư lệnh quân đội, có quyền bổ nhiệm, bãi
miễn các chức trong bộ máy quân sự; ban hành các chính sách quân sự (nhà Lý -
chính sách Ngụ binh ư nông)
-
Về mặt ngoại giao: Nhà vua
là người đại diện hợp pháp duy nhất trong các quan hệ bang giao. Việc đón tiếp
hay cử các sứ thần đi bang giao, ký tên các hiệp ước… đều phải do nhà vua trực
tiếp hay cử người đi thực hiện, không một cá nhân hay cơ quan nào có quyền hành
thay thế được.
- Về
mặt kinh tế: Nhà vua là
người chủ sở hữu tối cao đối với ruộng đất công của các làng xã trong cả nước,
là người duy nhất được phép ban hành các chính sách kinh tế trong nước (nhà Lê
Sơ – chính sách Lộc điền, Quân điền)
b)
Nhà vua nắm thần quyền:
Ngoài vương quyền, với tư cách là con của Trời, nhà vua còn nắm trong tay cả
thần quyền, biểu hiện như
- Trong các lễ nghi
tôn giáo, nhà vua luôn là chủ tế. Chỉ duy nhất nhà vua mới có quyền tế Trời,
còn thần dân chỉ được thờ cúng tổ tiên mình và thần thánh, quỷ thần. Vì quyền
tế trời là đặc quyền của nhà vua nên trong lễ tế trời hàng năm người ta thường
gọi là tế Nam Giao, ngôi chủ tế lễ bao giờ cũng thuộc về vua.
- Nhà vua chính là
người đứng đầu bách thần trong cả nước, có quyền phong chức tước cho thần thánh
(bằng các sắc phong thần), điều động thần thánh (quy định nơi thờ cúng thần
thánh), khiển trách bằng cách thủ tiêu bằng sắc hoặc phá hủy đền thờ…
c) Nhà
vua có những đặc quyền riêng:
Với những địa vị và quyền lực lớn về vương quyền và thần quyền như trên, thì
nhà vua còn có thêm những đặc quyền, ưu quyền riêng cho mình như:
- Mọi người không
được phạm đến tên huý của vua và người thân thích của vua.
- Những gì thuộc về
nhà vua đều là cao quý, nên phải dùng những ngôn từ đặc biệt, các mỹ tự như:
Thánh ý, Long thể, Ngọc tỷ, Hoàng bào, Long sàn, Châu phê, Ngự bút…
- Màu vàng là màu y phục của
vua. Quan lại và thần dân cấm không được mặc quần áo màu vàng, trừ những người
được vua ban mặc sắc vàng, làm trái là bị tội khi quân. Từ thời Lý Cao Tông trở
đi, chỉ nhà vua mới được mặc áo sắc vàng thêu rồng và trâm cài búi tóc bằng
vàng.
- Nhà vua có quyền
được thần thánh hoá qua các sử quan, chịu trách nhiệm ghi chép. Như tương
truyền khi mới sinh ra, Lý Thái Tổ toả ra một ánh hào quang rực rỡ, ở hai lòng
bàn chân có hiện hai chữ “Vương”. Và sự ra đời của triều Lý đã được dự báo từ
trước bởi một bài thơ kỳ lạ xuất hiện dưới gốc cây bị sét đánh cũng như rất
nhiều các truyền thuyết dân gian khác về các vị vua như Đinh Bộ Lĩnh, Lê Thánh
Tông…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét