Thứ Sáu, 18 tháng 4, 2014

CÂU HỎI MÔN LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC & PHÁP LUẬT VIỆT NAM




CÂU HỎI MÔN LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC & PHÁP LUẬT VIỆT NAM

1. Nhận xét về thiết chế nhà nước và tình hình soạn thảo pháp luật triều Trần
2.Nhận xét về thiết chế nhà nước và tình hình soạn thảo pháp luật triều Lê (sơ)
3. Nhận xét về chương Điền sản trong bộ Lê triều hình luật (Luật Hồng Đức)

2.2. Nhà Trần (1226 – 1400).
* Sự ra đời của nhà Trần:
Vào cuối thế kỷ XII, từ đời vua Lý Cao Tông (lên ngôi khi mới 3 tuổi), không lo triều chính mà chỉ ăn chơi, phung phí vô độ, đẩy nhà Lý bước đầu bước vào thời kỳ suy thoái. Đến đời vua Lý Huệ Tông, tình hình suy thoái ngày càng nghiêm trọng, đất nước loạn lạc bởi các thế lực cát cứ ở địa phương, trong triều thì nhiều biến động, do đó buộc nhà Lý phải lệ thuộc vào các thế lực bên ngoài, nhất là họ Trần. Đến cuối năm 1225, dưới sự sắp xếp và quyết định của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng kết hôn với Trần Cảnh (Con thứ của Trần Thừa, cháu họ của Trần Thủ Độ), sau đó làm lễ nhường ngôi cho chồng. Trần Cảnh lên ngôi vào đầu năm 1226, trở thành vua Trần Thái Tông, mở ra một triều đại mới với một nhà nước mới – Nhà Trần.
Sự thay thế của nhà Trần đối với nhà Lý đã đáp ứng được yêu cầu của đất nước vào lúc đó. Bằng con đường hôn nhân, sự thay đổi triều đại này đã diễn ra một cách tương đối êm ả, hợp lòng quân dân và làm nên một triều đại với nhiều chiến công vẻ vang, xây dựng và phát triển đất nước trên nhiều lĩnh vực.    
* Bộ máy nhà nước:
Nhà Trần tiếp tục kế thừa nhà Lý trong việc xây dựng bộ máy theo thiết chế nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, nhưng có nhiều bổ sung, đổi mới quan trọng. Điểm mới và nổi bật nhất là chế độ “lưỡng đầu” (Vua – Thái thượng hoàng). Cơ chế này được lập ra ngày từ đầu và duy trì trong hầu hết thời gian tồn tại nhà Trần. Về danh nghĩa, Thái thương hoàng là cố vấn cho vua, nhưng trên thực tế thì Thái thượng hoàng lại là người quyết định hầu hết những vấn đề trọng đại của triều đình và đất nước, do đó có thể gọi đây là chế độ hai vua cùng trị vì đất nước. Việc thiết lập và duy trì cơ chế đó trong phần lớn thời gian tồn tại của vương triều này là cách thức để nhà Trần vừa bảo vệ sự cầm quyền của dòng họ mình, vừa ngăn chặn việc tranh giành ngôi vua giữa các hoàng tử, đồng thời còn là sự kèm cặp, hỗ trợ của vua cũ đối với vua mới, giúp vua mới điều hành đất nước được tốt hơn.
Dưới thời nhà Trần, các cơ quan hành chính và chuyên môn sớm được thiết lập, mở rộng và quản lý chặt chẽ hơn trước. Theo thể chế “lưỡng đầu”, bên cạnh kinh đô Thăng Long còn có phủ Thiên Trường, được xây dựng và bảo vệ gần như một kinh đô thứ hai. Đó là quê hương, là nơi ở của thượng hoàng.
Về bộ máy quan lại, dưới triều Trần thì được tổ chức quy củ và có hệ thống hơn triều Lý, gồm hai bộ phận: quan trong (ở trung ương) và quan ngoài (ở địa phương). Tầng lớp quý tộc, tôn thất phát triển hơn và thể hiện rõ vai trò của mình trong sự nghiệp giúp vua giữ nước. Các vương hầu nhà Trần, ngoài việc nắm giữ những chức vụ chủ chốt ở triều đình, còn được phân phong đi trấn trị các vùng trọng yếu. Vương hầu có quyền lực lớn ở vùng mình trấn trị. Họ còn được phân phong thái ấp có phủ đệ và được tồ chức đội quân riêng. Lúc bình thường họ sống ở phủ đệ, lúc hữu sự họ về kinh đô.
Ở triều đình, nhà Trần đặt thêm nhiều cơ quan chuyên trách mới, đó là:
- Hệ thống các cơ quan tư pháp như: Thẩm hình viện (xét xử), Tam ty viện (Kiểm sát), Bình bạc ty (coi việc kiện tụng) và Ngự sử đài (giám sát quan lại và can gián vua);
- Quốc sử viện: Lo việc chép sử;
- Thái y viện: Lo việc trông coi sức khỏe;
- Quốc học viện: Lo việc học hành;
- Tư thiên giám: Lo việc thiên văn, làm lịch;
- Quốc tử giám: Trường học lớn nhất nước.
Về quan chế, Tướng quốc là người đứng đầu bá quan văn võ. Ở triều đình trung ương có các chức Tam thái, Tam thiếu (sư, phó, bảo) giống như thời Lý, ngoài ra bổ sung thêm ba chức quan mới được gọi là Tam tư: Tư đồ phụ trách ngoại giao, văn hóa; Tư mã phụ trách chinh phạt và Tư không phụ trách các mặt còn lại.
Ở ban võ, đứng đầu là các quan đại thần bao gồm: Thái úy, Thiếu úy và Bình chương sự, tiếp dưới là quan lại ở các bộ do quan Thượng thư đứng đầu và các chức võ quan khác Thị lang, Lang trung… Về ngạch võ, điểm khác hơn thời Lý là có các chức Phiêu kỵ thượng tướng quân (dành riêng cho hoàng tử), Tiết chế tướng quân. Các chức vụ quan trọng trong triều lúc đầu phần lớn là do các quý tộc tông thất nắm giữ, sau do nhu cầu chuyển dần sang giới quan liêu.
Ở cấp địa phương, có các chức An phủ chánh sứ và An phủ phó sứ; đứng đầu phủ là tri phủ, trấn phủ sứ. Đứng đầu châu là Chuyển vận sứ, Thông phán. Đứng đầu huyện là Lệnh úy; ở xã là đội ngũ xã quan (đại, tiểu tư xã, xã chính). Ngoài ra còn có các chức võ quan trông coi quân đội ở địa phương như: Quan sát sứ, Kinh lược sứ, Phòng ngự sứ và các chức quan trông coi về kinh tế như: “Hà đê phó chánh sứ” chuyên trách việc đê điều, “Đồn điền chánh phó sứ” chuyên trách quản lý đồn điền cùng một số chức quan trông coi về giáo dục ở lộ, phủ.v.v.
Bên cạnh bộ máy quan lại như trên, nhà Trần vẫn tiếp tục duy trì hệ thống “tăng quan” như thời nhà Lý với các chức đứng đầu là Quốc sư, Tăng thống, Tăng lục.v.v.
Nhìn chung, so với bộ máy quan lại nhà Lý thì nhà Trần có sự bổ sung và mở rộng hơn cả ở trung ương và địa phương. Các chức vụ và nhiệm vụ được gắn chặt, quy định rõ ràng, cụ thể hơn. Bộ máy này vừa thực hiện sự kế thừa, vừa có sự sáng tạo, đáp ứng được yêu cầu đất nước trong thời kỳ mới, đó chính là bước tiến quan trọng của nhà nước thời Trần.
* Việc điều hành đất nước:
- Về phân chia địa giới hành chính: Sau khi thành lập, nhà Trần thực hiện cải tổ hành chính, chia cả nước thành 12 lộ, hai trại và đặt thêm năm phủ, sáu châu.
- Về sử dụng, tuyển chọn quan lại: Trong sử dụng quan lại thì nhà Trần có điểm khác hơn nhà Lý là dành nhiều quyền lợi cho quan lại thông qua chế độ lương bổng; các quan lại thuộc tầng lớp quý tộc được ban cấp đất đai để lập thái ấp, được khai khẩn để lập điền trang.
Trong tuyển chọn quan lại, nhà Trần tiếp tục kế thừa và phát triển hơn thời Lý. Kế thừa ở chỗ ban đầu cũng dành những vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước cho những người thuộc dòng dõi quý tộc và các công thần (quân chủ quý tộc). Nhưng mặt khác, ngay buổi đầu thành lập, năm 1227 nhà Trần đã mở khoa thi Tam giáo (Nho, Phật, Đạo); thi Thái học sinh (tiến sĩ) vào năm 1232 và đã chọn tam khôi với học vị trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa vào năm 1247. Nhà Trần cũng đã định ra lệ khảo duyệt (khảo khóa) các quan theo định kỳ. Qua đó cho thấy, ở thời Trần, việc tuyển chọn quan lại bằng con đường khoa cử giữ vị trí hết sức quan trọng, công tác khoa cử tuyển chọn người thực tài đã ngày càng nâng cao vai trò của tầng lớp nho sĩ quan liêu trong bộ máy chính trị thời Trần từ số lượng khiêm tốn lúc đầu, sau càng gia tăng trong những triều đại kế tiếp. Điều đó đã nói lên xu thế phát triển của nhà nước thời Trần là từ nhà nước quân chủ quý tộc chuyển sang nhà nước quân chủ quan liêu.
- Về tổ chức quân đội: Quân đội thời Trần cũng bao gồm quân cấm vệ và quân các lộ với nhiều binh chủng (bộ binh, thủy binh, kỵ binh, tượng binh…) giống như thời nhà Lý. Điểm khác hơn chính là lực lượng quân đội riêng của vương hầu, quý tộc và các thủ lĩnh dân tộc thiểu số, khi đất nước bị xâm lăng thì các đạo quân hợp lực cùng nhau đánh giặc.
Về xây dựng lực lượng quân đội, nhà Trần tiếp tục áp dụng chính sách “ngụ binh ư nông” của thời Lý, đồng thời chủ trương “binh cốt tinh không cốt nhiều”. Do đó nhà Trần rất coi trọng việc rèn luyện võ nghệ cho binh sĩ, lập ra “Giảng võ đường” để đào tạo quan võ, tướng lĩnh, chú trọng xây dựng kỷ cương quân đội. Nhờ đó thời nhà Trần có lực lượng quân đội rất hùng mạnh, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ vương triều và đất nước.
- Về kinh tế: Nhà Trần tiếp tục chú trọng phát triển liên hoàn các chính sách về nông nghiệp, bao gồm: sở hữu tư nhân về ruộng đất, tổ chức khai hoang, trị thủy - thủy lợi, bảo vệ sức kéo, ngụ binh ư nông, ban cấp thái ấp, mở rộng mạng lưới giao thông đường bộ, đường thủy. Triều đình đã lập ra Ty Khuyến nông, đặt các chức quan Hà đê chánh phó sứ, hàng năm, mọi người đều có nghĩa vụ lao động tu sửa đê, học sinh Quốc Tử Giám cũng không được miễn trừ.
Nhìn chung, dưới triều Trần, một thế cân bằng ổn định về kinh tế đã được duy trì giữa các yếu tố công hữu và tư hữu, giữa nông nghiệp và nền kinh tế hàng hóa, giữa quyền lực, lợi ích của Nhà nước, (quyền sở hữu ruộng đất Nhà nước, nguồn tô thuế) với các đẳng cấp quý tộc quan liêu (thái ấp điền trang) cũng như của khối bình dân làng xã (ruộng công).
- Về xây dựng pháp luật: Kế thừa nhà Lý, thời Trần cũng tồn tại song song hai hình thức pháp luật: luật thành văn do Nhà nước ban hành và luật tục trong các làng xã. Tuy nhiên nhà Trần rất quan tâm đến việc xây dựng pháp luật của vương triều, biểu hiện qua việc đã cho biên soạn và ban hành nhiều bộ luật như:
- Quốc triều thông chế (1230);
- Quốc triều thường lễ (1230);
- Hoàng triều ngọc điệp (1267);
- Công văn cách thức (1290);
- Hoàng triều đại điển (1341);
- Hình thư (1341). Đây là bộ luật được Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn khảo đính bộ Hình thư thời Lý và trở thành bộ luật cơ bản của vương triều.
Nhìn chung, pháp luật đời Trần bảo vệ nghiêm ngặt chính thể quân chủ và chế độ đẳng cấp. Tội mưu phản Triều đình bị xếp vào hàng đại nghịch và bị trừng trị rất nặng “phải giết hết thân tộc”. Đẳng cấp quý tộc quan liêu được pháp luật ưu đãi, có quyền dùng tiền chuộc tội. Gia nô và nô tì không được quyền tố cáo chủ. Trong gia đình, cấm cha con, vợ chồng và gia nô không được kiện cáo nhau.
 Pháp luật đời Trần cũng đã bảo vệ quyền tư hữu tài sản của người dân. Tội trộm cắp bị trừng trị rất nặng, thích chữ vào mặt, chặt ngón chân, lần thứ ba sẽ bị giết. Những đồ vật lấy trộm một phần sẽ phải đền 9 phần, nếu không đền được bắt vợ con sung làm nô tì.
Trong các làng xã, dân chúng vẫn tuân theo các phong tục cổ truyền, các bô lão giữ vai trò dàn xếp và xét xử.
- Về đối nội: Nhận thấy được những khiếm khuyết của các triều đại trước, nên sau khi thành lập, nhà Trần đã ra sức củng cố bộ máy nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, xây dựng hệ thống bộ máy nhà nước gồm bốn cấp từ trung ương đến địa phương một cách chặt chẽ. Đây là một bước phát triển vượt bậc trong lịch sử và phản ánh cho thấy nhà nước thời này đã đặc biệt quan tâm trực tiếp với tay quản lý đến cấp cơ sở, đưa hương - giáp - xã vào nền nếp, khuôn khổ, vận hành theo qũy đạo chung của quốc gia phong kiến quân chủ trung ương tập quyền. Việc làm này hẳn không ngoài mục đích quản lý có hiệu lực vì lợi ích của đội ngũ cầm quyền đồng thời còn để sát dân, gần dân, động viên huy động toàn dân dựng nước, giữ nước có kết quả. Vai trò của hương, giáp, xã trong kháng chiến chống giặc Tống vào thế kỷ XI và ba lần chống giặc Nguyên Mông vào thế kỷ XIII đã chứng minh rõ điều đó.
- Về đối ngoại: Nhà Trần tiếp tục chính sách của nhà Lý trong việc giữ yên biên cương, bảo toàn lãnh thổ. Tuy có sự việc xảy ra năm 1252, quân Chămpa cướp bóc vùng ven biển phía nam Đại Việt đã bị quân Việt, dưới sự chỉ huy của vua Trần Thái Tông, tiến quân vào đánh bại, nhưng nổi bật lên vẫn là quan hệ hoà hiếu rất tốt đẹp giữa nhà Trần với vương triều Indravarman IV của Chămpa, nhất là trong và sau cuộc phối hợp kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược. Trong quan hệ ngoại giao với Mông Cổ, nhà Trần tỏ thái độ rất kiên quyết tìm mọi cách để giữ vững độc lập, tự chủ, mặc dù vẫn chịu nộp cống cho chúng theo lệ thường từ trước với nhà Tống, làm cho nhà Nguyên phải kính nể. Khi quân Mông - Nguyên xâm lược nước ta, nhà Trần đã lãnh đạo cả nước đứng lên đánh thắng chúng, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền và độc lập của đất nước.
* Vai trò của nhà nước thời Trần:
Giống như nhà nước phong kiến thời Lý, nhà nước thời Trần cũng là một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền phương Đông. Tuy nhiên do áp dụng chế độ “lưỡng đầu”, nên mặc dù trên danh nghĩa thì nhà vua là người đứng đầu đất nước, nhưng quyền hành thực tế lại nằm trong tay Thái thượng hoàng. Các vua Trần tự coi là cha mẹ của dân, thi hành một chính sách thân dân kiểu gia trưởng, kết hợp với tư tưởng nhân từ bác ái của đạo Phật. Thời bình, các vua Trần thường xuyên thăm hỏi việc đắp đê, gặt hái, trong các dịp hội hè đã xuống dự cùng dân chúng. Khi đất nước có họa xâm lăng, Vua – Thái thượng hoàng là người có quyền quyết định trong việc tổ chức và phát động chiến tranh, hoặc xuống chiếu huy động quân đội trong nước. Khi có chiến tranh, vua hoặc các hoàng tử thường trực tiếp “tự làm tướng” cầm quân đi đánh giặc.



2.3. Nhà Lê Sơ.
* Sự ra đời của nhà Lê Sơ:
Năm 1406, lấy cớ nhà Hồ cướp ngôi của nhà Trần, nhà Minh đưa quân sang xâm chiếm nước ta. Chỉ sau sáu tháng, do đường lối chiến lược và chiến thuật sai lầm, cuộc kháng chiến của nhà Hồ đã bị thất bại, từ đó nước ta rơi vào ách đô hộ tàn bạo của phong kiến nhà Minh trong 20 năm (1407-1427).
Tháng 7 năm 1407, vua Minh ra chiếu đổi nước ta thành quận Giao Chỉ, sát nhập vào Trung Quốc, đồng thời, các quan lại nhà Minh còn ráo riết thi hành chính sách ngu dân, đồng hoá dân tộc, triệt để cướp bóc, vơ vét của cải, nhân dân ta bị cưỡng bức đi khai thác vàng, bạc, mò ngọc trai dưới biển, khai thác lâm thổ sản, các hương liệu quý, đi lao dịch, nhiều người còn bị bắt làm nô tỳ, hoặc bị bắt đưa về Trung Quốc, phục dịch bọn quan lại nhà Minh.
Chính sách thống trị tàn bạo của nhà Minh đã vấp phải sự kháng cự của nhân dân ta. Nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra và đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Trải qua 10 năm (1418 – 1427) gian khổ đấu tranh, nghĩa quân Lam Sơn đã đánh đuổi được quân Minh, khôi phục nền độc lập của đất nước, mở ra một triều đại mới đó là triều Hậu Lê mà thời kỳ đầu là Lê Sơ, một thời kỳ đỉnh cao trong lịch sử phát triển Nhà nước và Pháp luật Việt Nam.
* Bộ máy nhà nước:
Nhà nước Lê Sơ thời kỳ này được xây dựng theo thiết chế quân chủ trung ương tập quyền. Quyền lực nhà nước tập trung vào triều đình trung ương, đứng đầu là vua. Vua nắm trong tay mọi quyền lực bao gồm cả kinh tế, chính trị, văn hóa, cả vương quyền và thần quyền. Thời Lê Thánh Tông, chức Tướng quốc (Tể tướng) đầu triều và một số chức danh đại thần khác đã bị bãi bỏ. Hoàng đế trực tiếp điều khiển triều đình. Quyền lực của các quý tộc tôn thất cũng bị hạn chế, không được lập quân vương hầu, phủ đệ, Lê Thánh Tông bỏ lệ ban Quốc tính.
Về phẩm trật trong triều, dưới vua là các quan chức cao cấp dành riêng cho các tôn thất và các đại công thần. Đứng đầu quan lại trong triều là Tả, Hữu tướng quốc (tương đương chức Tể tướng), tiếp đó là các đại thần ban văn gồm Tam thái (sư, phó, bảo), Tam thiếu (sư, phó, bảo), Tam tư (đồ, mã, không). Đại thần ban võ gồm Thái úy, Thiếu úy và Bình chương sự. Đội ngũ quan lại trong triều cũng được chia thành hai ngạch văn và võ. Đứng đầu ngạch văn là chức Đại hành khiển, tiếp là chức Thượng thư đứng đầu các bộ (ban đầu chỉ có hai bộ là bộ lại và bộ lễ. Sau là 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công). Ở các bộ vẫn là các chức quan như: Tham tri, Gián nghị, Thị lang, Lang trung .v.v. Những cơ quan chuyên môn trong triều gồm có các đài, các viện, giám, sảnh như Ngự sử đài, Hàn lâm viện, Quốc tử giám, Nội thị sảnh ... Đứng đầu ngạch quan võ là Đại tổng quản hay Đại đô đốc tổng quản (tổng chỉ huy quân đội). Tiếp đó là các chức võ quan cao cấp như thời Lý, Trần.
Nói tóm lại, qua các triều đại thời Lê sơ, các đời vua đều quan tâm và cố gắng thực hiện là kiện toàn bộ máy nhà nước quân chủ tập trung. Đến thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497), nó đạt tới đỉnh cao, trở thành một nhà nước toàn trị, cực quyền, mang tính quan liêu chuyên chế. Đây là một bước ngoặt lịch sử, một sự chuyển đổi mô hình, từ nền quân chủ quý tộc thời Lý - Trần mang đậm tính Phật giáo màu sắc Đông Nam Á sang một nền quân chủ quan liêu Nho giáo Đông Á.
* Việc điều hành đất nước:
- Về phân chia địa giới hành chính:
Năm 1427, khi còn bao vây quân Minh ở Đông Quan, Lê Lợi đã bước đầu xây dựng hệ thống chính quyền và phân chia các khu vực hành chính trong nước, Vùng Bắc bộ được chia thành 4 đạo Đông, Tây, Nam, Bắc. Dưới các đạo là trấn, châu, huyện.
Sau khi đánh đuổi được quân Minh, nhà Hậu Lê chia cả nước thành 5 đạo gồm 4 đạo cũ ở Bắc bộ và một đạo mới Hải Tây. Dưới đạo là các trấn, lộ rồi đến phủ, huyện, châu và cuối cùng là xã.
Năm 1466, nhà Hậu Lê phân chia lại đơn vị hành chính. Theo đó, cả nước được chia thành 12 đạo, dưới đạo là phủ, châu, huyện, xã. Đến năm 1471, khi lãnh thổ Đại Việt được mở rộng đến Bình Định, nhà nước đã cho đặt thêm đạo thứ 13 là Quảng Nam gồm 4 phủ, 9 huyện. Bộ máy cai quản ở các đạo tăng từ 2 ty lên thành 3 ty nhằm phân chia quyền hạn giữa các lĩnh vực binh, chính, hình nhằm thu hẹp, hạn chế bớt quyền hạn của quan lại ở địa phương, ngăn chặn khuynh hướng phân tán, cát cứ.
- Về sử dụng, tuyển chọn quan lại:
+ Trong vấn đề sử dụng quan lại, nhà nước thời Lê Sơ rất coi trọng việc đánh giá đúng nỗ lực và phẩm chất của từng quan lại. Cứ 3 năm một lần, nhà nước tổ chức sơ khảo; sau 3 lần sơ khảo thì tiến hành chung khảo. Kết quả các kỳ thi sơ khảo, chung khảo là cơ sở để thăng hoặc giáng chức, thuyên chuyển quan lại. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông ra chiếu dụ “Hiệu định quan chế” quy định rõ ràng công việc và trách nhiệm của các chức quan từ trung ương cho đến địa phương, cấp xã quan cũng phải đạt tiêu chuẩn là hạng giám sinh, tư đồ hay “lương gia tử đệ”, trên 30 tuổi, phải biết chữ và có hạnh kiểm tốt. Quan lại được hưởng đặc quyền, đặc lợi so nhà nước quy định, đồng thời còn có quy định riêng về trang phục, nhà cửa cho các hạng quan mà dân không được áp dụng.
+ Trong tuyển chọn quan lại, thời Lê Sơ nói chung và đặc biệt là thời vua Lê Thánh Tông, việc tuyển chọn quan lại được thực hiện chủ yếu thông qua con đường thi cử. Từ năm 1442, nhà nước đã quy định về việc thi tiến sĩ và chủ trương khắc tên những người thi đậu tiến sĩ vào bia đá đặt tại Quốc tử giám. Đến đời vua Lê Thánh Tông, chế độ giáo dục và khoa cử theo Nho giáo đã phát triển tới mức cực thịnh với ba kỳ thi Hương, Hội, Đình, mở rộng đối tượng dự thi (trừ người phạm tội và người ca hát). Ngoài những kỳ thi trên, nhà nước còn tổ chức những kỳ thi chọn nhân viên với môn thi viết chữ và làm tính. Với cách thức tuyển chọn như vậy, nhà nước Lê Sơ đã thực sự mang tính chất nhà nước quân chủ quan liêu, lấy Nho giáo làm nền tảng tư tưởng . Ngoài ra, nhà nước Lê Sơ còn có các công thức tuyển chọn quan lại khác như: Bảo cử (đề cử người có nỗ lực lên bộ lại để tâu vua xin bổ dụng), nhiệm tử (sử dụng con cháu quan lại có công).
- Về tổ chức quân đội: Quân đội thời Lê Sơ gồm thân binh (quân trong thành) và ngoại binh (quân ở các địa phương). Quân các đạo ở địa phương được chia thành vệ, ty, đội và tiếp tục thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông” như thời Lý – Trần. Thời vua Lê Thánh Tông, nhà vua trực tiếp chỉ huy quân đội và quy định chế độ tuyển binh rất chặt chẽ.
Việc luyện tập quân đội được quy chế hóa theo từng bình chủng và khảo hạch quân sĩ theo thời hạn 3 năm một lần. Nhờ sự luyện tập và kỷ luật chặt chẽ nên quân đội thời Lê Sơ rất mạnh, là công cụ bảo vệ vững chắc biên cương và mở rộng lãnh thổ.
- Về kinh tế: Nhà nước Lê sơ là một Nhà nước trọng nông, đã đề ra nhiều biện pháp để khuyến khích và phát triển nông nghiệp.Việc chăm sóc, đào đắp kênh đê rất được chú trọng. đặt ra các chức quan Khuyến nông và Hà đê. Khi khẩn cấp đã huy động cả học sinh Quốc Tử Giám trong việc hộ đê. Để bảo đảm sản xuất, các vua Lê đã cho thi hành chính sách “ngụ binh ư nông”, cho quân đội thay phiên về làm ruộng, theo tinh thần “tĩnh vi nông. động vi binh”. Luật pháp nghiêm cấm việc giết trâu, bò sống để bảo vệ sức kéo. Khi huy động công việc lao dịch, các quan sở tại phải tránh thời vụ, để không làm kinh động sức dân.
Hoạt động thương nghiệp chủ yếu ở thời Lê sơ là nền buôn bán nhỏ thông qua mạng lưới chợ ở nông thôn và thành thị. Nhà Lê đã ban hành lệ lập chợ, khẳng định “trong dân gian hễ có dân là có chợ, để lưu thông hàng hoá”. Đối với thủ công nghiệp thì nhà nước Lê sơ một mặt dung dưỡng nền sản xuất nhỏ thủ công nghiệp trong các làng xã, mặt khác đẩy manh hoạt động của các quan xưởng thuộc thủ công nghiệp Nhà nước. Ở nông thôn, đã xuất hiện nhiều làng chuyên nghề như Bát Tràng (gốm sứ), Huê Cầu (nhuộm thâm). Riêng việc buôn bán với nước ngoài, Nhà nước đã kiểm soát nghiêm ngặt các cáng khẩu, như Vân Đồn, Vạn Ninh, (Quảng Ninh), Càn Hải, Hội Thống (Nghệ An), cấm dân chúng tự tiện buôn bán trao đổi hàng hóa với các tàu buôn ngoại quốc, thi hành chính sách “bế quan toả cảng”.
- Về xây dựng pháp luật: Các hoạt động lập pháp thời Lê Sơ được đẩy mạnh để đáp ứng các yêu cầu mọi mặt của xã hội Đại Việt thời kỳ này. Quá trình xây dựng hệ thống pháp luật được bắt đầu từ thời vua Lê Thái Tổ với các quy định về ruộng đất, kiện tụng và hình phạt. Đời vua Lê Thái Tông nêu ra nguyên tắc xét xử các vụ kiện. Đời vùa Lê Nhân tông đưa ra quy định công nhận và bảo vệ ruộng đất tư, đỉnh cao là đời vua Lê Thánh Tông với nhiều bộ luật ban hành, trong đó có bộ luật cơ bản của nhà nước thời Lê Sơ là “Quốc triều hình luật” hay còn gọi là “Lê triều hình luật”, “Luật Hồng Đức”. Đánh giá về bộ luật này, trong “Lịch triều hiến chưng loại chí” nhà sử học Phan Huy Chú cho rằng nó là: “cái mẫu mực để trị nước, cái khuôn phép để buộc dân”. Ngoài bộ luật cơ bản trên, nhà nước thời Lê Sơ còn ban hành nhiều bộ luật khác như:
+ Lê triều quan chế (1471);
+ Thiên nam dư hạ tập (1483);
+ Hồng Đức thiện chính thư (1470 - 1497);
Tóm lại, hệ thống pháp luật thời Lê Sơ mà tiêu biểu là Luật Hồng Đức được thiết lập nhằm mục tiêu bảo vệ quyền thống trị của nhà nước phong kiến tập quyền (trừng phạt nặng những tội làm tổn hại tới vua và triều đình). Bên cạnh việc củng cố trật tự xã hội thì các điều luật đều nhắm đến việc bảo vệ chế độ tư hữu; lợi ích của giai cấp địa chủ, phong kiến và tầng lớp quý tộc quan liêu, đồng thời bảo vệ chế độ gia tộc phụ quyền và đạo đức phong kiến. Mặc dù có mô phỏng luật Trung Quốc, nhưng nhiều điều khoản đã lưu ý đến những tập quán cổ truyền mang tính đặc hữu dân tộc. Điểm tiến bộ của pháp luật thời kỳ này là thể hiện được tính dân chủ, bảo vệ cuộc sống của dân tự do, chống nô tì hóa, chống sự hà hiếp của cường hào, quan lại đối với nhân dân. Tôn trọng quyền lợi phụ nữ trong việc thừa kế gia tài và xét xử ly hôn, được coi là tiến bộ hơn so với luật Trung Quốc đương thời. Có thể nói, bộ Quốc triều hình luật là một công trình lập pháp có vị trí, vai trò rất lớn  trong lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam. Nó là sản phẩm của thời đại chế độ phong kiến đang lên, góp phần đưa quốc gia Đại Việt phát triển đến đỉnh cao.
- Về đối nội: Các vua thời Lê sơ rất chú trọng đến việc trị nước bằng các chế định pháp luật; độc tôn Nho giáo và Nho học; đẩy mạnh phát triển nông nghiệp kết hợp tăng cường rèn luyện quân đội; mở mang giáo dục, khoa cử và chấn chỉnh kỷ cương triều chính… từng bước đưa nước Đại Việt từ một nước bị nô lệ của nhà Minh trở thành một quốc gia độc lập và có vị thế trong khu vực.
- Về đối ngoại: Với lòng tự hào dân tộc, các vua thời Lê sơ đã không ngừng củng cố, phát triển quốc gia dân tộc thống nhất. Lê Thánh Tông nói: “Quyết không để một tấc đất, một thước sông của Thái Tổ lọt vào tay kẻ khác”. Các vua Lê đã thi hành một chính sách hòa hoãn nhưng kiên quyết với nhà Minh trong vấn đề biên giới, phát triển lãnh thổ về phía tây và phía nam. Năm 1471, Lê Thánh Tông cất quân đánh Cham pa, chiếm thành Đồ Bàn (Bình Định), lấy vùng đất mới lập thành thừa tuyên Quảng Nam. Các nước trong khu vực (như Xiêm La, Miến Điện) đều đến triều cống.
* Vai trò của nhà nước thời Lê Sơ:
Trong thiết chế quân chủ tuyệt đối thời Lê sơ, vai trò của nhà vua đã được đẩy lên rất cao với chủ nghĩa “tôn quân”. Nhà nước quân chủ tập trung thời Lê sơ là một nhà nước mạnh và ổn định. Bên cạnh vai trò nhà vua chỉ huy, thống lĩnh quân đội cùng với bộ máy quan lại thực thi chính sách và pháp luật của triều đình được kế thừa và phát huy từ thời Lý – Trần, nhà nước thời Lê Sơ còn đề cao vai trò chỉ đạo và sự can thiệp của mình vào đời sống kinh tế - xã hội, duy trì sự cân bằng giữa những yếu tố nhà nước và dân gian, công hữu và tư hữu; can thiệp và bảo hộ chính sách trọng nông, thu tô; khuyến khích phát triển nền kinh tế tiểu nông - sản xuất nhỏ làng xã, đồng thời hạn chế giao thương với nước ngoài.

3.2.3. Hoàn chỉnh pháp luật và bộ Lê triều hình luật
Năm 1483, sau khi lên ngôi vua, Lê Thánh Tông cho tập hợp những điều lệ đã ban trong các đời vua Lê trước, tham khảo pháp luật thờI Lý - Trần, căn cứ vào tình hình của đất nước mà soạn ra bộ luật mới. Đó là bộ Lê triều hình luật, còn gọi là bộ luật Hồng Đức. Bộ luật này kể cả những điều luật được bổ sung thêm ở thời Lê mạt, gồm 722 điều luật, chia làm 6 quyển, 16 chương.
Nội dung cơ bản của bộ luật nhằm khẳng định và củng cố sự thắng lợi của giai cấp địa chủ, trấn áp mọi hành động chống đối nhà nước phong kiến, xâm phạm đến lợi ích của giai cấp thống trị. Gồm mấy đặc điểm sau:
- Bảo vệ quyền thống trị của nhà nước quân chủ quan liêu. Cả một chương của bộ luật dành cho luật cấm vệ gồm 47 điều, nhằm bảo đảm an toàn hoàng cung và bản thân nhà vua. Những hành vi ra vào hoàng cung trái với thể lệ đều bị trừng trị nặng. Tội mưu phản, mưu đại nghịch, mưu chống lại nhà nước, nhà vua đều bị tử hình, bất cứ ai cũng không được hưởng chế độ bát nghị, không được chuộc tội bằng tiền, không được miễn giảm khi triều đình ân xá.
- Bảo vệ quyền lợi của giai cấp địa chủ phong kiến. Nhà nước có những quy định được ghi vào luật pháp nhằm giành cho tầng lớp quý tộc quan liêu nhiều đặc quyền, đặc lợi. Những đại quý tộc và quan lại cao cấp nếu phạm tội (trừ tội thập ác) thì được ân giảm hay tha bổng theo lệ “bát nghị”. Bảo vệ quyền lợi của nhà nước và của giai cấp thống trị còn được thể hiện trong nhiều điều luật của bộ luật Hồng Đức, nghiêm cấm và trừng phạt nặng những hành vi xâm lấn, chiếm đoạt ruộng đất công, quy định quyền sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, quy định những nguyên tắc mua bán, cầm cố, kế thừa ruộng đất. Có những điều khoản đã trở thành cơ sở pháp lý cho việc chiếm đoạt ruộng đất của giai cấp địa chủ.
- Củng cố trật tự xã hội phong kiến, bảo vệ chế độ gia tộc phụ quyền và các chuẩn mực đạo đức phong kiến theo tinh thần Nho giáo. Cơ sở xã hội nhà nước phong kiến thời Lê sơ là chế độ gia tộc phụ quyền.
Tầng lớp quý tộc quan liêu là đẳng cấp cao nhất trong xã hội, có nhiều đặc quyền, đặc lợi về nhiều phương diện. Có những điều luật quy định nghiêm ngặt về áo quần, ăn mặc, nhà cửa, đồ dùng chỉ dành cho tầng lớp quý tộc quan liêu, dân thường không được dùng. Tầng lớp nô tỳ bị coi là thấp kém nhất trong xã hội, không được coi là thần dân của nhà nước. Đối với phụ nữ, bộ luật Hồng Đức có những điều luật khắt khe hơn đối với nam giới. Tuy nhiên, trong một số điều luật, người phụ nữ thời Lê sơ được pháp luật bảo vệ quyền lợi kinh tế. Con gái được hưởng quyền chia gia tài bình đẳng như con trai, trong trường hợp gia đình không có con trai thì con gái trưởng được quyền thừa kế hương hỏa. Khi phân chia tài sản gia đình do ly hôn, người vợ được lấy lại số tài sản riêng do bố mẹ cho làm của hồi môn và chia tài sản thành hai phần bằng nhau cho hai người. Về mặt hôn nhân, người con gái đã đính hôn nhưng chưa làm lễ thành hôn mà người con trai bổng mắc bệnh không thể chữa, hoặc phạm tội, hoặc phá tài sản thì người con gái được phép xin từ hôn và trả lại sính lễ. Những quy định nói trên nhằm bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ đã thể hiện được tính thực tiễn, tính dân tộc và tiến bộ của luật pháp bấy giờ.
Bộ luật Hồng Đức là bộ luật hoàn chỉnh nhất của nhà nước phong kiến việt Nam. Về cơ bản, bộ luật này là bộ luật hình như tên gọi của nó – Lê triều hình luật, nhưng thực chất, đây là một bộ luật tổng hợp nhiều mặt luật pháp (luật hình, luật hành chính, luật dân sự, luật tố tụng, luật hôn nhân và gia đình…). Bộ luật biểu hiện rõ nét tính chất giai cấp và quyền lực của nhà nước phong kiến đối với nhân dân, nhưng đây cũng là bộ luật tương đối tiến bộ nhất trong thời đại phong kiến Việt Nam, mang đậm nét sáng tạo và tinh thần thực tiễn của giai cấp phong kiến Việt Nam trong giai đoạn đi lên của nó. Giáo sư Oliverôldman, chủ nhiệm khoa Luật Đông Á (Đại học Luật Haward), nhận xét: “Bộ luật thời Lê của nước Việt Nam truyền thống là một công trình bất hủ của vùng Đại Đông Á truyền thống. Nếu ngày mai chúng ta được chứng kiến ở Trung Hoa một cuộc đấu tranh nhằm từ bỏ sự vô tổ chức sau cách mạng văn hóa và đi tới soạn thảo luật pháp nhằm hiện đại hóa đất nước, thì chúng ta cũng thấy triều đại nhà Lê ở Việt Nam vào những thế kỷ đặc biệt của mình đã nổ lực xây dựng một quốc gia dân tộc vững mạnh như thế nào để bảo vệ quyền tư hữu hợp pháp của con người thông qua hệ thống pháp luật tiến bộ, trong đó có nhiều điều đã có thể sánh ngang về mặt chức năng với những quan điểm pháp luật ở phương Tây cận đại”. [2, tr.102]. 
Trong làng xã Việt Nam truyền thống, nhân dân ta thường coi lệ làng cũng quan trọng không kém phép nước. Thời Lê sơ cũng vậy, ngoài luật nước, các làng xã cũng xây dựng và sửa đổi khoán ước, hương ước của làng mình cho phù hợp với điều kiện mới. Việc xét xử theo lệ làng cũng nghiêm ngặt không kém luật nước. Người dân ở các làng xã vẫn mong muốn qua lệ làng, khoán ước, hương ước để thể hiện và bảo vệ quyền tự trị của mình có khi khác với luật pháp của nhà nước. Chính vì thế, Lê Thánh Tông buộc phải chấp nhận cho các làng xã lập “khoán ước và cấm lệ”, nhưng lại ban hành những quy định của nhà nước về việc lập “lệ làng”, chỉ ở “những làng, xã nào có những tục lệ khác lạ” và “quan lại cấp trên duyệt nếu cần thì bác bỏ”, nhằm không cho phép các “lệ làng” làm trái với luật pháp của nhà nước. Nhà Lê muốn thống nhất giữa lệ làng với phép nước, lấy luật pháp nhà nước để trị tội những người không chịu theo tục lệ của làng khi tục lệ đó đã được nhà nước chuẩn y. Luật pháp của nhà nước Lê sơ đã hạn chế và thu hẹp quyền tự trị của các làng, xã rất rõ nét, tăng cường sự lệ thuộc của các làng, xã với nhà nước trung ương, củng cố chế độ quân chủ quan liêu.
3.2.4. Cải cách kinh tế, phát triển nông nghiệp
3.2.4.1. Chế độ lộc điền
Khác hẳn với các triều Lý, Trần, nhà Lê thực hiện chính sách lộc điền, đem ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước ban cấp cho tầng lớp quan lại cao cấp. Chế độ lộc điền được thi hành ngay từ những triều vua đầu tiên của nhà Lê, nhưng chưa  trở  thành quy chế. Đến  thời  vua  Lê Thánh Tông mới được quy định và ban hành thống nhất trong cả nước (1477). Ruộng đất dùng để ban cấp chủ yếu là loại ruộng đất công làng xã. Lộc điền gồm hai loại: một loại cấp vĩnh viễn gọi là ruộng đất thế nghiệp, một loại cấp tạm thời trong một đời, sau khi chết 3 năm thì phải hoàn lại cho nhà nước. Chế độ lộc điền là hình thức ban cấp ruộng đất quy mô của nhà Lê nhằm ưu đãi tầng lớp quý tộc, quan lại cao cấp, biến họ trở thành những địa chủ lớn. Chế độ lộc điền đã góp phần củng cố và phát triển chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất cũng như góp phần xác lập quan hệ sản xuất địa chủ, tá điền và chế độ bóc lột địa tô phù hợp với bước phát triển mới của chế độ sở hữu tư nhân lớn về ruộng đất và của những quan hệ sản xuất phong kiến. Cùng với chính sách quân điền, chính sách lộc điền đã tiến một bước mạnh mẽ vào chế độ chiếm hữu ruộng đất công của làng xã, khẳng định tính chất phong kiến của chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất. Chế độ lộc điền có tác dụng củng cố bộ máy quan liêu, củng cố cơ sở xã hội của nhà nước phong kiến (giai cấp địa chủ), đánh dấu một bước tiến trong quá trình hình thành và xác lập chế độ phong kiến Việt Nam.
3.2.4.2. Chính sách quân điền
Cũng như chính sách lộc điền, chính sách quân điền đã được thực hiện ngay từ những triều vua trước. Đến đời vua Lê Thái Tông, từ năm 1477, chính sách quân điền mới được chính thức ban hành và từ năm 1481, được thực hiện thống nhất trên quy mô cả nước theo nguyên tắc sau:
Tất cả mọi người từ quan tam phẩm đến cô nhi quả phụ đều được chia ruộng công. Những gia đình nông dân thường đã có ruộng đất riêng đầy đủ, không được cấp.
Ruộng xã nào chia cho dân xã ấy, xã nào ruộng quá nhiều, người ít thì cho phép lấy bớt ruộng xã nhiều chia cho xã bên cạnh ruộng ít, người nhiều. Dân trong xã tùy theo thứ hạng được cấp phần ruộng đất khác nhau. Quan hàm tam phẩm được 11 phần, ngũ phẩm được 9,5 phần… Cô nhi, quả phụ được 3 phần.
Ruộng công làng xã cứ 6 năm chia lại một lần. Mọi người cày cấy ruộng công đều phải nộp tô cho nhà nước. Riêng quan lại từ tứ phẩm trở lên do lộc điền ít nên không phải nộp tô.
Chính sách quân điền thời Hồng Đức là một đòn tấn công mạnh mẽ nhằm phủ định quyền chi phối ruộng đất công của làng xã theo tục lệ, buộc làng xã phải tuân thủ những nguyên tắc quy định về phân chia và hưởng thụ bộ phận ruộng đất công – là bộ phận ruộng đất quan trọng nhất, lớn nhất của nhà nước, làng xã lệ thuộc chặt chẽ vào nhà nước, trên nguyên tắc, ruộng đất công làng xã không được đem mua bán, chuyển nhượng, quyền đó thuộc nhà nước trung ương, nhà vua. Nhà nước trung ương, nhà vua với chính sách quân điền đã trở thành người chủ lớn nhất trong cả nước và nông dân làng xã trở thành tá điền của nhà nước, làng xã rơi xuống địa vị là người quản lý ruộng đất cho nhà nước trung ương, nhà vua. Chính sách quân điền góp phần quan trọng vào sự xác lập và hệ thống của những quan hệ sản xuất phong kiến: quan hệ sản xuất địa chủ - tá điền trong xã hội ở thế kỷ XV.
Chính sách này còn có tác dụng giải quyết vấn đề ruộng đất trong nông nghiệp, tạo điều kiện củng cố nền kinh tế tiểu nông, thúc đẩy sản xuất, phục hồi và phát triển kinh tế nông nghiệp trong cả nước. Tuy nhiên, chính sách quân điền của Lê Thánh Tông chứa đựng sâu sắc tính chất giai cấp và còn bộc lộ những mặt tiêu cực và hạn chế, chứa đựng những mâu thuẫn nan giải, đã trói buộc người nông dân vào ruộng đất để bóc lột tô thuế và chịu mọi gánh nặng sưu dịch của nhà nước trong lúc sự củng cố nền kinh tế tiểu nông lại tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của sản xuất hàng hóa, trong tình hình sự phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất đã thắng thế trong xã hội.
3.2.4.3. Chính sách khẩn hoang và đồn điền
Xuất phát từ yêu cầu nhanh chóng phục hồi nền kinh tế nông nghiệp sau một thời gian dài chiến tranh, nhà nước Lê sơ ngay từ rất sớm, đã có những chính sách khuyến khích nhân dân các làng xã khai hoang lập làng, đặc biệt dưới thời Lê Thánh Tông. Nhiều chỉ dụ của nhà vua được ban hành nhằm đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang, lập làng và hợp pháp hóa việc khai hoang, lập làng trong nhân dân, góp phần giải quyết tình hình lưu vong trong xã hội. Nhờ những biện pháp tích cực, cho đến nửa sau thế kỷ XV, diện tích ruộng đất hoang hóa đã được khôi phục, tăng thêm diện tích sản xuất, tăng thêm nguồn thu nhập của nhà nước; bộ phận nông dân tư hữu, tự do tăng lên, điều hòa mâu thuẫn giai cấp, ổn định xã hội, nền kinh tế nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi và có bước phát triển.
Song song với chính sách khai hoang, lập làng, Lê Thánh Tông còn đẩy mạnh việc khai hoang lập đồn điền. Chính sách này bắt đầu được thi hành từ thời Thái Tổ và được mở rộng dưới thời Thánh Tông. Chỉ dụ năm 1481 nêu rõ mục đích lập đồn điền của nhà nước “để khai thác hết sức nông nghiệp, mở rộng nguồn súc tích cho nước”. Nhiều sở đồn điền được thành lập chuyên lo việc mộ dân lưu vong khẩn hoang. Lực lượng được huy động ở hình thức khai hoang này bao gồm cả quân lính đồn trú, tù binh, tội nhân. Nhà nước đặt ra cơ quan chuyên trách công việc khai hoang, lập đồn điền do các chức quan chánh, phó sứ đồn điền phụ trách.
Chính sách đồn điền của Lê Thánh Tông có tác dụng tích cực, thiết thực trong việc mở rộng diện tích sản xuất, phát triển kinh tế nông nghiệp.
Như vậy, khoảng từ năm 1471, thông qua cải cách, Lê Thánh Tông đã tạo được hệ thống hành chính thống nhất trong phạm vi cả nước. Hệ thống khá gọn gàng với chức trách phân minh, bảo đảm sự chỉ đạo và tập trung quyền lực của trung ương. Đây là mô hình tiên tiến nhất của chế độ quân chủ phong kiến đương thời, trong đó, trung ương và địa phương gắn liền nhau, quyền lực được bảo đảm từ trên xuống dưới. Lê Thánh Tông là một vị hoàng đế lớn của một vương triều mạnh, có nhiều đóng góp trong lịch sử dân tộc...



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét